Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 7 tháng 4, 2015

Tưởng Nhớ Một Người Anh Em


TƯỞNG NHỚ MỘT NGƯÒI ANH EM

(và một số bài tranh luận)

Lữ Phương



 


13. Tưởng Nhớ Một Người Anh Em


 

Có nhiều người đọc tên anh, tưởng đang gọi tên một người con gái: Nguyễn Ngọc Lan. Nhưng với tôi, hình hài anh mỏng manh thua cả một người con gái, anh đích thực là một bậc nam nhi. Từ hôm anh mất đến nay, đã đọc hơn mười bài viết đây đó nhắc đến tên anh với những nhận xét khác nhau, tôi thấy ý kiến sau đây dường như thích hợp với anh hơn hết: dù khi là linh mục hay đã hoàn tục, lấy vợ, có con, suốt đời, lúc nào anh cũng một mực trung thành với đức tin riêng biệt mà anh đã chọn, dám sống chết cho đức tin ấy, dựa vào đó không ngừng dấn thân tìm cách thay đổi cuộc sống, bằng lời nói, chữ viết và việc làm, thách thức tất cả, bất chấp tất cả những gì thiệt thòi và không hay mang đến cho bản thân.  

Tôi không có được lòng tin đó, cũng không chia sẻ hoàn toàn thái độ sống nhiều khi quá “cực đoan” của anh (như nhiều người đã nhận xét), nhưng qua suốt quãng thời gian hơn 30 năm gần gũi anh trong những hoạt động có mục tiêu chung (nhất là trong viết lách, làm báo sau 30.4.1975), tôi thật lòng kính trọng nhân cách của anh và có ý muốn bắt chước cách nói của anh, trong một bài báo bằng tiếng Pháp hồi anh còn ở bên Pháp, xem anh như một người anh em của mình, một người anh em theo cái nghĩa mà anh đã viết về những Phật tử trong nước bấy giờ đang bị chế độ độ Ngô Đình Diệm truy lùng, bắt bớ: “Phật tử, người anh em của tôi – Bouddhiste, mon prochain” (Témoignage Chrétien, 29.8.1963).

Có một lúc tôi cũng là người đi theo mấy “người anh em” đó, nhưng lại không phải là một Phật tử thuần thành lắm: kính Phật nhưng vẫn cúng Ông Bà và thắp nhang trước bàn thờ Ông Địa, có vẻ linh tinh và nghiêng về phần vô thần nhiều hơn. Đến khi ngả sang cộng sản, bỏ mọi thứ qua một bên, một cách rất xác tín và khoái trá, tự cho mình là đồ đệ của Marx, tưởng rằng như vậy mới là “vô thần khoa học” nhưng về sau do tìm hiểu kỹ mà biết được cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin” chỉ là một thứ “tôn giáo trần tục” chẳng có gì khoa học cả, tôi liền nhận ra mình đã trở thành một kẻ vô thần thứ thiệt: càng ngày càng bớt đi những cám dỗ mộng ảo, nhưng có lẽ vì vậy mà lòng ngày càng chai cứng trước những hứa hẹn về một thế giới bên kia.

Một thứ vô thần như vậy thì quả thật vô phương cứu chữa. Bởi thế, do quý trọng anh mà tìm đọc những gì anh viết về Kitô giáo – Đường hay pháo đài ? (1969), Chủ nhật hồng giữa mùa tím (1997) – sau đó cố gắng tìm hiểu thêm bằng cách đọc cả Kinh Thánh cùng với Sách giáo lý của Giáo hội Công giáo anh gửi cho (soạn sau Công đồng Vatican II, do cựu linh mục Trần Thái Đỉnh dịch), dù thành tâm cách mấy, tôi vẫn chỉ có thể coi là biểu tượng những gì anh nói về Huyền nhiệm Con người, về Tội tổ tông, Phục sinh, Tin mừng, Cứu rỗi… – những biểu tượng ấy với tôi không khác gì với những biểu tượng đã có và đang có trên thế giới này.  

Tuy vậy khi đọc những đoạn anh nói về Đức Yêsu của anh, tôi thấy thú vị và có lúc nao nao. Có vẻ như ông ấy hơi giống anh: gầy gò nhưng quá xác tín và hay nổi giận, nhiều khi thốt ra những lời lẽ mà anh gọi là “loạn”, “quá đáng”, chẳng kiêng nể ai cả! Có một chút kinh nghiệm để dị ứng với cái thế giới quan phương lúc nào cũng làm ra long trọng, quen thói lê la đầu đường xó chợ, tôi thấy ông ấy rất đỗi bình dân và cũng hơi luộm thuộm giống tôi, nhưng lại có một điều tệ hơn tôi rất xa: suốt đời ông không có nhà cửa, suốt đời ông chỉ miên man trên đường, cuối cùng bị đóng đinh trên đường một cách thảm thương. Về mặt này thì tôi hiểu được tại sao anh nói đạo của anh là “đạo ngoài đường”.

Những con đường nhân sinh bụi mù, hỗn tạp. Trên những con đường ấy, ông Yêsu của anh gặp mọi hạng người. Có những đám quan quân đế quốc hằm hè, để bị thẩm vấn và đối phó. Có những kẻ giả hình kênh kiệu (những kẻ mà Sartre gọi là lâches hoặc salauds), để phải mắng mỏ họ. Nhưng nhiều nhất vẫn là những ngưởi nghèo khổ, những người bất hạnh, bị hắt hủi, những người ngoại đạo, để nói chuyện với họ, giúp đỡ, an ủi họ… Chúa của anh, như vậy, cũng theo anh diễn tả, suốt đời là một kẻ thuyết pháp “không có chỗ trụ trì”, một người lữ hành “không có chỗ ngả đầu”, người lữ hành ấy chưa hề có ý định dừng chân lại ở một trú sở yên hàn nào, dù đó là một nhà thờ nguy nga hay một giảng đường hoành tráng.  

Một ông Chúa lang thang như vậy không khác gì thái tử Tất Đạt Đa, bỏ cung vàng điện ngọc đi tìm sự thật, và khi sự thật đã tìm ra để thành Phật (định nghĩa như người giác ngộ) thì ông Phật ấy căn cốt vẫn chỉ là một “ngón tay trỏ” chỉ đường. Nhận xét ấy của anh quả thật đã làm tôi hết sức bất ngờ, do tôi đã đọc Phép giảng tám ngày của De Rhodes nói rất tệ về Phật. Nhưng tôi hiểu ý anh: một đạo Phật như vậy không khác gì đạo Chúa vì chỉ tìm được lý do tồn tại trong cõi nhân gian ta bà, như một nỗ lực tìm kiếm và đối thoại khó khăn với một chúng sinh hỗn tạp, một mời gọi về một viễn cảnh mênh mông, chỉ có thể khẳng định bằng một lòng tin… chứ không hề là những xác quyết chắc nịch trong kinh kệ, bày biện trong những cung miếu xây dựng đâu vào đó, kiên cố như những pháo đài.  

Anh có viết mấy dòng làm tôi không bao giờ quên được: người theo đạo không phải là người có đạo, hiểu theo nghĩa là một chủ nhân ông sở hữu một cái gì đó để làm mình “có phước” hơn người khác (giống như có nhà rộng, có xe chiến, có vợ đẹp, con ngoan…), sau này được lên thiên đường, ngon lành hơn những kẻ trầm luân trong địa ngục, mà chính là người biết cảm thông những đau khổ, mất mát của người khác nhiều hơn, biết thương yêu người khác nhiều hơn, từ đó biết trách nhiệm với người khác nhiều hơn. Anh gọi một người theo đạo như vậy là người đi đạo – anh thường nói đi nói lại: “đạo là đường” – định nghĩa như một tín hữu không có gì trong hành trang ngoài một lòng tin để mang tới cho đời sống một ý nghĩa, hoàn toàn xa lạ với những kẻ muốn núp vào một định chế tinh thần nào đó được bảo vệ bằng những thứ quyền uy trần tục, dễ dãi, tầm thường.

Một tinh thần tôn giáo như vậy không thể nào tách khỏi những môi trường quy định đời sống con người; nhưng do lẽ những con người bấy lâu nay vẫn lầm than trong các địa ngục cho nên hãy quan tâm, tìm đến với những con người đang lặn ngụp trong những địa ngục ấy trước khi nói đến Thiên đàng. Với một tinh thần tôn giáo như vậy, một nước Thiên đàng trừu tượng, yên ấm, đối lập với Địa ngục chỉ là sản phẩm viễn mơ của những gã trọc phú giả hình. Và một quan niệm về đi đạo như vậy rõ ràng không thể chỉ hướng về cứu rỗi linh hồn mai sau mà còn phải đảm nhiệm nhiều hơn cuộc đấu tranh làm cho tốt đẹp hơn cái đời sống hiện thực hôm nay.  

 ***

Có thể nghĩ rằng những người đi đạo theo cách của anh đã muốn men theo triền dốc của những “linh mục đỏ” – chủ trì một Thần học Giải phóng đối lập với Thần học Vâng phục – bắt nguồn từ một số nước Mỹ La Tinh trong những năm 60, 70 của thế kỷ trước. Đọc anh tôi thấy anh không công khai trực tiếp ủng hộ xu hướng này, nhưng ẩn chìm dưới những dòng chữ và trong hành động của anh, tôi thấy ảnh hưởng của xu hướng đó là có thật, nhưng chỉ biểu hiện như một nguồn cảm hứng kín đáo, dựa vào đó anh bổ sung và tác động thêm vào đường lối canh tân của Giáo hội thời kỳ Công đồng Vatican II (1962-1965), “cấu trúc lại” hình ảnh của Chúa trong diễn đạt và chưng cất lại ý nghĩa của Kinh Thánh theo quan điểm của anh.

Tôi đã nghe nói đến những phản ứng gay gắt của nhiều người (chủ yếu là những đồng đạo của anh) với cái quan điểm mang tính “phản chứng” hoặc “nổi loạn” mà người ta thường cho là quá “cấp tiến” đó. Nhưng với những người ngoại đạo như tôi, vật vờ trong trong cái bầu khí tù hãm về tư tưởng của những “phố thị đìu hiu”, anh đã xuất hiện như một cuộc hội tụ thật là mới mẻ về mặt tinh thần: tất cả những khác biệt về niềm tin hay không tin, hữu thần hay vô thần đều có thể gặp nhau và đối thoại trong cuộc tranh đấu thay đổi vận mệnh con người trên thế gian này. Nhất là vận mệnh một dân tộc nhược tiểu, bị trị triền miên, nghèo đói triền miên, đang bị lôi vào một cuộc chiến tranh khốc liệt chưa từng có trong lịch sử của mình.

Như nhiều thanh niên khác, tôi đã nhìn về anh chăm chú, sau nhiều cuộc “xuống đường” mệt mỏi từ 1963 trở đi. Sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm kéo theo sự sụp đổ của cái huyền thoại về một miền Nam “tự do dân chủ” đã trở thành điều hiển nhiên không cần bàn cãi nữa. Những nỗ lực ồn ào của nhữrng chính khách mong tìm ra một thứ chính nghĩa mới lôi kéo được chúng tôi đi theo để tiếp nối chế độ Ngô Đình Diệm trên con đường chống bọn “quỷ đỏ vô thần” đã không mang đến gì ngoài những năm tháng xáo trộn, rã rời. Cuộc “cách mạng xã hội” mệnh danh “không cộng sản” do một số trí thức đề xuất từng làm chúng tôi bâng khuâng lãng mạn vì tính chất táo bạo của nó cuối cùng đã trở thành những khẩu hiệu tặng không cho những cán bộ bình định nông thôn có trụ sở ở Vũng Tàu do Mỹ lập ra và tài trợ.

Anh đã về nước vào đúng cái thời điểm chuyển động gay gắt đó trong tâm tư cả một thế hệ thanh niên lớn lên ở miền Nam sau 1954, giờ đây đã không còn có sự phân biệt giữa Phật giáo hay Công giáo, Nam kỳ hay Bắc kỳ, di cư hay không di cư nữa. Tất cả mọi toan tính về cuộc sống tương lai yên lành của chúng tôi đều trở nên bèo bọt không khác gì những ảo tưởng tinh thần từng ấp ủ đã vỡ tan trước cái thực tại chiến tranh ngày càng đụng chạm trực tiếp đến bản thân mỗi người đàn ông: đi lính hay không đi lính, nếu không muốn đi lính thì làm sao để trốn lính, để khỏi chết, còn đã đi lính rồi, nếu phải chết thì sẽ chết cho ai, chẳng lẽ thí mạng mình cho một nhúm những kẻ thối nát đang hô hào chống cộng chỉ với mục đích duy trì sự tồn tại thối nát của họ?

Tâm trạng xao xuyến ấy đã được phản ảnh rất rõ rệt trên những trang viết trong những tác phẩm của những tác giả quen biết bấy giờ như Thế Uyên, Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam, Dương Nghiễm Mậu, Nguỵ Ngữ, Thế Vũ v.v… đặc biệt phát triển mạnh mẽ khi cuộc chiến tranh lan tràn ra khắp nước, mở rộng ra cả toàn cõi Đông Dương. Máu lửa, thây người ngã gục, què cụt, đui mù, goá phụ, khăn tang, nhà cửa, núi rừng, đồng ruộng tan hoang, hoài nghi, buồn nản lảng vảng khắp nơi. Cái hình tượng người lính Cộng hoà “bảo quốc an dân” mà bây giờ có người còn luyến tiếc nói đến, nếu nhớ lại cho chính xác trong những ngày máu lửa cũ thì phải cố mà thành thật để nhận ra rằng hình tượng đó chỉ tồn tại trong cái dòng văn chương mà Nguyên Sa gọi là “văn hoá tâm lý chiến” thôi. Và cũng chỉ là một thứ “vòng hoa nguỵ tín” như cái tựa một truyện ngắn của Thế Vũ thôi.

Anh về nước trong tình thế đó, anh đã hoà nhập ngay vào nỗi hoang mang của thế hệ chúng tôi. Nhưng với cái tâm thức và lý luận phản kháng có sẵn trong người từ những ngày du học, anh đã mang đến cho chúng tôi – những người anh em của anh đồng thời cũng là đồng bào của anh – một lời giải đáp hiện thực, minh bạch hơn những gì chúng tôi đã cảm thấy: chính sự hiện diện của hơn nửa triệu quân viễn chinh Mỹ cùng với bộ máy chiến tranh khủng khiếp của họ đã là nguyên nhân trực tiếp gây nên tang thương cho toàn thể dân tộc chúng ta, cho toàn thể đất nước chúng ta vào lúc bấy giờ. Thật sự thì trong sự lí giải của anh mọi việc không đơn giản là như vậy nhưng xét đến cùng thì chủ đạo chính là như vậy. Luận đề này anh đã tập trung triển khai trong một loạt bài viết trên Tin Sáng và một số báo khác từ những năm 1970 trở đi, tập hợp lại trong Cho cây rừng còn xanh lá (1971) và Nước ta còn đó (1973).  

Tôi đã đọc lại những tác phẩm này của anh, vẫn thấy bồi hồi như mấy chục năm về trước. Chỉ là những bút ký ngắn viết cho các nhật báo, nhưng ở đó đã bộc lộ toàn diện con người của anh: từ những kiến thức sâu rộng về lịch sử thế giới và dân tộc đến những hiểu biết uyên thâm về tôn giáo (hiển nhiên đầy đủ nhất vẫn là tôn giáo của anh), từ cái lôgích chặt chẽ, nhất quán khó bề bắt bẻ trong lập luận và bố cục, đến cái hơi văn lúc nào cũng tha thiết nồng nàn khi nói đến nỗi đau của những người bất hạnh, bên cạnh những lời lẽ châm biếm độc địa của anh với những kẻ ăn trên ngồi trốc, hể hả với tư thế thống trị và nô lệ ngoại bang của mình… – tất cả đã giới thiệu đầy đủ phẩm chất lý tưởng trong sáng và tài năng luận chiến của một người trí thức Công giáo có xu hướng thiên tả xuất hiện cùng với những trí thức thiên tả khác trong hậu bán thế kỷ 20.

Lớn lên trong cái không khí văn hoá những năm 1960 đó (sự chọn lựa tự do của Sartre, tư tưởng nổi loạn của Camus, Marx-Mao-Marcuse và Mai (tháng 5) 1968…), tôi đã nhìn thấy qua cái ý hướng tôn giáo riêng biệt của anh hình ảnh tiêu biểu của một lớp người tạo nên một phong trào dấn thân có nguồn gốc từ một hoàn cảnh lịch sử đặc thù nay đã trở thành hoài niệm. Nhìn trong viễn cảnh tổng thể ấy, tôi đã cảm nhận được qua anh một phần cái hơi thở phản kháng của thời kỳ đó, từ các nước Âu, Mỹ lan toả ra khắp nơi, xuất phát từ cuộc phủ định triệt để của những sinh viên, trí thức, tôn giáo chống lại những guồng máy quan liêu thống trị hiện tồn, bộc lộ tập trung trong sự phủ định cuộc chiến tranh can thiệp của Mỹ vào Việt Nam, từ cuộc tự thiêu của N. Morrison đến toà án Bertrand Russell, từ J. P. Sartre, N. Chomsky đến Thích Nhất Hạnh, từ Daniel Ellsberg với Hồ sơ mật Ngũ giác Đài đến “Chết mới được ra lời” của Nhất Chi Mai…

Anh đã thể hiện sự phản kháng phổ biến đó ở nơi quê hương riêng biệt của anh, trên những đường phố nồng nặc mùi lựu đạn cay do Mỹ viện trợ, trên cả một đất nước từ Nam chí Bắc bị B52 và thuốc khai quang của Mỹ làm cho tan hoang, thương tật. Có thể nói một cách thật đơn giản: dù cho cội nguồn của cuộc chiến như thế nào, dù với một nhân danh nào đi nữa thì hành vi can thiệp viễn chinh của Mỹ vào Việt Nam cũng đã trở thành một cuộc diệt chủng bằng những phương tiện giết người hiện đại nhất, độc ác nhất, và chính vì cuộc diệt chủng khốc hại ấy mới có sự dấn thân quyết liệt của cá nhân anh. Và cũng là điều kiện để hình thành ra cái quan niệm “sống đạo” của cả một lớp người “Việt-Nam-Công-giáo” đi đạo như anh. Cả các cuộc đấu tranh kiên cường của những Phật tử, người anh em của anh. Và của cả những kẻ vô thần bơ vơ như tôi, cũng có thể gọi là anh em của anh. Bởi vì như anh nói: giữa tất cả chúng ta, dù khác nhau như thế nào đi nữa thì vẫn còn có một rừng sầu riêng đề gìn giữ cho nhau. Vì nước ta còn đó. 

***


Ca ngợi những người “dám sống chết cho lòng tin” của mình, anh có nhắc đến Camilo Torres như một nhân chứng đã từng đi trên con đường có “những vết chân quảng đại và chan hoà ánh sáng”, nhưng lại không nói rõ việc vị linh mục này đã thể hiện lòng tin đó bằng cách vào bưng gia nhập Đội quân Du kích Giải phóng Quốc gia, chống lại những ngưởi cầm quyền Colombia thối nát, và đã tử đạo như một chiến binh. Anh không nói rõ điều đó nhưng chúng tôi biết anh đã thầm lặng muốn noi theo: tháng 4 năm 1968, là một linh mục nhưng không xin phép ai, anh đã đồng ý ra bưng, sống mấy ngày liền ở một vùng ven dưới những tiếng gầm rú khủng khiếp của máy bay và bom pháo trong một trận càn của quân đội Sài Gòn. Không phải để trở thành một “giải phóng quân” như Camilo Torres mà là để gặp một lĩnh tụ cộng sản bàn tính một giải pháp hoà bình cho cuộc chiến đã kéo quá dài trên đất nước.

Đúng vào những ngày hôm đó, bằng một đầu mối khác, tôi cũng đã vào bưng như anh, đúng cái nơi mà anh đã vào và cũng đã phải đi “chém vè” thục mạng dưới bom pháo dữ dội trong trận càn mà anh đã gặp. Sau đó cùng một số anh em khác (có Châu Tâm Luân, Thiếu Sơn…) anh trở về Sài Gòn, còn tôi thì ở lại, đội bom, nằm hầm bí mật mấy tháng, suýt chết mấy lần mới được chuyển lên R rồi ở lại đó mãi cho đến khi chiến tranh chấm dứt. Cũng như anh, lúc đó tôi cũng đồng ý ra bưng gặp những người cộng sản để tìm hoà bình cho đất nước (tôi được cấu tạo như thành viên của một tổ chức có cái tên lòng thòng là “Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam, khu Sài Gòn Chợ Lớn, Gia Định”), tưởng hoà bình đã đến trong tầm tay, nhưng rồi đã phải đợi chờ đến 7 năm sau mới có được nhưng với một nội dung ngoài sự hình dung của anh và tôi vào những ngày Mậu Thân năm ấy. 

Từ một kẻ vô thần, trong thời gian ở lại trong chiến khu, tôi đã trở thành cộng sản. Còn anh thì trở về để làm một linh mục thân cộng. Cùng với nhiều trí thức Công giáo khác anh bị chính quyền Sài Gòn kết tội là “nguỵ hoà”, viết lách, hành động “sặc mùi cộng sản”. Nhưng với anh điều đó không có gì quan trọng. Chuyện hoà bình và ngay cả chuyện “xã hội chủ nghĩa” nữa, Giáo hoàng Paul VI, dù tỏ ra thận trọng, bấy giờ cũng đã có định hướng không hoàn toàn tiêu cực. Còn chuyện “chống Mỹ cứu nước” mà anh công khai cổ vũ thì lại chẳng cần nói thêm. Anh đã trình bày minh bạch trong những bài viết của mình rồi: cộng sản hay không cộng sản, Công giáo hay không Công giáo thì chúng ta đều là những người anh em của một đất nước có chung một lịch sử và văn hoá, đều là những nạn nhân trong một cộng đồng đang bị bom đạn Mỹ làm cho tuyệt giống nếu chiến tranh cứ như thế mà kéo dài, và như vậy thì “chống Mỹ như người Việt cộng sản” (US go home!) có gì sai trái để phải hoạnh hoẹ nhau, trừ phi người ta cứ nhất định muốn làm lơ lái xe tăng cho Mỹ để tiếp tục bắn giết anh em mình! 

Những người chống cộng cuồng tín ngày nay, không cần biết đến cái hoàn cảnh thực tế khắc nghiệt nào đã đẩy những người như anh vào con đường hợp tác với cộng sản, nên sau 30.4.1975 thấy anh lên tiếng phê bình quyết liệt cái thực thể chính trị mà anh đã ủng hộ một thời, họ đã khơi lại những ngày đã qua của anh, buộc anh phải “sám hối” cái tội lỗi mà họ cho là anh đã phạm phải trước đây, như là “đâm sau lưng chiến sĩ”, “khuấy rối hậu phương” hoặc “giúp cộng sản cưỡng chiếm miền Nam”… – giả định cái thực thể miền Nam ấy là một địa đàng chỉ có sữa và mật tồn tại bên ngoài biên cương của tổ quốc, một ốc đảo tự do hết cỡ, không hề có thối nát, độc tài, không hề bị nửa triệu quân Mỹ giày xéo, không cùng chung số phận của một dân tộc được Mỹ ban tặng cho 6 triệu tấn bom trong khoảng 5 năm (từ 1965 đến 1970) từ Nam chí Bắc, tính trung bình một đầu người hưởng được 200 kílô chất nổ “viện trợ”, chưa kể 200 kílô chất nổ linh tinh khác! Trong những buổi nói chuyện với anh, anh cho biết anh không quan tâm đến những thứ lý lẽ ngang phè của những người đó, cho rằng đó chỉ là nỗi oán hận của những người theo Mỹ bị Mỹ bỏ rơi, mất tất cả nên cần một thứ bung xung nào đó để chửi bới cho đỡ buồn.

Còn với những người cộng sản đã nhân danh một nhu cầu an ninh nào đó mà họ cho là cần thiết để quản chế anh trong ba năm (1990-1993) thì trước các đợt thẩm vấn và hỏi cung truy bức của họ, anh cho biết anh đã nhất quyết không trả lời: tất cả những gì cần nói anh đã nói hết trong các bài viết của anh, đặc biệt nhất là trong mấy ngàn trang nhật ký mà họ đã tịch thu không hề trả lại cho anh. Tôi đã đọc qua những cuốn nhật ký ấy cùng với tập hợp những bài anh đã viết từ 1975 đến 2000 mang tên Hẹn thắp lên (Trình bày, 2000) và nhận ra được ý nghĩa bao hàm trong thái độ ấy của anh thật rõ ràng, đơn giản. Từ ngày thống nhất đất nước đến nay, những người cộng sản các anh đã suy thoái hoàn toàn trong quyền lực, đã trở nên đối lập hoàn toàn với cuộc sống của nhân dân, các anh đã trở thành chai sạn, không thể hiểu nổi lý do những người theo các anh bây giờ đã phải chống các anh. Tôi không lập ra một tổ chức nào để lật đổ các anh vì tôi không phải là người làm chính trị, nhưng là người hoạt động trong lĩnh vực tinh thần, tôi không thể nào im lặng được trước những sai lầm không thể nào biện minh được của các anh từ đó đến nay.

Thái độ của anh với những người cộng sản cầm quyền sau ngày 30.4.1975 như vậy vẫn nhất quán với tinh thần dấn thân trước đây của anh: không thoả hiệp với bất cứ định chế nào tự biến thành những lô cốt xa rời những khổ đau của con người, nhất là sơn lên đó một màu ý thức hệ độc tôn để áp bức. Sự phản kháng của anh thật gay gắt, nghiêm khắc, nhưng anh không phủ nhận những gì đã làm trong quá khứ để chạy theo một thứ chủ nghĩa chống cộng cực đoan đang nhen nhúm lại ở Việt Nam, nhất là sau khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Về Hồ Chí Minh, chính anh đã thiết kế bìa, cho in và phổ biến 3 đợt hơn 300 cuốn Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh của tôi (2002, 2005), nhưng trong thâm tâm vẫn kính trọng Hồ Chí Minh như một nhà yêu nước, nếu cần phê phán những sai lầm của ông, anh khuyến khích một thái độ nghiêm chỉnh và thận trọng. Về chủ nghĩa Marx, là người Công giáo anh hiểu rõ ý nghĩa của nó, nhưng cũng là người dạy triết học anh không chấp nhận được sự liều lĩnh của một số cây bút lên tiếng phủ định, chửi bới một cách hồ đồ, hàng tôm hàng cá. Tính chất thực tế của cái chế độ mệnh danh là “xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam là điều được anh quan tâm nhiều hơn để phê phán, qua những biểu hiện hằng ngày trong đời sống: với anh, đó chỉ là một thứ pháo đài ý thức hệ do những kẻ cuồng ngạo, thống trị tạo ra để giam hãm ý thức con người, không khác bao nhiêu những pháo đài khác đã xuất hiện trong lịch sử.

***


Cũng giống nhiều anh em khác, sự thức tỉnh dẫn đến phản kháng của anh với chế độ cộng sản mà trước đây anh từng ủng hộ là một quá trình không đơn giản. Trong mấy năm đầu khi đất nước mới hoà bình, cùng vớí bao nhiêu người khác, anh đã tiếp đón những người cộng sản chiến thắng với niềm hân hoan: cuộc chiến tranh đã chấm dứt, Nam Bắc một nhà, từ đây chúng ta có quyền hy vọng cùng nhau xây dựng một cuộc đời mới tốt đẹp hơn (biểu hiện rõ nhất trong thời anh làm tổng biên tập tờ Đứng Dậy). Nhưng niềm hy vọng ấy đã dần dà nhạt nhoà trong tâm thức của anh và của rất nhiều bằng hữu từng đã cùng anh tranh đấu thời trước. Cái thực thể cộng sản của miền Nam với những đặc trưng của một miền đất có truyền thống cởi mở đã bị xoá bỏ nhanh chóng trong cuộc hiệp thương thống nhất để thay vào đó là một lối quản lý mang từ miền Bắc vào vô cùng lạc hậu, độc tài, tự tôn ngang ngược. Sự rạn nứt văn hoá bắt đầu dần dần trở nên căng thẳng hơn về chính trị, qua những cuộc cải tạo tư sản thành thị, hợp tác hoá nông thôn, với những kết quả cực kỳ tệ hại, làm cho một miền đất dư thừa lúa gạo phải sống trong đói kém, khốn khổ như chưa bao giờ như thế. Người ta bắt đầu bỏ nước ra đi bất chấp tù đày, nguy hiểm, trong số đó có không ít những bạn bè thân thuộc của anh. Nhưng anh vẫn ở lại, tiếp tục con đường đã chọn: quê hương của mình là nơi nào còn lầm than, áp bức; giàu có, dân chủ là những thứ do mình tạo ra chứ không phải do người khác ban cho. 

Tôi bắt đầu hợp tác với anh trong cuộc chơi mới này bằng một bài xã luận ký tên tạp chí Đứng Dậy (số Xuân 1978), do anh đề nghị, phê phán sự hồ đồ của một số cây bút miền Bắc nhìn Sài Gòn đâu cũng thấy “nọc độc của văn hoá thực dân mới”, coi thường những nỗ lực của một miền đất biết bảo vệ nhân phẩm của mình trong những tình thế khắc nghiệt. Bài viết này đã gây phản ứng của Viện Văn học lúc bấy giờ với những hăm he trả đũa nghe rất ghê, nhưng cuối cùng mọi việc đã chìm xuồng sau một bữa rượu anh em tiếp đón viện trưởng Hoàng Trung Thông tại nhà tôi. Thái độ của Đứng Dậy không phải riêng lẻ. Trong những cuộc hội thảo tại Hội Trí thức bấy giờ cũng có những phản ứng tương tự, đặc biệt với sự thách thức rất ngoạn mục của Nguyễn Trọng Văn. Nhưng tất cả rồi cứ dần dần xẹp xuống vì bị trấn áp. Nguyễn Trọng Văn bị kiểm điểm nặng nề. Hai bài viết của tôi trên Tin Sáng năm 1979 (“Bản chất của Đảng” và “Sức mạnh của đất”) bị Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh đem ra đả kích trong các lớp học tập chính trị: tôi bị hài tên ra như một thứ “Nhân văn-Giai phẩm chống Đảng tinh vi”!

Cuối cùng thì Đứng Dậy đóng cửa, Tin Sáng “hoàn thành nhiệm vụ”. Nhiều anh em chúng tôi phân tán đi kiếm ăn linh tinh. Lúc này anh đã hoàn tục, lập gia đình, cũng tập tễnh làm ăn bằng một nghề mới học: bán đồ gỗ cẩn xa cừ, nghe nói cũng chẳng khấm khá gì. Diễm Châu thất nghiệp, đi bộ lang thang trên đường phố vì mất xe đạp, trông thật nhếch nhác. Trần Tuấn Nhậm đi về miền Tây dính dấp đến một vụ vượt biên và chết trong tù. Châu Tâm Luân đi nhiều lần mới thoát. Thế Nguyên mở quán nhậu sau chết vì tétanos. Hoàng Ngọc Biên bán cà phê, tụ họp anh em tán dóc cho vui. Sau khi giao bản thảo cuốn sách có cái tên (cũng lòng thòng) Cuộc xâm lăng văn hoá tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (1981) cho nhà xuất bản Văn hoá đã hợp đồng mấy năm trước, tôi khuân tủ sách do vợ giữ được từ trước 1975 ra chợ trời bán lấy tiền đi nuôi heo, nuôi cá, trồng nghệ, cuối cùng thì tự giam mình vào phòng tối, kiếm sống bằng nghề rửa ảnh màu theo phương pháp thủ công, mặt mày tái mét, mắt mờ đi vì hoá chất. Mặc dù đã bỏ Đảng mấy năm rồi, nhưng lòng vẫn chưa dứt nợ: đêm nào cũng thức thật khuya đọc lại tác phẩm của các ông… Karl Marx và Lenin!

Lâu lâu tôi cũng gặp anh và bạn bè, chẳng có việc gì để nói với nhau ngoài những chuyện bâng quơ. Nhưng sau đó không lâu chúng tôi đã có những ngày thật vui, từ khi Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng bí thư của Đại hội 6 (1986), theo luồng gió “perestroika” của Liên Xô, tuyên bố “cởi trói” cho văn nghệ sĩ và trí thức. Tôi có gặp ông Linh mấy lần trong rừng hồi chiến tranh, rất có cảm tình với ông; sau 1975 nghe ông lận đận, nay lên giữ vị trí chủ chốt quyết tâm theo đường lối đổi mới, tôi từ giã phòng tối rọi ảnh, đem những điều tự mình suy ngẫm được sau mười năm diện bích, “tái xuất giang hồ” phấn đấu cho một thứ chủ nghĩa Marx “đích thực” mà lúc đó tôi vẫn còn tin tưởng vào tính khả thi của nó (biểu hiện nơi những bài tranh luận bênh vực Lê Ngọc Trà, Lại Nguyên Ân… về đổi mới lý luận văn nghệ trên các báo Văn Nghệ, Sông Hương, Cửa Việt).

Tôi gặp anh nhiều hơn trong những dịp tiếp xúc với những văn nghệ sĩ ngoài Trung, Bắc vào Nam chơi và cũng thường rủ nhau tới lui Câu lạc bộ những người Kháng chiến cũ chỗ ông Nguyễn Hộ mua tài liệu, tụ tập nhau bàn tán những tác phẩm trên báo Văn Nghệ (lúc bấy giờ do Nguyên Ngọc làm tổng biên tập, đứng sau lưng là Trần Độ), chuyền tay nhau đọc những bản photocopy có nội dung “nhìn lại” từ căn bản những sai lầm về lý luận của cả một thời đen tối đã qua. Bài viết chuyền tay mang tên “Chủ nghĩa xã hội Việt Nam: di sản và đổi mới” của tôi xuất hiện 1990 đã được vài tờ báo trong trong nước đăng lại (đầy đủ nhất trên tờ Phát triển Kinh tế do Đào Công Tiến, hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, làm tổng biên tập), từ đó lưu chuyển ra nước ngoài trên một số báo của Việt kiều. Cùng nhịp với những hoạt động của phong trào, đặc biệt của Câu lạc bộ những người Kháng chiến cũ trong Nam, anh cũng sát cánh với linh mục Chân Tín vận động cho đổi mới trong phạm vi tôn giáo của anh: ngoài bức thư của một số trí thức Công giáo gửi Giáo hội đề nghị giữ thái độ độc lập hơn với Nhà nước, anh có phụ giúp linh mục Chân Tín, từ nhà thờ Chúa Cứu thế, phát ra mấy bài giảng kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam “sám hối”, từ bỏ đường lối giáo điều khắc nghiệt cũ, tạo dựng lại một đất nước dân chủ, nhân đạo cho nhân dân…

Nhưng rồi mọi việc đã bị chặn lại theo lệnh của Nguyễn Văn Linh khi ông này nhận ra cái nguy cơ đi theo đường lối kiểu Liên Xô: bức tường Berlin sụp đổ, phong trào dân chủ ở Đông Âu phát khởi… đang có xu thế lan tràn làm sụp độ toàn bộ “phe ta”. Từ chỗ thúc đẩy đám lính tráng của ông tấn công vào những vùng cấm tạo ra trì trệ, suy đồi, ông quay ngoắt lại dập tắt khí thế của họ bằng những biện pháp trấn áp thô bạo. Hàng loạt tổng biên tập theo đường lối của ông trước đây (Nguyên Ngọc, Tô Hoài, Kim Hạnh, Bùi Minh Quốc, Tô Nhuận Vĩ, Hoàng Phủ Ngọc Tường…) bị cách chức, chuyển công tác. Tạp chí Phát triển kinh tế của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh bị đình bản một thời gian, Đào Công Tiến phải viết tường trình. Dương Thu Hương (bấy giờ sắc sảo nhưng không ngoa ngoắt như bây giờ) sau khi vào Sài Gòn gặp gỡ hàng loạt những văn nghệ sĩ trí thức để vận động đa nguyên, khi trở ra Hà Nội một thời gian thì bị bắt. Câu lạc bộ những người Kháng chiến cũ bị thanh lọc. Tờ báo của Câu lạc bộ bị đình bản tiếp theo việc Nguyễn Hộ bị bắt cùng với mấy anh em cộng sự như Tạ Bá Tòng, Hồ Hiếu, Đỗ Trung Hiếu… Việc anh bị quản chế tại nhà, linh mục Chân Tín bị đưa đi cô lập ở Cần Giờ vào thời gian này cũng nằm trong không khí trấn áp chung đó.

Sự đột ngột chuyển đổi đường lối của Đảng Cộng sản lúc bấy giờ (từ Liên xô sang Trung quốc) đã làm phân liệt xu hướng “đổi mới” ra đời từ Đại hội 6. Bên cạnh một số nghe lời Đảng trở cờ đấm đá bạn bè là khá đông những người quay về im lặng, chờ thời. Nhưng cũng có một số tiếp tục con đường đã mở ra và đi cho đến cùng, không quay đầu trở lại, trong Nam có những Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Nguyễn Văn Trấn, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc và một số anh em khác. Cuộc chơi mới đã được đẩy mạnh hơn lên khi mọi chuyện trong quá khứ đã được nhìn lại từ nền móng. Bài viết chuyền tay của tôi “Đàm thoại về chủ nghĩa xã hội mácxít” xuất hiện năm 1994 đặt lại tính chất không tưởng của học thuyết Marx, cùng với sự bất toàn của việc du nhập chủ nghĩa Lenin vào Việt Nam, đã đi theo xu thế lý luận đó. Một chiến dịch phản kích được Ban Văn hoá Tư tưởng của Đảng mở ra, liệt bài viết ấy vào loại dao động, “phủ nhận con đường do Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn”. Nhưng tác dụng chẳng đi đến đâu: khác với cánh cửa nhà tù, khi cánh cửa tư tưởng đã mở ra rồi thì không bao giờ có thể khép lại được nữa. Đối với chúng tôi, từ đó trở đi chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam đã mất hoàn toàn tính chính đáng để tồn tại. 

Sau những ngày bị quản chế ẩn nhẫn trong việc viết nhật ký, anh đã tìm được công việc mới của mình: hợp tác chặt chẽ hơn với tạp chí Tin Nhà của Đỗ Mạnh Tri là người bạn cũ của anh ở bên Pháp. Trong khi viết bài và rủ thân hữu cùng viết bài, anh còn tổ chức nhân bản lại Tin Nhà để phổ biến cho anh em quen biết trong nước. Sau khi Tin Nhà đóng cửa, để duy trì cho được một tiếng nói phản kháng tồn tại ngay trong lòng Sài Gòn, anh đã vận động cho sự ra đời của Thư Nhà để tiếp tục (do linh mục Chân Tín, sau đó là linh mục Hồ Đỉnh làm Tổng biên tập). Tôi hợp tác chặt chẽ với anh nhiều hơn: một số bài viết được xem là “nặng đô” của tôi đã xuất trên hai tờ báo này, trong đó có những bài gây nhiều phiền phức cho anh là những tiểu luận viết về Hồ Chí Minh như một huyền thoại. Một số bạn bè thân cận đến nhà anh nhận những tờ báo có những bài viết nói trên đã bị công an chặn đường tịch thu rồi sau đó bị giải đi “làm việc” dài dài.

***


Anh cặm cụi vào công việc không nghỉ ngơi, vì thế đã theo tuổi tác mà dần dần kiệt sức. Anh bị bệnh chai phổi, ăn uống không được, sút cân trầm trọng, cả năm trời phải thở bằng oxy, cuối cùng chịu đựng không nổi anh đã thiếp dần…

Đám tang của anh tổ chức tại căn phố nhỏ của anh tại Sài Gòn, lặng lẽ nhưng sum vầy đầy đủ những người thân yêu, học trò, bằng hữu, chiến hữu, thuộc đủ thế hệ và tín ngưỡng, trong đó tôi thấy có nhiều người đồng đạo một thời đã xa lánh anh vì nhiều lý do, và cùng với họ là những đảng viên cộng sản đương quyền lẫn mất quyền.

Tôi không biết những người đi theo cái xe tang màu xám nhỏ trên đó đặt cái quan tài nhẹ tênh của anh đã nghĩ ngợi gì về những dấu vết anh để lại trên những con đường anh đã đi khi còn sống – thương yêu, kính phục, oán giận, hoà giải, xin anh tha lỗi hay tha lỗi cho anh – nhưng trên con đường dẫn về nơi có một chỗ “ngả đầu” vĩnh viễn cho anh, tôi biết chắc một điều này khi nói chuyện với họ: mọi cái có thể qua đi nhưng cái còn lại đích thực là sự trung chính của một con người.  

Một người chuyên lo chuyện đời sau cho người khác, trong chuyện đời này lại gây ra không biết bao nhiêu tranh cãi, vậy mà tất cả đều chấm dứt trong điều đơn giản như vậy, và như vậy thì cũng quá đủ cho anh để anh khỏi cần tranh cãi nữa khi ra đi, người anh em của tôi

Diễn Đàn 3.4.2007

0 nhận xét:

Đăng nhận xét