Thứ Ba, 28 tháng 4, 2015
Tháng Tư Từ Hai Góc Nhìn
19:41
Hoàng Phong Nhã
No comments
Lại
tháng Tư. Lại thấy trên báo chí và các mạng lưới truyền thông xã hội
trên internet những bài viết về một trong những biến cố lớn nhất trong
lịch sử Việt Nam hiện đại: tháng Tư 1975. Tuy nhiên, năm
nay, các bài viết, đặc biệt ở hải ngoại, dường như khác những năm
trước. Trước, người ta chỉ tập trung vào sự sụp đổ của chính quyền miền
Nam và những hậu quả của nó. Năm nay, bên cạnh cái nhiều người gọi là
ngày “đổi đời” ấy, người ta còn tập trung vào một khía cạnh khác: 40 năm
người Việt định cư ở nước ngoài.
Thì
cả hai đều có quan hệ nhân quả với nhau thôi: Bởi vì chính quyền miền
Nam sụp đổ nên mới có hàng triệu người liều mình vượt biên hay vượt biển
để ra đi tìm tự do. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh đến khía cạnh sụp đổ,
người ta chỉ thấy những bi kịch; khi chú ý đến khía cạnh định cư ở nước
ngoài, người ta thấy những khía cạnh tích cực và lạc quan hơn. Cho nên,
cùng một biến cố, tuỳ theo góc nhìn, người ta thấy những mảng màu khác
hẳn nhau.
Chỉ
nhìn vào khía cạnh “thua trận”, sau việc mất chính quyền là nạn độc tài
và tàn bạo với cảnh hàng chục ngàn người bị lùa vào các trại lao động
cải tạo, cảnh đánh tư sản mại bản, cảnh xua dân chúng vào các khu kinh
tế mới đầy khổ ải, cảnh con cái của những người từng làm việc cho chế độ
cũ bị kỳ thị ngay cả trong việc học vấn, và cuối cùng, cảnh hàng triệu
người bỏ nước ra đi, trong đó có cả hàng trăm ngàn người bị hải tặc hoặc
bị đắm tàu bỏ xác ngoài biển khơi. Ngày ấy, nói theo Võ Văn Kiệt, có
triệu người vui và triệu người buồn. Nói thế là hơi nhẹ. Bởi đâu phải
chỉ “buồn”. Người ta còn đau khổ, thống khổ vì những mất mát không thể
bù đắp được. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người gọi đó là ngày quốc
hận.
Sau
ngày “quốc hận” ấy là những ngày tháng tang thương bi thảm. Về phương
diện kinh tế, đời sống mọi người càng ngày càng cùng cực, ngay cả lúa
gạo cũng không đủ ăn, phải ăn độn khoai, độn sắn và ăn cả bo bo từ năm
này sang năm khác. Về phương diện xã hội, với chính sách hộ khẩu và sổ
lương thực, mọi người bị mất cả các quyền tự do cư trú và đi lại. Về
phương diện tôn giáo, người ta cũng không được quyền tự do thờ phượng:
các nhà tu đào tạo tu sĩ bị đóng cửa, việc đi chùa hay đi nhà thờ cũng
gặp rất nhiều khó khăn. Về phương diện chính trị, tất cả các quyền căn
bản của con người, từ quyền tự do tư tưởng đến tự do ngôn luận, từ quyền
tự do đi lại đến tự do hội họp, từ quyền tự do biểu tình đến quyền tự
do lập đảng phái… tất cả đều bị bóp nghẹt.
Bên
cạnh những sự “đổi đời” như thế, có một khía cạnh khác năm nay mới được
chú ý nhiều: cộng đồng đông đúc với khoảng trên bốn triệu người Việt
sống ở rải rác trên 100 quốc gia khác nhau kể từ sau năm 1975.
Nhìn từ góc độ di dân học, cộng đồng người Việt ở hải ngoại có mấy đặc điểm nổi bật:
Thứ
nhất, trong khi các làn sóng tị nạn trên thế giới phần nhiều có tính
chất khu vực, chủ yếu di cư đến một quốc gia láng giềng nào đó (ví dụ từ
Iraq chạy sang Saudi Arabia, Jordan hay Turkey; từ Afghanistan chạy
sang Pakistan), làn sóng tị nạn của người Việt, ngược lại, có tính chất
toàn cầu: sau khi đến một quốc gia láng giềng, họ được phép tái định cư ở
một quốc gia thứ ba, hầu hết là các nước Tây phương, vừa xa xăm vừa xa
lạ về văn hoá (trong đó, đông nhất là ở Mỹ với gần 2 triệu; kế tiếp là
Pháp với khoảng 300.000; Úc và Canada mỗi nơi trên 200.000 người).
Thứ
hai, ở các quốc gia ấy, người Việt thường có xu hướng sống tập trung ở
các tiểu bang hoặc các thành phố lớn và đông dân nhất.
Thứ
ba, mặc dù cộng đồng người Việt hải ngoại được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau, từ di tản đến vượt biên, từ diện HO đến diện bảo lãnh
gia đình, trên căn bản, yếu tố chính trị vẫn là nòng cốt: đó là một cộng
đồng tị nạn.
Đặc
điểm thứ nhất là một trở ngại cho quá trình hội nhập: từ một nước thuộc
loại nghèo khó nhất thế giới đến sống ở một quốc gia thuộc loại tiến bộ
và giàu có nhất thế giới với một ngôn ngữ và một văn hoá khác biệt,
nhiều người cảm thấy ngỡ ngàng và cần thời gian mới có thể ổn định được
cuộc sống. Đặc điểm thứ hai làm xuất hiện những khu phố người Việt, ở
đó, người Việt sống tập trung bên cạnh nhau với một bản sắc riêng khác
với những người bản xứ hay các cộng đồng di dân khác. Đặc điểm thứ ba
làm cho xu hướng chính trị thành một trong những yếu tố chủ đạo hình
thành bản sắc của cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại: dù sống ở nước
ngoài lâu đến mấy, phần lớn người Việt vẫn đau đáu theo dõi những chuyển
biến chính trị ở trong nước và vẫn tha thiết muốn góp phần vào việc cải
thiện tình hình ở quê nhà.
Khi
nhìn lại 40 năm sống ở hải ngoại, hầu hết các cơ quan truyền thông đều
nhấn mạnh đến những thành tựu, từ lãnh vực khoa học, giáo dục đến các
lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Ở đâu cũng có những điểm son rất
đáng tự hào.Phần lớn các tờ báo bằng tiếng Việt ở hải ngoại đều dành một
số trang để đăng tải các bài viết ca tụng những người thành đạt. Ở đây,
tạm gác qua một bên những cá nhân xuất sắc, chúng ta chỉ nhìn cộng đồng
người Việt như một tập thể. Với tư cách tập thể, trong quan hệ với Việt
Nam, cộng đồng người Việt ở hải ngoại có hai đóng góp nổi bật nhất.
Thứ
nhất, về phương diện kinh tế, số tiền người Việt ở nước ngoài gửi về
Việt Nam hằng năm là một nguồn doanh thu quan trọng cho Việt Nam. Chỉ
tính qua con đường gửi tiền chính thức, số tiền người Việt gửi về cho
thân nhân trong nước vào năm 2009 là 6.2 tỉ Mỹ kim; năm 2010 là 8.1 tỉ;
năm 2011 là 9 tỉ và năm 2013 là 11 tỉ biến Việt Nam thành một trong 10 quốc gia nhận kiều hối cao nhất trên thế giới.
Thứ
hai, về phương diện chính trị, cộng đồng người Việt ở hải ngoại tồn tại
như một lực lượng đối kháng chế độ độc tài trong nước. Cái gọi là “lực
lượng” này phần lớn khá tản mác và tự phát, không có lãnh tụ và cũng
không có phương hướng hoạt động chung. Tuy nhiên, đóng góp của họ đối
với cuộc tranh đấu cho dân chủ ở trong nước không nhỏ. Trong bài “Cộng đồng hải ngoại như một lực lượng đối lập”
đăng trên blog này vào đầu năm 2010, tôi viết: “nếu không có những
tiếng nói đối lập ồn ào và gay gắt xuất phát từ, hoặc được khuếch tán
bởi, cộng đồng hải ngoại, thì những vụ tham nhũng khủng khiếp ở Việt Nam
làm sao có thể phơi bày ra trước công luận? thì những kế hoạch khai
thác bauxite ở Tây nguyên làm sao có thể thu hút sự chú ý của quần chúng
đông đảo đến như vậy? thì những hành động lấn chiếm vùng biển Việt Nam
của Trung Quốc và thái độ nhu nhược của chính phủ Việt Nam làm sao có
thể làm nhức nhối nhân tâm đến như vậy? thì những vụ vi phạm nhân quyền
thô bạo ở Việt Nam làm sao đến tai thế giới bên ngoài được?”
Hai
khía cạnh vừa nêu mâu thuẫn với nhau: Một mặt, về chính trị, cộng đồng
người Việt ở hải ngoại phản đối gay gắt chính quyền trong nước; mặt
khác, về tài chính, qua việc chuyển tiền về cho thân nhân trong nước, họ
góp phần làm cho chính quyền Việt Nam giàu có hơn và có nhiều điều kiện
để trấn áp dân chúng hơn.
Nghịch lý ấy ai cũng biết nhưng không phải dễ giải quyết.
Nguyễn Hưng Quốc
0 nhận xét:
Đăng nhận xét