Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

05/04/1955: Thủ tướng Anh Winston Churchill từ chức

winston_churchill
Nguồn:Winston Churchill resigns,” History.com (truy cập ngày 04/4/2015).
Biên dịch & Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng
Vào ngày này năm 1955, Winston Leonard Spencer Churchill, nhà lãnh đạo Anh, người chèo lái đưa Anh và các nước đồng minh vượt qua cuộc khủng hoảng Thế chiến II, đã từ chức thủ tướng.
Sinh năm 1874 tại Lâu đài Blenheim, Churchill gia nhập Lữ đoàn Kỵ binh Thứ 4 (4th Queen’s Own Hussars) sau khi cha ông mất năm 1895. Trong 5 năm sau đó, ông đạt được một sự nghiệp quân đội lừng lẫy, phục vụ tại Ấn Độ, Sudan, và Nam Phi, và đích thân tham gia nhiều trận chiến. Năm 1899, ông rời quân ngũ để tập trung vào sự nghiệp văn học và chính trị, và đến năm 1900, ông được bầu vào Quốc hội với tư cách là nghị sĩ Đảng Bảo thủ của khu vực bầu cử Oldham. Năm 1904, ông gia nhập đảng Tự do, nắm giữ một số vị trí quan trọng trước khi được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Hải quân (First Lord of the Admiralty) năm 1911, nơi ông chuẩn bị sẵn sàng cho hải quân Anh trước một trận chiến mà ông đã dự đoán được từ trước.
Năm 1915, năm thứ hai diễn ra Thế chiến I, Churchill phải chịu trách nhiệm cho các chiến dịch Dardanelles và Gallipoli thất bại thảm hại và do đó bị loại khỏi chính phủ liên minh thời chiến. Tuy nhiên, đến năm 1917, ông quay lại nghiệp chính trị trong vai trò một thành viên nội các trong chính phủ tự do của Lloyd George. Từ năm 1919 đến năm 1921, ông giữ chức Quốc vụ khanh về vấn đề chiến tranh (Secretary of State for War), và đến năm 1924 ông quay lại Đảng Bảo thủ, nơi 2 năm sau đó ông nắm vai trò hàng đầu trong việc dập tắt cuộc Tổng đình công 1926. Trong những năm không tham gia chính trị từ 1929 đến 1939, ông đã cảnh báo những mối đe dọa đến từ Đức Quốc xã và Phát xít Nhật nhưng không được chú ý.
Sau khi Thế chiến II bùng nổ ở châu Âu, Churchill trở lại vị trí Bộ trưởng Hải quân của mình và 8 tháng sau đó, ông thay Neville Chamberlain làm Thủ tướng của một chính phủ liên minh mới. Trong năm đầu tiên nắm quyền, Anh phải đơn thương độc mã chống Phát xít Đức, nhưng Churchill đã hứa với đất nước ông và thế giới rằng Anh sẽ “không bao giờ đầu hàng.” Ông kêu gọi người dân Anh quyết tâm kháng chiến và khôn khéo cùng Franklin D. Roosevelt và Joseph Stalin thành lập một liên minh mà cuối cùng cũng nghiền nát được phe Trục.
Sau chiến thắng của Công Đảng sau khi Thế chiến II kết thúc năm 1945, ông trở thành lãnh đạo phe đối lập và đến năm 1951, ông tái đắc cử ghế Thủ tướng. Năm 1953, ông được Nữ hoàng Elizabeth đệ nhị phong tước hiệp sĩ và được trao giải thưởng Nobel Văn học. Sau khi từ chức thủ tướng, ông vẫn ở lại Quốc hội cho đến năm 1964, một năm trước khi ông qua đời.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét