- cuối tháng 01.1953 – hội nghị lần thứ tư của TW ĐLĐVN để thông qua bản Dự thảo cương lĩnh Đảng về chính sách ruộng đất. Tại hội nghị, ông Hồ đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ triệt để giảm tô, tiến tới CCRĐ.
- đầu tháng 03.1953 – Hội đồng Chính phủ họp thảo luận báo cáo của Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng về mục đích, phương châm, kế hoạch phát động quần chúng. Hội đồng Chính phủ đã thông qua các văn bản về chính sách ruộng đất và phát động quần chúng, tức là đã “luật pháp hoá” nghị quyết của TW Đảng.
- 01 – 05.03.1953 – báo Nhân Dân đăng tải bài “Chỉnh đốn chi bộ” của uỷ viên Bộ chính trị ĐLĐVN, trưởng ban tổ chức TW Lê Văn Lương, người trực tiếp phụ trách cuộc Chỉnh đốn tổ chức trong CCRĐ, và ngày 16.03.1953 – Chính phủ VNDCCH ra thông tư về việc chỉnh đốn chính quyền cấp xã qua việc phát động quần chúng. Đây là những hướng dẫn cho việc gắn liền cuộc Chỉnh đốn tổ chức với CCRĐ, với tinh thần “không dựa vào (thực tế là đánh vào – Người viết) tổ chức cũ mà lập nên tổ chức mới” ở nông thôn!
- 12.04.1953 – Chính phủ VNDCCH ra ba sắc lệnh: 1/ sắc lệnh quy định chính sách ruộng đất, trong đó có việc tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất chia cho nông dân; 2/ sắc lệnh quy định việc thành lập Toà án nhân dân ở những nơi phát động quần chúng; 3/ sắc lệnh quy định việc trừng trị những địa chủ ở những nơi phát động quần chúng tiến hành CCRĐ.
- 01.06.1953 – báo Nhân Dân đăng bài về Chương trình CCRĐ.
- tháng 06.1953 – ĐLĐVN tổ chức cái gọi là “đợt chỉnh huấn chính trị” để nâng cao lập trường giai cấp cho cán bộ đảng viên trong cuộc đấu tranh CCRĐ.
- 14.11.1953 – hội nghị lần thứ năm TW và Hội nghị toàn quốc của ĐLĐVN để quyết định tiến hành CCRĐ. Ông Hồ đã phát biểu ý kiến tại hội nghị nhấn mạnh phải “phóng tay phát động quần chúng tiến hành CCRĐ”.
- 01-04.12.1953 – kỳ họp thứ ba của Quốc hội khoá 1, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo “Tình hình trước mắt và nhiệm vụ CCRĐ” và ngày 04.12.1953 – Quốc hội nhất trí thông qua Luật CCRĐ. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh ban hành Luật CCRĐ do Quốc hội thông qua. Từ đó, bắt đầu các đợt CCRĐ, mà đợt đầu tiến hành ở 47 xã tỉnh Thái Nguyên và 6 xã tỉnh Thanh Hoá, sau đó lan tràn trên khắp miền Bắc, trừ các vùng miền núi. Đợt năm là đợt cuối cùng, phần lớn diễn ra ở các xã đồng bằng Bắc bộ và các vùng bị Pháp chiếm trước đây. May mắn cho đồng bào miền núi, vì ĐLĐVN chủ trương sau khi hoàn thành CCRĐ ở vùng đồng bằng mới làm ở miền núi. Do sự phẫn nộ của quần chúng đã bùng lên dữ dội, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đã nổ ra ở Quỳnh Lưu, Phát Diệm, nên về sau, TW ĐLĐVN chỉ tiến hành cái gọi là “cải cách dân chủ” ở miền núi, nghĩa là dẹp bỏ phong kiến địa phương (tức là các phìa tạo) mà không dùng bạo lực quá mạnh vì sợ dân chúng chạy sang Trung Quốc, Lào … Còn ở huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị, vì nằm sát giới tuyến, tiếp giáp Việt Nam Cộng hoà, nên cũng được chiếu cố, nghĩa là dùng bạo lực vừa phải “để không gây ảnh hưởng xấu đến miền Nam”.
- tháng 09.1956 – hội nghị lần thứ 10 của TW ĐLĐVN kiểm điểm tình hình CCRĐ. Do ảnh hưởng của đại hội lần thứ 20 ĐCS Liên Xô vạch trần những tội ác của Stalin, do sự bất mãn trong dân chúng, cộng thêm sự phản ứng khá mạnh của cán bộ, TW Đảng buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ và chủ trương sửa sai. Tại hội nghị, TW đã thi hành kỷ luật như sau: Trường Chinh mất chức Tổng bí thư, chỉ còn làm uỷ viên BCT, còn Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương mất chức uỷ viên BCT, Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi TW ĐLĐVN. Ông Hồ Chí Minh kiêm nhiệm Tổng bí thư, còn Lê Duẩn làm bí thư TW, thường trực BCT.
- 29.10.1956 – mít tinh lớn tại Nhà Hát Nhân dân Hà Nội, uỷ viên BCT đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh và TW ĐLĐVN chính thức công nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ. Nhân đây, xin nói rõ: một vài người viết không đúng là cuộc mít tinh tổ chức tại sân vận động Hàng Đẫy và ông Hồ đã đến dự và khóc trước dân chúng. Hà Nội được giao cho việc tổ chức mít tinh nên tôi biết rõ. Hồi đó, chúng tôi được giải thích: “Bác đến không tiện”, nhưng chúng tôi đều hiểu là ông Hồ muốn đưa ông Giáp ra “chịu trận” thay mình, nên không hề có việc ông Hồ khóc trước dân chúng.
Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2015
Xin Đừng Quên! Nửa Thế Kỷ Trước…
Có thể bạn đọc sẽ trách tôi: trong dịp
đầu năm mà nhắc đến chuyện quá buồn. Xin các bạn lượng thứ cho! Nhưng
chuyện này không thể không nói đến! Nó cũng khủng khiếp không kém gì
chuyện Tết Mậu Thân (1968). Vậy mà chuyện Tết Mậu Thân chúng ta vẫn phải
đành lòng nhắc đến trong dịp Tết cơ mà!
Cần phải nhắc đến các tấn bi kịch, các
thảm hoạ dân tộc đã qua và hiện đang còn đang tiếp diễn dưới nền chuyên
chính của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), để mọi người yêu nước thương
dân thắp một nén hương cho vong linh biết bao người vô tội đã ngã xuống,
để tưởng nhớ đến bao nhiêu người oan ức đã chịu những cực hình man rợ
phải ngậm hờn mãi mãi, để nhớ lại biết bao bạo hành của một đảng độc tài
đã gây ra trong quá khứ và trong hiện tại, để mọi người hun đúc ý chí
đấu tranh cho công cuộc dân chủ hoá đất nước. Âu cũng là việc cần lắm
thay! Hơn nữa, ngày nay tập đoàn cầm quyền đang cố xuyên tạc lịch sử, cố
làm mọi cách để dân tộc ta quên đi các tội ác tày trời của họ, nhất là
để các thế hệ mới lớn lên không hề hay biết gì đến các tội ác đó và
những kẻ tội phạm chính danh!
Chuyện tôi muốn nói đến hôm nay là cuộc
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (CCRĐ) đầy kinh hoàng ở miền Bắc Việt Nam, thảm hoạ
khủng khiếp chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Cuộc CCRĐ đã thực tế
bắt đầu diễn ra từ năm 1953, đúng 50 năm trước đây, và kết thúc năm
1956. Nhưng dư âm và hậu hoạ của nó vẫn còn mãi cho đến tận ngày nay.
Hồi đó, CCRĐ chẳng khác nào một trận bão táp ác liệt đổ ập xuống miền
Bắc Việt Nam gây ra biết bao tàn phá khủng khiếp, biết bao đảo lộn kinh
người, biết bao tang tóc, đau thương cho người dân lương thiện.
Xuất phát từ đâu mà trận bão táp ghê rợn
đó đã tràn đến cái xứ sở đau thương này ? Số là trong chuyến đi bí mật
của ông Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc (hồi cuối năm 1950) đến Moskva
(đầu năm 1951), ông đã gặp Stalin và Mao Trạch Đông (lúc đó đang có mặt
tại Moskva). Hai ông này đã nhận xét là Đảng Việt Nam coi nhẹ nhiệm vụ
phản phong (ý nói hữu khuynh), và chỉ thị phải tiến hành cách mạng phản
phong để “bồi dưỡng động lực cách mạng là nông dân lao động”, nói cụ thể
là phải làm CCRĐ ở các vùng gọi là “giải phóng”. Sau khi về nước, ông
Hồ đã cùng Thường vụ Trung ương (Bộ chính trị sau này) ĐCS trong hai năm
trời bí mật và tích cực chuẩn bị tiến hành CCRĐ. Chuẩn bị cả về mặt tư
tưởng, cả về mặt chính sách, đường lối, lẫn về mặt tổ chức. Theo sự phân
công của Stalin, Trung Quốc sẽ giúp đỡ cho Việt Nam, nên ông Hồ đã mời
các đoàn cố vấn Trung Quốc đến miền Bắc Việt Nam – tổng cố vấn là La Quý
Ba đồng thời là đại sứ Bắc Kinh tại Việt Nam dân chủ cộng hoà (VNDCCH).
Vi Quốc Thanh đứng đầu đoàn cố vấn quân sự, còn đứng đầu đoàn cố vấn
CCRĐ là Kiều Hiểu Quang, vốn là phó bí thư tỉnh uỷ Quảng Tây. Đó là chưa
kể đủ loại cố vấn khác, như cố vấn chỉnh huấn, cố vấn công an, cố vấn
tổ chức, cố vấn tuyên truyền …
Để chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quân đội, năm 1952, Bộ chính trị (BCT) trung ương (TW) Đảng thực hiện “cuộc chỉnh huấn” trong Đảng và “cuộc chỉnh quân” trong quân đội, theo đúng mẫu mã “cuộc chỉnh phong”
của ĐCS Trung Quốc, chỉ có cái tên hơi khác một chút mà thôi. Chuẩn bị
về mặt tổ chức, BCT TW đã thành lập Uỷ ban CCRĐ Trung ương (UBCCRĐTW),
gồm có Trường Chinh, Tổng bí thư ĐLĐVN làm chủ nhiệm, hai phó chủ nhiệm
là Hoàng Quốc Việt, uỷ viên BCT và Lê Văn Lương, uỷ viên BCT, còn uỷ
viên thường trực là Hồ Viết Thắng, uỷ viên TW Đảng. Dưới UBCCRĐTW là các
đoàn CCRĐ, dưới các đoàn là các đội CCRĐ. Cả một đạo quân hùng hậu để
làm “chiến dịch” đánh phong kiến!
ĐCS coi CCRĐ là “một cuộc cách mạng long trời lở đất”, cho nên cần phải “phóng tay phát động quần chúng”
để thực hiện, có nghĩa là phải làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không
khoan nhượng, không thương xót, cho dù có những hành động quá trớn, quá
tả cũng không đáng sợ. Nhiều lãnh tụ cộng sản thường nhận mình, ĐCS là
đảng cách mạng thì nhất định phải làm CCRĐ theo tinh thần“cách mạng”, “cách mạng long trời lở đất”
! Họ cao ngạo phê phán các cuộc CCRĐ hoà bình ở nhiều nước là cải lương
chủ nghĩa, tư sản và phản cách mạng: vì tại các nước đó, chính quyền
hạn định mức ruộng đất tối đa cho điền chủ được có, còn phần thừa thì
nhà nước mua lại để chia cho người ít hay không có ruộng đất. Còn khi
giải thích cho cán bộ mấy chữ “phóng tay phát động quần chúng”
khó hiểu này, ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ hiểu sau: khi uốn thanh tre
cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay
ra thì nó mới thẳng được. Hình như ông cũng khoái cái lối giải thích
hóm hỉnh ấy, không nghĩ rằng cái tinh thần “quá đi một tí” sau
này chính là mối hoạ lớn cho dân! Các đội, các đoàn CCRĐ được tung về
nông thôn. Họ tung hoành gần như với quyền hạn không hạn chế, họ cảm
thấy mình nắm trong tay quyền sinh quyền sát. Cấp trên đã “phóng tay” cho họ và họ cũng tự “phóng tay” … Vì thế trong dân gian thường nói “nhất Đội, nhì Trời”, và các “anh đội”
cũng khoái tai khi nghe như thế! Tôi còn nhớ một lần, thiếu tướng Vương
Thừa Vũ, chủ tịch uỷ ban quân quản thành phố Hà Nội, về quê thăm nhà ở
làng Tó (Thanh Oai) thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông bị đội CCRĐ bắt giữ
cùng với anh cần vụ (lính hầu) và xe ô tô, van xin gì cũng không được
thả ra. Về sau do một sự tình cờ, chính quyền Hà Nội biết được mới cho
người đến nhận ông về. Đại thần của chế độ mà còn bị như thế huống hồ
dân đen!
Trong năm 1952, BCT TW Đảng lao động Việt
Nam (ĐLĐVN), tức là ĐCS khoác tên mới từ năm 1951, cho làm thí điểm
CCRĐ ở sáu xã thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Trong lần thí điểm
này có một sự kiện “động trời”: toà án CCRĐ xử tử hình bà Nguyễn Thị
Năm, tức là Cát Thành Long, người mà thời trước cách mạng đã từng che
giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức
Thọ, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị, Lê Giản … Còn trong Tuần lễ Vàng,
gia đình bà đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới. Bà đã hoạt động
trong Hội Phụ nữ, lại có con trai đi bộ đội làm trung đoàn trưởng. Thế
mà bà đã bị quy là địa chủ cường hào ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình,
UBCCRĐ TW duyệt y và BCT TW ĐLĐVN cũng chuẩn y!. Những người lãnh đạo
cộng sản trong BCT và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi
ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng bí thư, uỷ viên BCT, Thủ
tướng, phó thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một cái án tử hình như vậy!.
Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước đã từng
giúp đỡ cho những người cộng sản!. Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều
điều về các lãnh tụ cộng sản!. Nó báo hiệu trước những tai hoạ khôn
lường cho toàn dân tộc!.
Năm 1953, thực tế là năm bắt đầu tiến
hành CCRĐ, năm ĐCS chuẩn bị toàn bộ đường lối, chính sách và “luật pháp
hoá” các chính sách của Đảng bằng quyết nghị của Quốc hội, sắc lệnh và
nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ. Dựa trên tài liệu chính
thức của ĐCS, tôi xin ghi lại những cái mốc lịch sử đau thương của dân
tộc ta trong cuộc CCRĐ đẵm máu và nước mắt này:
Ở hải ngoại, cho đến nay cũng đã có một
số tài liệu nói đến những bạo hành, những tội ác trong CCRĐ, cuốn sách
nói về đề tài này khá kỹ ra mắt sớm nhất (1964, bằng tiếng Anh) là cuốn “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản”
của ông Hoàng Văn Chí. Còn ở trong nước thì đến nay, chưa có một công
trình nghiêm túc nào nghiên cứu, chưa ra một tiểu thuyết nào viết riêng
về đề tài CCRĐ. Tại sao ? Dễ hiểu là sau khi bị bắt buộc phải thừa nhận
những sai lầm trong CCRĐ, BCT TW Đảng ra lệnh miệng tuyệt đối cấm không
được nói đến đề tài này. Người đầu tiên “vi phạm” tabou thiêng liêng đó
là nhà văn Hà Minh Tuân – anh đã viết lướt qua rất nhẹ nhàng đến đề tài
cấm kỵ đó trong tác phẩm “Vào Đời”. Tức thì Nguyễn Chí Thanh hô hoán lên là “tư tưởng địa chủ ngóc đầu dậy”, và anh bị hành hạ hết nước. Từ đó mọi người ai cũng im re, “lo giữ cái đội nón của mình”
(nhóm từ thông dụng hồi đó có nghĩa là giữ đầu mình) … Mãi sau này, chỉ
có vài nhà văn rụt rè mon men đến đề tài đó mà thôi. Hy vọng rồi đây sẽ
có nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu trong nước vượt qua nỗi sợ “truyền
kiếp”, dám đề cập đến đề tài đau thương này một cách nghiêm túc và toàn
diện.
Nếu nói về những tội ác trong CCRĐ, theo tôi, cần nêu bật mấy loại chính sau đây.
Thứ nhất. Tội tàn sát thường dân vô tội – tội ác chống nhân loại.
Người nông dân Việt Nam hiền hoà, chất phác đang làm ăn sinh sống và
hết lòng đóng góp vào cuộc kháng chiến chống Pháp, bỗng dưng ĐCS giáng
cho họ một đòn chí mạng. ĐCS nói rằng CCRĐ là một cuộc cách mạng để thực
hiện ước mơ muôn đời của nông dân: “người cày có ruộng” – nhưng
thực tế thì không phải như vậy, thực tế là nông dân bị đánh đòn chí
mạng! Tầng lớp năng nổ, giỏi giang biết làm ăn nhất ở nông thôn thì bị
quy là địa chủ, phú nông, thậm chí cường hào ác bá, bị triệt hạ hết
đường sinh sống, còn một loạt cán bộ ở nông thôn đã từng chịu đựng gian
khổ làm nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến, sản xuất thì bỗng nhiên bị quy là
phản động, gián điệp, Việt gian, v.v … bị trừng trị, nhiều người bị bắn
giết vô cùng man rợ. Ngay cả nhiều người trung nông, thậm chí một số
bần nông cũng “bị kích lên” làm địa chủ cho đủ cái tỷ lệ quái gở 5% địa
chủ (so với dân số thôn xã!) và họ phải cam chịu cái số phận mà ĐCS dành
cho địa chủ. Cái tỷ lệ quái gở 5% đó lại kèm thêm những “kết luận” quái
đản khác: đã có địa chủ, tất phải có cường hào ác bá! Thế là người dân
chịu chết! Biết bao nỗi oan khuất không thể nào kể hết. Cái phương châm “thà sai hơn là bỏ sót”, cộng thêm với việc “thi đua lập thành tích đánh phong kiến”
đã gây ra tình trạng “kích thanh phần”, “nống thành tích” cố tìm ra
nhiều địa chủ, phản động, xử tử nhiều ác bá … để có được bằng khen, huân
chương, để ngoi lên địa vị cao hơn … càng làm cho nỗi khổ đau của người
dân tăng lên nhiều gấp bội! Chỉ xin dẫn vài chuyện mà thôi.
Một anh bạn đi làm CCRĐ ở Khu Bốn kể lại.
Ở Khu Bốn, hồi đó ai cũng biết danh Chu Văn Biên, bí thư Khu uỷ, và
Đặng Thí, phó bí thư khu uỷ, khét tiếng hiếu sát trong CCRĐ, họ đều là
trưởng và phó đoàn CCRĐ. Thậm chí trong dân gian lưu truyền bài vè có
câu “Giết người nổi tiếng gã Chu Biên”. Anh bạn tôi kể chuyện
Đặng Thí ký hai án tử hình trên ghi đông (guidon) xe đạp! Chuyện như
sau: một đội tới làm CCRĐ ở một xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của ông Hồ
Chí Minh và Hồ Viết Thắng, tìm mãi mà không thể quy ai là địa chủ được
(những ai đã từng đến tỉnh này đều biết cảnh nghèo chung của dân chúng ở
đây). Đặng Thí “đả thông tư tưởng” là cố vấn Trung Quốc dạy rồi phải có 5% địa chủ. Đội sợ trên “đì”,
tính ra cả làng từng này hộ, từng ấy nhân khẩu, thôi thì cũng buộc phải
kiếm ra năm địa chủ. Tưởng thế là xong, nào ngờ khi báo cáo lại cho
Đặng Thí thì … Liếc mắt qua không thấy có danh sách “lên thớt”, bực mình
Thí mới xạc cho “anh đội” một trận: “Có địa chủ mà không bắn thằng nào cả à ?” và ném cả tập giấy vào mặt đội trưởng. Cuối cùng thì đội cũng lọc ra được “hai địa chủ để bắn”
vội chạy lên đoàn báo cáo. Giữa đường gặp Đặng Thí đang đi xe đạp, tay
đội trưởng đưa báo cáo và danh sách bắn hai người. Thí còn đang vội, vẫn
ngồi trên yên xe, chẳng thèm xem hết nội dung, đặt “đơn đề nghị bắn hai người” lên ghi đông xe đạp, mở vội xà cột (sacoche), rút bút ký toẹt vào. Xong rồi Thí đạp xe đi thẳng.
Một ông bạn làm việc ở Viện Khoa học Việt
Nam đã đi làm CCRĐ kể lại chuyện thương tâm này. Đội mà ông bạn có chân
về một làng nghèo ở Thái Bình, không thể nào tìm đâu ra đủ số địa chủ,
và cũng không thể nào tìm ra địa chủ ác bá để bắn. Họ lo lắm. Thế là họ
đưa một ông chăn vịt vào danh sách bị bắn!. Làng nào cũng thế thôi, mấy
ông “gột vịt” (ấp trứng nuôi vịt con) chẳng bao giờ được dân làng ưa cả,
vì lùa vịt con xơi thóc lúa của dân, thế mà lại hay to mồm cãi lại, gây
gổ. Thế là “đủ yếu tố cấu thành tội”, trong đó có tội “bị dân làng ghét cay ghét đắng”.
Địa chủ bóc lột thóc của nông dân, vịt cũng ăn cướp thóc của nông dân,
vịt không thể bắn được thì chủ nó phải chịu thay! Ai cũng vui vẻ cả. Ông
bạn biết là sai nhưng không dám mở miệng khi “cổ máy nghiền thịt” của
Đảng đã khởi động rồi!
Cho đến nay, không ai biết số người bị
quy oan, bị tù oan và bị giết oan là bao nhiêu vì ĐCS giấu tịt. Những
con số mà nhiều người đưa ra chỉ là ước đoán. Hồi cuối năm 1956, khi tôi
được Thành uỷ Hà Nội giao cho trách nhiệm sửa sai CCRĐ ở ngoại thành Hà
Nội. Vì tính chất quan trọng của việc đó ở thủ đô, nên ông Võ Nguyên
Giáp được BCT phân công giúp đỡ việc sửa sai ở Hà Nội. Vì thế, thỉnh
thoảng tôi đến nhà ông Giáp làm việc. Đôi khi chúng tôi cũng nói chuyện
với nhau về những vấn đề chung. Một hôm tôi hỏi thẳng ông: trong CCRĐ có
bao nhiêu người bị oan. Ông Giáp nói hai vạn. Lúc đó tôi không dám hỏi
thêm cụ thể hơn – thế thì bao nhiêu người bị chết oan, vì tôi biết là
mình đã đụng đến vấn đề cấm kỵ nhất của Đảng. Cho đến nay, tôi không
biết con số mà ông Giáp nói với tôi có thật hay không, nhưng hôm đó ông
trả lời tôi tức thì, không nghĩ ngợi gì, nên tôi cũng có phần tin. Còn
số người bị hành quyết trong CCRĐ và Chỉnh đốn tổ chức thì tôi ước đoán
là chừng năm-sáu nghìn người. Đó là chưa kể nhiều người bị chết vì các
lý do khác, như tự tử trước khi xét xử, chết khi bị tra của hay bị giam
cầm ở xã, chết trong tù, người nhà địa chủ chết đói do bị bao vây, v.v …
Tại cuộc mít tinh tối 29.10.1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết con
số 12 nghìn cán bộ và đảng viên đã được trả tự do mà thôi! Con số đó
đúng hay không, ai mà biết được! Tóm lại, những con số về người bị thiệt
mạng trong CCRĐ vẫn chưa xác định được. Dù thế chăng nữa, với những con
số ước tính đã cho thấy đây là một tội ác tày trời. Tội ác này chính là
tội ác chống nhân loại!
Còn chuyện “sửa sai” thì cũng chỉ
là một lối “tung hoả mù” chủ yếu để làm dịu đi phần nào nỗi công phẫn dữ
dội của dân chúng, tránh những cuộc bùng nổ bất lợi cho Đảng mà thôi.
Chúng tôi đã từng đi làm sửa sai nên biết khá rõ. Có nhiều cái sai không
thể nào “sửa” được. Bắn giết người ta, làm què quặt thân thể, làm tổn
hại tâm thần người ta (có không ít người bị điên, bị mất trí, bị lẩn
thẩn), làm gia đình người ta tan vỡ … thì chỉ có Trời mới sửa được! Ngay
cả những việc tưởng chừng không khó sửa lắm, nhưng cũng không thể sửa
nổi, chẳng hạn, gia đình bị quy là địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho
mấy hộ nông dân, khi được xét là quy oan phải trả lại nhà cho người chủ
cũ. Nhưng, khi biết là phải trả lại nhà, các ông bà nông dân bèn cạy
gạch, cạy cửa, dở ngói, rút rui mè, cất giấu hết, phá phách gần như tan
nát cả ngôi nhà họ đang ở. Nên cái nhà được trả lại đâu còn nguyên vẹn
như trước. Còn các “quả thực” khác khi đã chia rồi thì sửa sai làm sao
được! Thóc lúa, nông dân ăn hết, bán hết rồi (hoặc khai như thế), nông
cụ bị tiêu tán hết (hoặc khai hư hỏng rồi), thì lấy gì mà trả lại cho
người ta. Đó là không nói đến những quan hệ tình cảm đã bị tổn thương,
giữa vợ chồng, giữa anh em, giữa họ hàng, giữa thầy trò, giữa hàng xóm,
láng giềng thì chẳng làm gì được, ngoài việc khuyên nhủ chung chung.
Trong sửa sai chỉ có việc này làm được là trả tự do cho những người bị
tù oan. Còn việc khôi phục lại chức vụ cho một số cán bộ đã bị đấu tố
cũng đã thực hiện, nhưng cũng không giản đơn vì quan hệ khá phức tạp
giữa cán bộ mới với cán bộ cũ.
Nhân thể cũng xin nói thêm, khi hội nghị
lần thứ 10 của TW ĐLĐVN hồi tháng 09.1956, TW buộc phải thừa nhận những
sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, người ta cũng đổ lỗi một phần cho cấp
dưới đã thi hành sai, chứ TW Đảng không nghiêm khắc tự phê phán mình, họ
vẫn coi “đường lối của TW về cơ bản là đúng”, chỉ có “việc tổ chức thực hiện không đúng” mà thôi. Họ vẫn khư khư khẳng định: CCRĐ dù có sai lầm “nhưng về cơ bản vẫn giành được thắng lợi lớn”.
Điều đó nói lên sự giả dối, nguỵ biện, sự không thực lòng hối hận của
họ. Thế thì làm sao mà Đảng sửa sai được ?! Còn cái gọi là thi hành kỷ
luật với các ông lãnh đạo CCRĐ cũng chỉ là trò hề “giơ cao đánh khẽ” để
lừa dối dư luận mà thôi. Trường Chinh mất ghế Tổng bí thư, nhưng lại vẫn
là uỷ viên BCT, chuyển sang ngồi ghế Chủ tịch Quốc hội, lại phụ trách
công tác tư tưởng, rồi chính ông ta đã cùng Tố Hữu bày ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm
đàn áp quyết liệt anh chị em trí thức ưu tú, khao khát tự do, làm bao
văn nghệ sĩ tài ba bị tù dày, bị đàn áp, bị treo bút trong hàng mấy chục
năm trời, đánh một đòn nặng nề vào nền văn học miền Bắc, làm nó bị thui
chột trong nhiều thập niên.
Hoàng Quốc Việt (một người nổi tiếng “ác
liệt nhất” chẳng những trong CCRĐ mà trong nhiều vụ trước nữa, chẳng
hạn, vụ H122 xảy ra trong kháng chiến chống Pháp, ông phụ trách xét vụ
này, đã bắt giam nhiều cán bộ, phần đông là cán bộ quân đội, và làm chết
oan nhiều người), bị đưa ra khỏi BCT thì lại trao chức vụ Viện trưởng
Viện kiểm sát tối cao là chức vụ nắm quyền sinh quyền sát con người.
Lê Văn Lương chịu trách nhiệm về Chỉnh
đốn tổ chức đã làm cho nhiều cán bộ đảng viên ở xã bị bắn giết, bị tù
đày, phải ra khỏi BCT thì sau này lại được đưa về làm bí thư Thành uỷ Hà
Nội, còn Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi TW Đảng thì lại cho làm uỷ viên
thường trực Uỷ ban Kế hoạch nhà nước!
Trái lại, người ngoài Đảng mà dám thẳng
thắn phát biểu ý kiến với ĐCS, cho dù nhẹ nhàng chăng nữa, như trường
hợp luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài tham luận tại hội nghị Mặt trận Tổ
quốc phê phán cuộc CCRĐ và đưa ra những đề nghị hợp lý thì Đảng trù dập
ông, dồn ông vào cảnh khốn cùng cho đến chết! Và thử hỏi có bao giờ TW
Đảng thành thực sám hối về những sai lầm, những tội ác của mình hay
không?
Chẳng những không sám hối mà cả cho đến ngày nay, ĐCS vẫn cứ nói lấy được là CCRĐ đã giành được thắng lợi lớn: “thực hiện ước mơ nghìn đời” của
nông dân – đem lại ruộng đất cho người cày. Đây là một sự dối trá trắng
trợn. Vì ruộng đất nông dân được chia thì một phần đáng kể là của những
người bị quy oan, khi sửa sai cuối cùng phải trả lại. Phần ruộng đất
chia còn trong tay nông dân, họ chưa kịp được hưởng gì trên mảnh đất
được chia đó thì năm 1957-1958, ĐCS đã bắt đầu lùa họ vào hợp tác xã để
tập thể hoá nông nghiệp, nghĩa là họ không còn làm chủ ruộng đất của
họ!. Vả lại, xét cho cùng, “đem lại ruộng đất cho người cày” đâu có phải là mối quan tâm chính yếu hay là mục đích tối hậu của Đảng?
Cho nên đến khi sửa đổi Hiến pháp sau
ngày thống nhất đất nước, bằng một điều khoản mới trong Hiến pháp, Đảng
đã nhẹ nhàng quốc hữu hoá toàn bộ ruộng đất trong cả nước!. Thế thì làm
sao có thể nói là Đảng “đem lại ruộng đất cho người cày” được ?! Quả thật là người nông dân chịu bao nhiêu đau thương tang tóc cuối cùng chẳng được gì cả!
Thứ hai. Tội phá hoại truyền thống tốt đẹp mấy nghìn năm của dân tộc.
Truyền thống hiếu hoà, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn Việt
Nam được dân tộc ta xây dựng hàng nghìn năm đã bị ĐCS phá vỡ trong vòng
ba-bốn năm CCRĐ. Nếu ai đã từng sống ở nông thôn Việt Nam trước “cách mạng”, trước CCRĐ đều cảm nhận cái tinh thần “đùm bọc nhau”, “lá lành đùm lá rách”
còn khá đậm đà trong mối quan hệ giữa người với người. Cố nhiên, không
ai nói là ở các làng quê không có những kẻ bóc lột, nhưng tinh thần
chung ở nông thôn ta là như vậy. Với cái chính sách “phân định thành phần giai cấp”,
ĐCS chia cư dân nông thôn thành cố nông, bần nông, trung nông (có ba
loại, trung nông yếu, trung nông vừa, trung nông cứng), phú nông (có hai
loại, phú nông thường, phú nông ngấp nghé địa chủ – đây là “sáng kiến”
của người chấp hành để khi cần thì dễ “kích” họ lên địa chủ, chứ trong
chính sách thì không chia ra), địa chủ (có mấy loại, địa chủ yêu nước và
kháng chiến, địa chủ thường, địa chủ cường hào ác bá, địa chủ phản
động). Sự phân chia có vẻ “khoa học” lắm, nhưng khi thực hiện thì tất cả
đều do cảm tính chủ quan, do nhu cầu của “đội” (khi trên bắt phải đủ 5%
địa chủ, bắt phải có ác bá, phản động để bắn, thì cứ phải “kích” lên
cho đủ số), do ý muốn chủ quan của “ông đội” (nhiều khi ý muốn đó rất
quái đản, thấy thái độ của đương sự có vẻ ngang bướng thì cứ “kích” lên
cho bõ ghét). Về nguyên tắc, muốn phân định thành phần thì phải “tố
khổ”, phải “tố” nhau, vạch nhau ra để “xếp” thành phần. Với lối xúi
giục, cưỡng ép người dân tố giác lẫn nhau rất phổ biến trong CCRĐ, nên
từ đó họ chia rẽ nhau, thù ghét nhau.
Cũng có nhiều người lúc đầu không muốn “tố” ai hết vì không muốn làm trái lương tâm, nhưng ai không chịu “tố” thì bị đội CCRĐ coi là chưa “dứt khoát”, “có liên quan”, v.v … cuối cùng thì ai cũng tham gia vào cuộc “tố” lẫn nhau để giữ mạng mình. Đây là số đông.
Nhưng cũng có không ít những kẻ hoặc vì tư thù, hoặc vì muốn trục lợi, “tố điêu”, “tố láo” để ngoi lên làm “rễ”, làm “cốt cán”, làm cán bộ, để được chia “quả thực”
nhiều hơn. Mà thường cái đám người này nghèo túng vì lười biếng, vì
rượu chè, cờ bạc, có khi là những phần tử lưu manh, nhưng thường lại
được đội coi như là bần cố nông để dựa, o bế, sử dụng nhằm … hoàn thành
nhiệm vụ của đội. Một điều kỳ quái cần nói nữa là: mọi lời “tố” của nông dân đều không cần bằng chứng, hơn nữa mọi lời “tố” của họ đều được coi là bằng chứng, đều được ghi vào hồ sơ tội trạng!. Không cần có bất cứ một sự kiểm chứng nào hết! “Lý luận” chung hồi đó là “phải tin tưởng ở quần chúng”, “nông dân lao động đã nói là đúng”. Thế là không còn ai cãi được nữa!
Chính vì thế, khi đội cần “đánh vào” bí thư hay chủ tịch uỷ ban kháng chiến trước ở vùng tạm bị chiếm, nay bị coi là tổ chức cũ, mà có một ai đó “tố” là “chúng nó họp Quốc Dân Đảng” thì bị “lên hồ sơ” ngay là “bí thư Quốc Dân Đảng”, và anh ta khó tránh khỏi cái án tử hình!. Một nông dân “tố” một người bị “kích” lên địa chủ là “hồi kháng chiến, khi máy bay địch tới, tôi thấy hắn nhìn lên trời và chỉ chỏ cái gì đó”, tức thì bị quy ngay là “gián điệp” và số phận anh ta coi như là “đi đứt”!
Có thể là thế hệ mới lớn lên, nhất là những người đang sống ở các nước
dân chủ tiên tiến, thì khó mà tin là đã có những chuyện như thế. Khốn
thay đó lại là sự thật đắng cay đã từng xảy ra trong lịch sử nước nhà!
Tóm lại, CCRĐ làm cho nội bộ nông dân
chia rẽ trầm trọng, làng xóm đảo lộn lung tung! Đến khi ĐCS tuyên bố sửa
sai thì tình hình nông thôn lại cực kỳ hỗn loạn: những vụ ẩu đả, đâm
chém, trả thù nhau giữa những người bị “tố oan” với những kẻ “tố điêu”, giữa những người bị tước đoạt tài sản với những người được hưởng “quả thực”, giữa cán bộ cũ bị quy kết phản động và bị tù tội với cán bộ mới “ngoi lên”
trong CCRĐ … Di sản nghìn năm rất đáng quý mà cha ông ta đã để lại là
tinh thần đùm bọc, hoà hiếu nhau của người dân nông thôn miền Bắc đã bị
phá huỷ từ ngày CCRĐ. Lẽ nào đó không phải là một tội ác ?
Thứ ba. Tội phá hoại đạo lý, luân thường của dân tộc.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chưa bao giờ đạo lý làm người bị đảo
điên một cách quái đản như trong CCRĐ. Các đội CCRĐ không từ một cách
nào hết để “tìm ra địa chủ”, “tìm ra phản động”, “tìm ra của chìm”, họ ép buộc con cái “đấu tố” cha mẹ, con dâu “đấu tố” bố mẹ chồng, con rể “đấu tố” bố mẹ vợ, vợ “đấu tố” chồng, anh em “đấu tố” lẫn nhau, trò “đấu tố” thầy, kẻ hàm ơn “đấu tố” người đã làm ơn, láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau! (Cũng có trường hợp cha mẹ bấm bụng khuyên con cái “đấu tố” mình để mong cứu mạng cho con cái). Thật là một tấn bi kịch hãi hùng!
Những người bị quy là địa chủ ngay lập
tức bị tước mọi quyền làm người, bị hạ nhục, bị chà đạp, ngay lập tức
phải thay đổi cách xưng hô trước nông dân, phải cúi đầu lễ phép “thưa các ông, các bà nông dân”, phải xưng “con” trước mặt nông dân, dù đó chỉ là một đứa trẻ con. Còn nông dân thì tha hồ gọi người kia là “thằng kia”, “mụ kia”, “con kia”, là “mày”, “chúng bay” và tự xưng là “tao”,“chúng tao”, thậm chí có thể chửi mắng, xỉ vả. Chẳng ai dám làm trái lại cái “lệ mới” đó – đội tuyên bố phải đối xử như thế mới “nâng cao uy thế nông dân”, mới “đánh gục giai cấp địa chủ” được! Không làm thế là “bênh địa chủ”, “mất lập trường giai cấp”, thậm chí “có liên quan với địa chủ”!
Ngay cả đứa bé con cũng có thể mắng mỏ, sỉ nhục người lớn đã bị quy là
địa chủ. Những người này, dù là thứ bậc thế nào trong họ tộc cũng đều bị
bà con họ tộc xa lánh, để không “bị liên quan”. Còn khi hành
quyết người bị án tử hình thì những người thân thích, ruột thịt của
người ấy, từ già cả cho đến trẻ con, đều bắt buộc phải có mặt để chứng
kiến tận mắt cảnh tượng đó! Đúng là sự khủng bố tinh thần cực kỳ vô nhân
đạo!
Một tình trạng thương tâm nữa là nhiều
gia đình ở nông thôn (và cả ở thành phố có liên hệ với nông thôn) đã tan
vỡ, con cái bơ vơ, vì khi một trong hai người có gia đình bị quy (hoặc
bị kích lên) thành phần địa chủ, bị gán tội phản động, thì bên kia, tức
là vợ hay chồng, sợ liên luỵ phải bỏ nhau. Nhiều người đi lập gia đình
khác, có con hoặc chưa có con với chồng hay vợ mới. Đến sau này thấy
sai, người bị bắt đi tù nay được trở về, thế là bao nhiêu chuyện rắc rối
xảy ra đến nỗi Bộ tư pháp VNDCCH phải ra thông tư ngày 19.04.1956 để “giải quyết những vụ vợ chồng bỏ nhau”.
Thật là mỉa mai, người ta cho rằng có thể hàn gắn được tình cảm yêu
thương trong gia đình đã bị thương tổn nặng nề bằng một tờ thông tư vô
hồn của Bộ tư pháp! Tình yêu của nam nữ cũng bị xâm phạm nghiêm trọng
giống hệt như thế – để giữ lập trường giai cấp ai cũng phải cắt đứt với
người yêu thuộc thành phần địa chủ, phản động!
Đây cũng là một nét về đạo đức nữa cần
phải nói đến. Chưa bao giờ sự giả dối trắng trợn được đề cao như trong
CCRĐ. Chẳng cần phải nói tới việc các “anh đội”, “chị đội”
báo cáo láo cho đoàn, vì nó quá thường, mà cái cần vạch ra ở đây chính
là người ta ép buộc, khuyến khích người nông dân nói dối, làm láo. Dần
dà rồi người nông dân cũng thấy cần phải nói dối, làm láo để “qua khỏi cái đận CCRĐ”, họ cũng “tố bậy”, “tố điêu”
dù trong thâm tâm biết mình đang nói dối, vu khống. Cũng có người cố
giữ lương tâm trong sạch, nhưng thường họ phải trả giá đắt cho điều đó.
Cho nên cơn dịch dối trá cứ lan tràn. Đội cũng dạy thêm cho nông dân
quen làm những việc giả dối, chẳng hạn như dặn họ: khi thấy trên màn ảnh
xuất hiện hình địa chủ thì phải hô “đả đảo”, hay vừa hô vừa ném
đá vào hình địa chủ để tỏ lòng uất hận của mình. Thế là nông dân cũng
làm theo. Tất nhiên, cũng không loại trừ cái hiện tượng gọi là “tâm lý đám đông”, khi người ta hành động như trong một cơn lên đồng tập thể. Chẳng hạn, mỗi lần chiếu phim “Bạch Mao Nữ”
củaTrung Quốc, thì có nhiều người khóc nức nở, và khi xuất hiện hình
địa chủ là bên dưới ào ào ném đá vào màn ảnh. Chính vì thế, các diễn
viên kịch thường từ chối lên sân khấu đóng vai địa chủ vì sợ vỡ đầu sứt
trán.
Chủ trương của UBCCRĐTW là trong các cuộc đấu địa chủ, nhất là địa chủ cường hào ác bá đều phải chuẩn bị rất chu đáo để ra “đấu trường” không được vấp váp. Thế là trước ngày đấu, mọi “rễ”,“chuỗi”, dân quân, công an, toà án, chủ tịch đoàn … đều phải “diễn tập” như thật, ai lên “đấu” trước, ai lên “đấu” sau, “tố” thế nào, xỉa xói ra sao, nói gì, khi nào người “tố” phải cảm động khóc lóc, khi nào người dân phải hô “đả đảo” (khi người bị “tố” không nhận tội …), lúc nào thì bắt địa chủ quỳ (quỳ là biểu hiện của sự “bị đánh gục”!), lúc nào thì “hoan hô” (khi toà tuyên án tử hình, tịch thu tài sản …).
Chủ tịch đoàn những cuộc đấu lớn đều là “rễ”, “chuỗi”, cốt cán mới đào tạo trong vài tháng, nói năng ngượng nghịu, lúng ta lúng túng, điều khiển thế nào nổi, nên khi ra “đấu trường”, thường “anh đội”, “chị đội”
phải ngồi sau lưng nhắc, như người nhắc tuồng (souffleur) ở rạp hát!
Cũng có khi nhắc mãi không được, chủ tịch đoàn cuống lên, thì “anh đội”
giật micro và điều khiển luôn. Tóm lại, một sự diễn kịch, một trò giả
dối lố bịch, trắng trợn, mà không hề không biết ngượng! Nhưng cái nguy
hại chính là sự giả dối đó cứ thấm dần vào tiềm thức cán bộ và người
dân, tạo nên một nếp sống giả dối vô đạo đức của nhiều người!
Thứ tư. Tội phá huỷ truyền thống tâm linh và văn hoá của dân tộc.
Bằng cuộc CCRĐ, ĐCS cố tình triệt hạ các tôn giáo và truyền thống tâm
linh của dân tộc. Trước CCRĐ, các nhà thờ Thiên chúa giáo, các tu viện,
nhà cô nhi … đều có ruộng đất riêng, các chùa có ruộng hậu do tín chủ
cúng cho chùa, các nhà thờ họ có ruộng họ, các đình có ruộng làng … để
lo việc sửa sang, tu bổ nhà thờ, chùa, đình, cúng tế hàng năm, việc từ
thiện, v.v … và để nuôi sống các linh mục, tu sĩ, tăng ni và những người
chuyên lo việc trông nom, thờ phụng … Nhờ thế hoạt động tôn giáo, tâm
linh, từ thiện được tiến hành bình thường không có trở ngại. Nhưng với
chính sách CCRĐ của ĐCS, tất cả các ruộng đất đó đều nhất loạt bị coi là
ruộng đất phong kiến và bị trưng thu để chia cho nông dân.
Với cái đòn độc địa đó, tất cả các nhà
thờ, tu viện, nhà cô nhi, chùa chiền, điện thờ, miếu mạo, nhà thờ họ,
đình … đều trở nên điêu đứng và đần dần tàn tạ. Riêng đối với nhà thờ
Thiên chúa giáo, do phong trào giáo dân ồ ạt di cư vào Nam, nên về sau
Đảng đã phải để lại cho các nhà thờ một ít ruộng đất. Người ta công
nhiên dùng các cơ sở thờ cúng vào việc họp hành, đóng quân, làm hội
trường, làm kho hợp tác xã mua bán, kho hợp tác xã sản xuất, v.v … Có
nơi thậm chí người ta cho các tượng Phật trôi sông. Nhiều nơi bà con tín
đồ bí mật cứu các tượng Phật, đem chôn, đem giấu hầm kín, sau này phần
lớn các tượng gỗ đều mục nát, thế nhưng cũng có ít tượng còn giữ được,
vào thập niên 80 bà con mới đưa lại vào chùa. Tóm lại, cuộc sống tâm
linh hoàn toàn bị xoá bỏ. Chữ“thiện”, chữ “nhân” một thời
gian dài chẳng ai dám nói đến, vì giữa lúc cái ác tràn đầy mà nói đến
chữ “thiện”, chữ “nhân” thì có thể bị coi là biểu hiện sự phản đối!
Trong lúc đó, người ta lại đề cao bạo
lực, cổ vũ đấu tranh giai cấp, khuyến khích điều ác, điều bất nhân, điều
vô đạo. Một điều rất quái dị trong CCRĐ mà ĐCS lại coi là tự nhiên hoặc
là cần thiết: người ta thường xuyên huy động các cháu thiếu niên từ
9-10 tuổi trở lên tham gia CCRĐ. Bắt chúng mang trống ếch đi cổ động, đi
“đả đảo”, “hoan hô”, tham dự các cuộc đấu tố, các phiên
toà CCRĐ, các buổi hành quyết công khai. Nhiều cháu, nhất là các cháu
gái, vốn có tâm lý hiền lành bị bắt buộc phải tham gia, đã không chịu
nổi, run sợ, khiếp đảm, có cháu ngất xỉu trước cảnh hãi hùng, súng bắn,
máu đổ … Còn các cháu vốn có tâm lý hung dữ thì lại thích thú hoan hô,
thậm chí sau khi “được” tham dự những cảnh tượng đó, có nơi chúng lại
bày trò chơi “đấu tố”, bắt con cái địa chủ quỳ để con cái nông
dân lên đấu, cũng xỉa xói vào mặt, cũng xỉ vả, vạch tội … Chẳng biết có
ai xúi giục không, nhưng nhiều nơi đã xảy ra những “trò chơi” quái đản
đó! Khi cái thiện bị nén xuống mà cái ác được cổ vũ, thì chẳng có gì
đáng ngạc nhiên là đạo đức bị suy đồi, băng hoại dưới chế độ của những
người cộng sản. Tôi còn nhớ trong thời kỳ “cởi trói”, đã được đọc truyện ngắn“Bước Qua Lời Nguyền” của Tạ Duyên Anh đăng trên tuần báo “Văn Nghệ”
(1989) ở Hà Nội, truyện đó phản ánh phần nào tấn bi kịch của giới trẻ
nông thôn đã lớn lên trong và sau cuộc CCRĐ đầy kinh hoàng. Không những
CCRĐ đánh một đòn rất mạnh vào nền đạo lý và truyền thống nhân bản, mà
nền văn hoá dân tộc cũng vì nó mà bị tổn hại rất nặng nề. Nhiều miếu đền
uy nghiêm bề thế, nhiều bia đá là những di tích văn hoá lâu đời của dân
tộc đã bị huỷ hoại trong CCRĐ. ĐCS giấu kín những chuyện này, nhưng
cũng có thể nêu ra vài trường hợp. Mong rằng các bạn xa gần trong và
ngoài nước sưu tầm và bổ sung thêm.
Chẳng hạn, cụ Nguyễn Mai (1876-1954) là
hậu duệ đời thứ 14 của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, gọi thi hào Nguyễn Du
(1765-1820) đời thứ 11 là bác. Đầu năm 1954, lúc 78 tuổi cụ bị đội và
đoàn CCRĐ quy là địa chủ (vì có vài mẫu cho phát canh để sống) lại bị “kích”
lên thành phần phong kiến cường hào (vì cụ từng đỗ cử nhân khoa Canh Tý
(1900) lúc 24 tuổi, lại đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1904) lúc 28 tuổi),
mà thật ra cụ không hề nhận chức tước, phẩm hàm gì, chỉ cam phận sống
thanh nhàn ẩn dật.
Cụ bị đấu ba đêm liền, bị kết án 15 năm
tù khổ sai, bị giam ở trại Đâng, tỉnh Hà Tĩnh, là nơi nước rất độc, nên
ngay mùa thu năm ấy, cụ bị phù thũng chết trong trại tù, vùi xác ở ven
rừng.
Cụ Nghè Nguyễn Mai từ trần trong uất hận
là nỗi đau lớn, nhưng nỗi đau còn lớn hơn nữa cho dân tộc là do cụ bị
quy oan như vậy, mà đội CCRĐ đã phá huỷ nhiều đền đài, bia, miếu thờ của
các danh nhân họ Nguyễn Tiên Điền và nghiêm trọng hơn nữa đã đốt cháy
ngôi nhà năm gian chứa đầy thư tịch quý giá của dòng họ Nguyễn Tiên
Điền, trong đó có di cảo của thi hào Nguyễn Du. Một sự mất mát lớn lao
về văn hoá không có gì bù lại được! (Xem sách “Bể Dâu Trong Dòng Họ Nguyễn Du” của Đặng Cao Ruyện, NXB Miền Đông Hoa Kỳ, 2002, tr. 200, 201).
Còn một chuyện này nữa. Trong cuộc hội
nghị cán bộ do TW Đảng triệu tập sau khi có nghị quyết sửa sai trong
CCRĐ hồi tháng 09.1956, tôi được nghe ông Cù Huy Cận, lúc đó là thứ
trưởng Bộ văn hoá, nói ở cuộc họp tổ là tấm bia đá của Lê Lợi đã bị đội
CCRĐ phá huỷ. Bộ văn hoá phải cấp tốc thuê làm bia khác giống hệt bia cũ
rồi đặt vào chỗ cũ và phải tuyệt đối giữ bí mật để không ai biết là bia
mới! Tôi không có điều kiện kiểm chứng, nhưng chẳng lẽ ông thứ trưởng
văn hoá lại nói sai?!
*
Như trên tôi đã viết, tuy là chuyện CCRĐ
đã qua từ lâu rồi, nhưng ngày nay, vẫn cần phải nói đến, vì ngày nay tập
đoàn lãnh đạo ĐCS đang cố viết lại lịch sử, đang cho bọn bồi bút xuyên
tạc lịch sử để chạy tội cho ông Hồ Chí Minh và cho ĐCSVN trong CCRĐ và
cả trong nhiều việc khác nữa.
Cần phải nói công bằng là trước năm 1950,
ông Hồ và ĐCSVN không nói đến CCRĐ, chỉ nói đến giảm tô, mà cũng chỉ
trên giấy tờ và rất coi nhẹ việc thực hiện. Chỉ từ năm 1952, vấn đề giảm
tô và CCRĐ mới đặt ra một cách gắt gao. Như vậy có thể nói là việc CCRĐ
là do sức ép của Stalin và Mao Trạch Đông. Nhưng khi ông Hồ đã nhận làm
CCRĐ là ông và ĐCSVN đã làm một cách tin tưởng và tích cực. Cũng có thể
do yếu tố tâm lý của một người trước đây đã từng bị Stalin và Quốc tế
Cộng sản coi là hữu khuynh, thậm chí bị nghi ngờ, không giao việc trong
thời hạn dài, nay lại bị nhận xét là coi nhẹ nhiệm vụ phản phong, thì
ông càng phải cố tỏ rõ tinh thần mẫn cán, kiên quyết của mình.
Quả là hồi đó, ông Hồ và ĐCSVN cũng thật
tình rất tin tưởng vào Stalin và Mao Trạch Đông. Chẳng thế mà ông đã
công khai nói trước hội nghị cán bộ (1950) tại chiến khu Việt Bắc để
chuẩn bị cho đại hội 2 của ĐCS sẽ họp năm sau là: “Các cô các chú nên biết rằng: ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được”.
Chính tôi có mặt trong cuộc hội nghị đó, tôi nghe rõ, nhiều người khác
cũng nghe rõ như thế, có điều bây giờ họ không muốn hay không dám nhắc
lại mà thôi.
Đến đại hội 2 của Đảng (tháng 03.1951),
ông Hồ lại cũng nói đúng như thế, và cụ Nguyễn Văn Trấn cũng đã kể lại
chuyện đó trong sách của cụ “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội”. Cho nên
ông Hồ làm CCRĐ rõ ràng với sự tin tưởng và tích cực. Vì thế, không phải
ngẫu nhiên mà cụ Vũ Đình Huỳnh, người gần gũi ông nhất thời gian đó sau
này đã “khẳng định người chịu trách nhiệm chính trong sự gây ra
những sai lầm trong CCRĐ là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải ông Trường
Chinh, như đã có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm. Trường Chinh là con dê
tế thần cho sai lầm của ông Hồ”(xem “Đêm Giữa Ban Ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên).
Theo tôi, đúng là ông Hồ phải chịu trách nhiệm chính, như cụ Vũ đã nói, nhưng Trường Chinh chẳng phải là “con dê tế thần”
với cái nghĩa “oan dương” đâu, vì ông ta vừa là Tổng bí thư, vừa là chủ
nhiệm UBCCRĐTW, ông ta là người điều hành mọi việc CCRĐ hồi đó, cho
nên, nếu Trường Chinh không phải là thủ phạm số một thì cũng phải là thủ
phạm số hai. Cái ý của cụ Vũ, theo tôi hiểu, là TW Đảng trong hội nghị
lần thứ (09.1956) đã không đả động gì đến Hồ Chí Minh, đã không dám nói
đến trách nhiệm của ông Hồ (vì thi hành kỷ luật Chủ tịch Đảng, Chủ tịch
nước thì … ôi thôi, ĐCS còn gì nữa!) mà chỉ đưa Trường Chinh và các ông
khác ra “chịu trận” mà thôi.
Sau này, trong giới thân cận với giai cấp
cầm quyền, có những người hay tung ra những câu chuyện về Hồ Chí Minh
không tán thành chủ trương CCRĐ, không tán thành việc xử tử bà Nguyễn
Thị Năm, không tán thành làm Chỉnh đốn tổ chức trong CCRRĐ, v.v … Nhưng,
xét cho cùng, loại chuyện đó chỉ là những huyền thoại không hơn không
kém. Những huyền thoại ấy nhằm đánh lừa những người không biết tình hình
thực tế hồi thập niên 50 ở miền Bắc và những thế hệ trẻ hậu sinh, nhằm
chạy tội cho ông Hồ để vớt vát cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” làm phao cứu mạng cho tập đoàn thống trị cộng sản.
Hoàng Tùng, nguyên tổng biên tập báo Nhân
Dân, nguyên bí thư TW ĐCSVN, nhiều năm làm tuyên huấn, v.v … là một
trong số những “chuyên gia” sáng tác huyền thoại kiểu đó. Trong hồi ký“Những Kỷ Niệm Về Bác Hồ”, ông ta có kể lại về thái độ của ông Hồ đối với án tử hình bà Nguyễn Thị Năm như sau: “Họp
Bộ chính trị Bác nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng
tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn
bà, mà người ấy cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên
đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa”. Sau cố vấn Trung Quốc La
Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: “Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là
không phải”. Và họ cứ thế làm” (xem đoạn trích, đăng trên tờ “Diễn Đàn Forum” ở Paris, số 123/11.2002, tr.15).
Khi kể chuyện này, Hoàng Tùng đã cố lờ đi
mấy điều thực tế lịch sử rất quan trọng: 1/ vào thời điểm nửa đầu thập
niên 50, uy thế của ông Hồ trong Đảng là tuyệt đối, một lời của ông đã
nói ra thì không một ai, kể cả các ông trong BCT, dám làm trái ý ông
hết; 2/ tất cả các ông trong BCT TW, không trừ một ai hết, đều răm rắp
giữ đúng tư cách một người học trò khiêm tốn, không bao giờ được phép
quyết định những chủ trương lớn mà không có ý kiến ông, huống hồ là việc
làm trái ý ông. Hồi 1952-1953 thì không thể nào có chuyện “Thôi tôi theo đa số” và “Và họ cứ thế làm” được! Nếu thật sự ý thức được là “không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa”,
mà ông Hồ chỉ lắc đầu một cái thôi, chứ không cần phải nói nhiều lời
như Hoàng Tùng kể, thì chắc chắn là ông đã cứu được bà Nguyễn Thị Năm!
Mà không chỉ một mình bà Năm! Thêm nữa, cái chữ “họ” trong câu của Hoàng Tùng “Và họ cứ thế làm” rất mập mờ: “họ”
là ai? Các ông trong BCT hay các cố vấn ?. Các ông trong BCT thì chắc
chắn là không. Còn các ông cố vấn có thể họ trái ý với ông Chủ tịch
nước, Chủ tịch Đảng của Việt Nam, nhưng họ không thể bắt ép ông được, họ
chỉ là cố vấn, chứ không có quyền biểu quyết, quyết định. Những cơ quan
nào đã từng làm việc với cố vấn Trung Quốc hồi đó đều biết cái nguyên
tắc đó. Cho nên có thể khẳng định rằng: Trong vụ án Nguyễn Thị Năm, đúng
là ông Hồ đã không cứu bà Năm. Cũng như sau này, trong vụ án Xét lại – chống Đảng, ông đã không cứu ông Vũ Đình Huỳnh. Dù rằng ông biết rõ về họ.
Hơn nữa, một câu hỏi hoàn toàn chính đáng
được đặt ra: trong suốt ba-bốn năm đằng đẵng lẽ nào ông Hồ và BCT không
hề hay biết gì hết đến những thảm hoạ của người dân ở nông thôn mà họ
cai trị hay sao ? Lẽ nào ông Hồ, Trường Chinh và các ông khác trong BCT
không biết rằng ở quê hương mình những người đồng hương của họ đang khốn
khổ ra sao ? Lẽ nào trong giới thân cận của ông Hồ và các uỷ viên BCT
không có một ai dám phản ánh tình trạng bi đát của người dân cho họ biết
hay sao ? Câu trả lời dứt khoát là: các ông ấy đều có biết, nhưng các
ông đều im lặng!. Im lặng đến nỗi ông Vũ Đình Huỳnh một lần đang ốm cũng
cố chống gậy lên Chủ tịch phủ gặp ông Hồ và nói toạc vào mặt ông: “Máu
đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác ngồi yên được à ? Chúng ta tuy không có
học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa xây dựng chính quyền, vì
dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay
chúng ta nhuốm máu đồng bào, đồng chí!” (Xem “Đêm Giữa Ban Ngày”).
Hoàng Tùng cũng đã lờ tịt cái thực tế
lịch sử phũ phàng này: Trong suốt thời gian CCRĐ, ông Hồ, với tư cách là
Chủ tịch nước, chưa hề ký một lệnh ân xá nào cho một ai bị án tử hình.
Chỉ từ sau Đại hội lần thứ 20 ĐCS Liên Xô và nhất là sau hội nghị cán bộ
cao cấp và trung cấp của Đảng (từ 28.04 đến 03.05.1956), do phản ứng
rất mạnh của cán bộ thì mới có lệnh tạm thời chưa thi hành các án tử
hình. Nhưng, than ôi, lúc đó thì … CCRĐ về cơ bản đã gần xong rồi! Lúc
đó các đoàn và UBCCRĐTW đang bắt tay làm báo cáo tổng kết để chuẩn bị
cho hội nghị TW Đảng kiểm điểm CCRĐ (tháng 09.1956).
Ngay cả việc Chỉnh đốn tổ chức trong
CCRĐ, Hoàng Tùng cũng cố tình đổ lỗi cho cố vấn Trung Quốc là chính, chứ
không phải lỗi của ông Hồ và ĐCSVN. Ông Tùng viết: “Thuyết của họ là
không dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức lại một số tổ chức của Đảng, họ phủ
nhận hết các tổ chức khác, như chính quyền, các đoàn thể. Ai lãnh đạo
cách mạng tháng tám thành công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945
đến năm 1953. Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị
xử tử. Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào Đảng ta. May
mà dến năm 1956 ta kịp dừng lại (bao nhiêu đầu rơi, máu đổ và CCRĐ cũng đã gần xong, thế mà bảo là “kịp”! – Người viết), nếu không thì tan nát hết”. Một đoạn khác: “Đánh
thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng là do Trung Quốc đề ra.
Hậu quả là hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội cho Pháp, Mỹ,
điều đó chỉ đúng phần nào, còn là do ta vội, làm ẩu, đánh tràn hết.
Không phải địa chủ mà phú nông, thậm chí trung nông cũng đánh. Đảng viên
tốt cũng bị đánh. Kết quả của những chính sách, cải cách lúc đó là như
thế” (xem tờ “Diễn Đàn Forum” nói trên). Đúng là các cố vấn Trung
Quốc chỉ biết có kinh nghiệm CCRĐ ở Hoa Nam, khi Hồng quân tiến xuống
phía Nam, hầu như không có cơ sở tổ chức của ĐCS, nên có nhiều người
không phải cộng sản cũng đã đứng ra lập tổ chức, lập chính quyền, vì thế
khi làm CCRĐ thì ĐCS Trung Quốc cố tình nhân cơ hội ấy quét sạch các tổ
chức đó đi lập những tổ chức mới của họ. Còn ở miền Bắc Việt Nam, tình
hình hoàn toàn khác hẳn. Không thể làm rập khuôn theo kinh nghiệm Hoa
Nam được. Tôi cũng chẳng thích gì các cố vấn Trung Quốc, nhưng tôi nghĩ
rằng cần phải xét vấn đề khách quan theo đúng sự thật lịch sử, chứ không
thể đổ lỗi, đổ tội tùm lum cho họ tất cả được. Ông Hồ và BCT TW ĐLĐVN
sống và làm việc ở Việt Nam, có phải là trẻ con đâu mà bảo các ông cố
vấn Trung Quốc xúi gì là làm nấy ? Chẳng qua chỉ vì khi đã say men “lập trường giai cấp đấu tranh”,
say men Marxisme-Leninisme, Stalinisme, Maoisme … trong cuộc lên đồng
tập thể, thì chính các ông lãnh tụ cộng sản Việt Nam cũng “hăng hái”
không kém gì người ta. Tôi còn nhớ, có lần đọc bài nói chuyện của ông Hồ
với cán bộ CCRĐ đăng trên tờ nội san “Cải cách Ruộng đất” (tạp chí lưu hành trong nội bộ), trong đó ông giải thích rất mộc mạc chủ trương không được dựa vào tổ chức cũ như sau: “Tổ chức cũ là “tổ kén”, các cô, các chú không được dựa vào …”.
Lại cũng cái lối dùng hình ảnh như việc uốn tre đã nói trên! Năm 1962,
khi nói chuyện về Tuyển tập Hồ Chí Minh với anh Nguyễn Kiến Giang, lúc
đó là phó giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật, anh kể rằng: “Làm tuyển tập đó chúng tôi mệt lắm, phải rà soát lại cả, bao nhiêu bài nói của ông cụ trong CCRĐ phải loại bỏ hay thu gọn lại”. Tôi hỏi anh có nhớ bài ông cụ nói “Tổ chức cũ là “tổ kén” không ? Anh trả lời: “Có chứ! Bài đó phải loại bỏ. Cán bộ đảng viên nông thôn người ta đang oán giận đùng đùng, đưa vào tuyển tập thế nào được!”. Nếu ông Hồ không tán thành chủ trương của các cố vấn đối với tổ chức cũ ở nông thôn thì có ai bắt ông phải nói thế đâu ?
Tôi kể lại những chuyện đó chỉ để đi đến
kết luận này: ĐCSVN chớ nên đổ lỗi, đổ tội cho ai cả, mà cần thấy hết
cái trách nhiệm lớn lao của mình trong CCRĐ. Chừng nào ĐCSVN chưa sám
hối được về những tội ác đã gây ra, thì người dân chớ có hy vọng là Đảng
sẽ sửa đổi, sẽ đổi mới và sẽ không tái diễn lại những tội ác trước đây.
Cũng xin mọi người đừng quên: CCRĐ không
phải là thảm hoạ đầu tiên, cũng chẳng phải là thảm hoạ cuối cùng mà tập
đoàn thống trị cộng sản Việt Nam đã gây ra cho dân tộc ta!. Tôi không kể
những thảm hoạ trước CCRĐ, mà chỉ nói ngay liền sau CCRĐ là vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, vụ án Xét lại – chống Đảng, rồi Cải tạo công thương nghiệp,
đánh đổ tư sản ở miền Bắc, rồi cái nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Thường
vụ Quốc hội do Trường Chinh ký ngày 20.06.1961, nhốt hàng chục vạn người
vô tội ở miền Bắc vào các trại tập trung khủng khiếp, rồi Tết Mậu Thân,
v.v … và v.v … Nếu kể hết thì ta thấy cả một chuỗi dài tội ác khủng
khiếp đã qua và đang tiếp tục mãi cho đến tận ngày nay. Cố nhiên, ngày
nay người ta dùng thủ đoạn tinh vi hơn, nhưng bản chất tội ác vẫn thế.
Tội ác mới gần đây nhất là vụ án Lê Chí
Quang, xử một nhà yêu nước chân thành, một chí sĩ đáng kính dù chỉ mới
ngoài ba mươi tuổi! Cái “tội” của anh là đã dũng cảm dấn thân vì nước,
đã dám kêu gọi đám cầm quyền hiện nay hãy cảnh giác kẻo mang tội bán
nước cho Bắc triều, đã dám đứng chân vào “Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng”
những mong trừ được quốc nạn cho dân tộc. Tập đoàn thống trị cộng sản
Việt Nam đã trắng trợn bày trò xử án để tống người thanh niên yêu nước
vào tù, người thanh niên đã từng tuyên bố đanh thép chí hướng của anh
trong bài tiểu luận nổi tiếng“Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều”: “Tôi
viết bài này khi đang bị kìm kẹp trong vòng nghiệt ngã của các lực
lượng bảo thủ và tay sai cho Bắc Triều. Biết rằng, bài viết này không
làm cho hào quang lấp lánh trên đầu tôi mà trái lại, càng đẩy tôi sâu
thêm vào vòng nguy hiểm. Ngay như đối với một công thần của cách mạng,
mà họ còn ngang nhiên tuyên bố xanh rờn: “…Sẵn sàng hy sinh Hoàng Minh
Chính để bảo vệ chế độ”. Huống chi tôi chỉ là con tốt đen dễ dàng bị
biến thành vật tế thần cho bàn thờ Bắc Triều. Dẫu sao trước hiểm hoạ
khôn lường của tồn vong đất nước, tôi đâu dám nề hà xả thân, bởi tôi tâm
niệm câu nói của Hàn Phi Tử: “Nước mất, mà không biết là bất tri. Biết
mà không lo liệu, là bất trung. Lo liệu, mà không liều chết là bất
dũng”. Chỉ mong sao tấc lòng nhỏ mọn này, được lương tri dân tộc trong
và ngoài nước soi thấu, và hết lòng, hết sức chỉ giáo” (01.10.2001).
Rất mong rằng trong dịp nhớ lại thảm hoạ
CCRĐ, “lương tri dân tộc trong và ngoài nước”, nhất là lương tri giới
trẻ nhận thức rõ rằng chế độ độc tài đảng trị mà còn thì những thảm hoạ
tương tự vẫn sẽ còn tiếp tục, vì tập đoàn thống trị cộng sản không tôn
trọng con người, không tôn trọng sinh mạng và quyền tự do của con người,
không tôn trọng luật pháp mà chỉ coi trọng quyền lực của họ là tối
thượng mà thôi. Nhắc lại thảm hoạ CCRĐ, chúng tôi rất mong mọi người,
nhất là giới trẻ noi gương Lê Chí Quang, thêm quyết tâm tranh đấu sớm
xoá bỏ chế độ độc tài nhằm chuyển hoá đất nước ta thành một xã hội dân
chủ đích thực, tạo điều kiện cho sự phát triển và phồn vinh của Tổ quốc
chúng ta.
15.12.2002
Nguyễn Minh Cần
Giới thiệu về tác giả
Ông Nguyễn Minh Cần sinh năm 1928 tại Huế. Ông vào đảng Cộng sản Ðông Dương năm 1928;
Từ năm 1954 đến 1962 ông làm Ủy viên
thường vụ Thành ủy Hà Nội, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà
Nội, chủ nhiệm báo Thủ đô Hà Nội.
Năm 1962 ông Nguyễn Minh Cần được đảng Lao động Việt Nam (nay là đảng CSViệt Nam) cử đi học trường Ðảng Cao cấp tại Liên Xô.
Trong thời gian này, phe Lê Duẩn và Lê
Ðức Thọ, lúc đó ngả theo đường lối chống Liên Xô của đảng CS Trung
Quốc, đã mở một chiến dịch truy bức quy mô nhằm thanh toán những người
mà họ cho là có tư tưởng theo chủ nghĩa xét lại của Liên Xô. Nhiều đảng
viên và ngay cả những trí thức không dính dáng gì đến đảng Lao động Việt
Nam cũng bị hãm hại một cách đê tiện. Trước tình hình đó, ông Nguyễn
Minh Cần và một số đảng viên cao cấp khác của đảng Lao động Việt Nam đã
quyết định xin cư trú chính trị tại Liên Xô. Mặc dù Liên Xô đã từ chối
lời yêu cầu của Việt Nam và không giao trả ông cho Việt Nam nhưng đã bắt
ông không được phép hoạt động chính trị nữa và phải đổi cả tên họ
(thành tên Nga) để bảo toàn an ninh. Vợ và các con của ông ở Việt Nam
bỗng nhiên trở thành nạn nhân của chính sách trả thù hèn hạ của tập đoàn
thống trị CS Việt Nam.
Từ năm 1989 ông Nguyễn Minh Cần đã
tham gia tích cực vào “Phong trào nước Nga Dân chủ”, một phong trào vận
động dân chủ lớn tại Nga. Cùng với người vợ Nga, ông Nguyễn Minh Cần đã
tham gia vào chiến dịch bảo vệ Tòa Nhà trắng của Phong trào và phá vỡ
cuộc đảo chánh của phe nhóm CS tại Nga vào tháng 8 năm 1991. Ông Nguyện
Minh Cần hiện đã về hưu. Phần lớn thời giờ ông dành để nghiên cứu Phật
học và viết các bài nghiên cứu chính trị. Ông hiện là một nhân sĩ và là
một cây bút quen thuộc và được quí mến ở Mỹ và Âu Châu. Quyển sách “Công
lý đòi hỏi” (nhà xuất bản Văn Nghệ, California, 1998) là tập hợp những
bài viết của ông từ 1992 đến 1998.
Tác phẩm thứ hai sắp được xuất bản tác
giả Nguyễn Minh cần là quyển sách “Ðảng Cộng sản Việt Nam qua những
biến động trong phong trào cộng sản quốc tế”. Ðiểm đặc biệt là quyển
sách được viết dựa trên những nhận thức mới, nhờ tác giả được vào tham
khảo tại Kho Lưu trữ của Quốc tế Cộng sản tại Moskva, nay là Trung tâm
Lưu trữ Văn kiện Lịch sử Hiện đại (RSKHIDNI).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét