Thứ Tư, 11 tháng 12, 2013
Mandela, người đồng hương của tôi
13:33
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tháng 12 11, 2013
Nadine Gordimer
An Vân dịch
Được
sống cùng thời và là người đồng hương với Nelson Rolihlahla Mandela là
một ưu ái, một vinh dự mà những người Nam Phi chúng tôi chia sẻ. Với cá
nhân tôi, được trở thành một trong những người bạn của ông cũng là một
vinh dự lớn. Tôi gặp ông vào năm 1964, trong thời gian phiên tòa ở
Rivonia đang diễn ra, nơi ông bị xét xử vì những hành vi chống phá chính
phủ. Tôi đã có mặt tại phiên tòa mà ông bị kết án tù chung thân.
Năm 1979, tôi viết cuốn tiểu thuyết Burger’s Daughter
lấy đề tài cuộc sống của những đứa con trong gia đình mà cha mẹ là
những người cách mạng. Đó là một cuộc sống bị chi phối bởi những niềm
tin chính trị của những bậc phụ huynh và hàng ngày phải đối mặt với nguy
cơ bị tù đày. Tôi không biết làm thế nào mà cuốn sách vốn bị cấm lưu
hành khi được xuất bản lại có thể đến tay Mandela khi ông đang bị giam
tại nhà tù trên đảo Robben. Nhưng ông, vị độc giả khắt khe nhất mà tôi
mong đợi, đã viết cho tôi một lá thư bày tỏ những nhận xét rất sâu sắc,
hiểu biết về cuốn sách.
Ngay cả khi không nhận được tin tức công
khai nào về ông, không biết ông đang suy nghĩ, tính toán thế nào để
tiếp tục cuộc đấu tranh nhằm chấm dứt chế độ apartheid, chúng tôi vẫn
luôn nhớ những phát biểu, những bài nói chuyện trước công chúng thời ông
còn tại ngoại. Một người mang tinh thần như ông, “những bức tường không
làm thành một nhà tù”, chế độ apartheid không thể giam giữ nổi. Chúng
tôi vẫn có thể cảm nhận được những tư tưởng chính trị của ông. Suốt thời
gian đó, tôi có thể giữ được liên lạc với Mandela là nhờ George Bizos,
một con người phi thường khác, người còn hơn cả một luật sư, đã luôn ở
bên cạnh Mandela, kể cả khi ông đang bị giam tại nhà tù đảo Robben xa
xôi.
Năm 1985, Tổng thống theo đuổi đường lối
phân biệt chủng tộc apartheid P.W. Botha đồng ý trả tự do cho Mandela
nếu như ông chấp nhận từ bỏ con đường đấu tranh vũ trang một cách vô
điều kiện. Lời đáp lại của Mandela được con gái của ông, Zindzi, đọc lên
trước công chúng tại một sân vận động lớn ở Soweto: “Chính ông ta mới
cần phải từ bỏ bạo lực. Hãy để ông ta cam kết phá bỏ chủ nghĩa
apartheid, bãi bỏ lệnh cấm đối với tổ chức của nhân dân, Đại hội Dân tộc
Phi… Tôi không thể và sẽ không đưa ra bất kỳ một cam kết nào khi tôi và
nhân dân không được tự do”.
Winnie Madikizela-Mandela, vợ của ông
khi đó, người mà ông không giấu giếm tình yêu sâu nặng, chỉ được phép
thăm ông hạn chế, cho đến khi ông được chuyển khỏi nhà tù ở đảo Robben
vào năm 1982 đến một nhà tù dành cho các tù nhân thường phạm được xây
trong vùng đất liền của Cape Town. Cuối cùng, năm 1990, Nelson Mandela
được trao trả tự do, tay trong tay với người vợ của mình.
Năm 1990, Tổng thống P.W. de Clerk, một
mẫu hình rất khác của những người thực tế, nhận thấy chủ nghĩa apartheid
đã trở nên suy yếu; ông xóa bỏ lệnh cấm đối với tổ chức Đại hội Dân tộc
Phi (A.N.C) cùng những đồng minh và hội viên của nó, thả các tù nhân
chính trị còn lại Tôi có phần ngỡ ngàng khi Georg Bizos nói Mandela, lúc
ấy vừa mới ra khỏi tù, muốn gặp tôi. Tôi đã nghĩ, khi đó, với sự phù
phiếm của một nhà văn, rằng con người vĩ đại ấy muốn nói chuyện về cuốn Burger’s daughter.
Vài ngày sau, chúng tôi có dịp ngồi nói
chuyện riêng với nhau ở Johannesburg. Hóa ra câu chuyện không phải xoay
quanh cuốn sách của tôi mà về phát hiện của ông, ngay trong ngày đầu
tiên được trả tự do, rằng Winnie Mandela đã có tình nhân khác. Sự rạn vỡ
này được giấu kín cho đến tận khi họ chính thức ly hôn sáu năm sau đó.
Từ trước đến giờ, tôi chưa từng kể lại câu chuyện này vì tôi tin rằng từ
trong sâu thẳm, sự hy sinh của ông, thứ sức mạnh mà ông không hề sợ hãi
biểu hiện qua cách ông đã sống, không phải chỉ vì một lý tưởng chính
trị. Lựa chọn của ông là sống cho tự do của những người khác.
Hội nghị vì một Nam Phi dân chủ, gọi tắt
là CODESA, lần thứ nhất diễn ra vào năm sau đó. Hội nghị được tổ chức
tại một tòa nhà được gọi là Trung tâm Thương mại Thế giới nhưng các
thành viên của tổ chức A.N.C có nhu cầu cần được họp riêng. Đã có những
cuộc mặc cả gay gắt trong nội bộ những người từng là đồng chí của nhau.
Nelson Mandela, với tư cách là người lãnh đạo cao nhất, đã dự cuộc họp,
sẵn sàng lắng nghe tiếng nói của những người giờ đây được xem là đại
diện cho quyền lực của nhân dân chống lại lực lượng apartheid được quân
sự hóa và nhận được hậu thuẫn từ các đồng minh phương Tây. Cùng với tổ
chức A.N.C, những người đứng đầu từ những mặt trận khác nhau của cuộc
chiến gồm có Đảng Cộng sản Nam Phi, Nghị hội Toàn Phi (Pan Africanist
Congress) và Đảng Tự do Inkatha đều có quan điểm riêng về việc nên xây
dựng một nền dân chủ như thế nào. Các thành viên phải tìm những nơi an
toàn để gặp gỡ để đề phòng việc bị de Klerk nghe lén. Một người lãnh đạo
A.N.C đã mượn ngôi nhà nơi tôi và chồng tôi, Reinhold Cassirer, đang
sống tại một khu dành cho người da trắng ở ngoại ô Johannesburg làm địa
điểm họp. Tất nhiên, chúng tôi không tham gia vào những câu chuyện được
thảo luận. Tôi mang một khay trà ra hành lang nhà mình, nơi nhóm các nhà
lãnh đạo tụ họp một vài lần. Tôi không nghe ngóng họ bàn bạc những gì.
Hội nghị này đã tự tường thuật và được phân tích đầy đủ trên báo chí,
trong đó có cả những tờ báo tiếng Hà Lan ở Nam Phi vốn trung thành với
các nhà lãnh đạo apartheid khi đó đang phải cố gắng kiềm chế, chịu đựng
cái tiến trình không thể tin là sự thực đang diễn ra.
Mandela, khi đó, không còn chỉ là một
biểu tượng của những người Nam Phi da đen và những người da trắng tham
gia vào cuộc tranh đấu. Một số người Nam Phi gốc Âu giờ đây đang kết án
chế độ phân biệt chủng tộc cũng cảm thấy bớt bị giày vò mặc cảm, họ thật
sự hy vọng vào một sự thương thỏa quyền lực có thể làm trấn tĩnh sự kết
án sục sôi của thế giới đối với chế độ apartheid.
Mandela: không phải một tượng đài bằng
đá mà là một con người bằng xương bằng thịt, cao ráo; những gì mà ông
phải chịu đựng không khiến ông trở thành một con người ôm thù hận mà
trái lại, còn nhân bản hơn, thậm chí đối với ngay cả những kẻ đã dựng
nên cái nhà tù là chế độ apartheid. Người ta nhìn thấy ông nói chuyện
rất tự nhiên với những kẻ từng dựng hàng rào cách ly hàng triệu người
Nam Phi da đen, không cho phép được thực hiện quyền công dân ngay trên
đất nước của mình. Khi Hội nghị CODESA tiếp tục chương trình của mình,
những thỏa thuận giẫm chân tại chỗ và ngay lúc đó, hội nghị bị đe dọa
bởi cuộc đụng độ giữa cảnh sát và một nhóm người theo chủ nghĩa
apartheid quá khích ngay tại lối vào tòa nhà nơi các cuộc thảo luận đang
diễn ra. CODESA kết thúc nhiều tháng sau đó trong sự bế tắc. Thành tựu
lớn nhất mà nó đạt được là chắc chắn dọn đường cho một Hiến pháp mới,
thiết lập các quyền bình đẳng cho tất cả người dân ở Nam Phi.
Khi giải Nobel Hòa bình được trao cho
Nelson Mandela vào năm 1993, đối với một số người, trong đó có chúng
tôi, niềm vui có phần giảm đi một chút khi Ủy ban Nobel cũng quyết định
trao giải thưởng này cho F.W.de Klerk. Sẽ chỉ có một lễ trao giải tại
Oslo cho cả hai người được vinh danh. Tôi, cùng với George Bizos, được
mời tham gia vào phái đoàn của Mandela đến dự buổi lễ này. Chúng tôi đến
Thụy Điển cùng với ông và những người lãnh đạo A.N.C và chúng tôi đã có
một kỷ niệm không thể quên khi chứng kiến ông nhận giải thưởng.
Sau buổi lễ, lại có một sự kiện khác để
lại dấu ấn đặc biệt đối với chúng tôi. Với tư cách là những người tháp
tùng Mandela, chúng tôi đứng trên balcon của khách sạn mà tất cả chúng
tôi, gồm cả Madiba (một tên gọi khác của Mandela) đang ở. Chúng tôi
chứng kiến một đám đông lớn bên dưới đang tôn vinh ông, những người
Scandinavian và cả những người khác, tất cả đều hát vang những bài ca tự
do của A.N.C. Đó là sự tôn vinh đầy cảm xúc. George và tôi nhận ra khi
đó de Klerk và vợ của ông ta đang đứng trên balcon bên cạnh và chúng tôi
không thể tin nổi những gì mình thấy ngay sau đó. Vợ chồng de Klerk
quay lưng đi trước đám đông hân hoan ngoài đường và lui vào bên trong
khách sạn. Phải chăng khi đó Klerk đã nhận ra những bài hát kia đâu dành
cho ông?
Trong những năm cuối đời của Madiba,
thỉnh thoảng tôi lại đến thăm ông tại ngôi nhà rộng rãi, bài trí trang
nhã được cấp cho ông ở ngoại ô Johannesburg. George và tôi thường ăn
sáng cùng ông ở đó. Ông thường dậy muộn – một sự nhượng bộ trước tuổi
tác, do đó, bữa ăn sáng thực ra là bữa sáng và bữa trưa gộp lại. Ông
ngồi ở vị trí của người chủ nhà trong bữa ăn trên chiếc ghế quen thuộc
của mình. Từ phòng bếp kề bên, những người phục vụ thân thiện sẽ bày lên
bàn ăn một thực đơn phong phú các món ăn đơn giản. Họ sẽ cho ông biết
đây là món gì khi ông hỏi hay chỉ vào món ăn. Bữa sáng là bữa ăn yêu
thích của ông, đó cũng là thời gian mà ông dành để tiếp khách.
Sau khi ăn, chúng tôi sẽ đi sang phòng
khách, nơi Madiba ngồi trên một chiếc ghế đặc biệt. Thi thoảng, ông lại
với để nắm bàn tay của George. George là người từng đồng hành với ông
trong thời gian ông bị xét xử, không chỉ tại các phiên tòa mà còn trong
nhiều tình huống khác. Sau khi Mandela nghe những lời thăm hỏi của tôi,
ông thường nắm chặt bàn tay tôi trong bàn tay lớn, với những ngón tay
cứng cáp của ông, ông hỏi George về những người đồng chí trong tổ chức
A.N.C, những người đã cùng ông vào sinh ra tử. Ông luôn muốn được nghe
các tin tức, đôi khi ông cười rất sảng khoái hoặc đưa ra những bình luận
nhiều suy tư trước những câu chuyện của George.
Có lẽ điều mất đi ở Mandela ở thời kỳ
này là sự dí dỏm, sự hài hước thường bật ra rất nhanh trong những tình
huống bất ngờ. Năm 1998, ông kết hôn với Graça Machel, một nữ chiến binh
từng tham gia cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân Tây Ban
Nha ở Mozambique và từng là quả phụ của Samora Machel, Tổng thống
Mozambique, người bị giết trong một vụ tai nạn máy bay được cho là do
một nhóm ủng hộ chế độ apartheid ở Nam Phi sắp đặt. Như thế, Machel là
một phụ nữ đã kết hôn với hai vị tổng thống. Vào cuối buổi lễ kết hôn,
sau khi nói “I do” (Tôi đồng ý) và nhận được sự chúc mừng nồng nhiệt của
mọi người, bà đã tuyên bố sẽ giữ họ của mình là Machel. Mandela, khi
được hỏi ông nghĩ thế nào về điều này, đã trả lời, “Tôi mừng vì vợ tôi
không muốn tôi lấy mất tên của mình”.
Sự cận nhân tình ở Mandela được thể hiện
ở rất nhiều điều, qua nhiều câu chuyện. Có một lần, khi tôi đang đến
chơi với Mandela tại tư gia của ông, thì Zindzi, cô con gái út trong số
hai đứa con của ông với Winnie ghé qua. Hai cha con ôm nhau; ông hỏi con
gái có muốn gì không- ăn thứ gì, chẳng hạn? Cô gái trả lời với vẻ tiếc
nuối, cô không thể ở lại với cha vì mẹ cô đang đợi ở ô-tô ngoài kia.
Madiba rướn đầu và vai lên, ông nói như thể nài nỉ: “Ra bảo mẹ con vào
đây đi!”. Mấy phút sau, Winnie bước vào phòng, như một vị khách vui vẻ
của người đàn ông mà bà đã từng chia sẻ một tình yêu bền bỉ xuyên qua
khoảng cách của những nhà tù và xuyên qua cả sự chia rẽ về chí hướng của
hai người trong cuộc đấu tranh để giải phóng Nam Phi.
Nguồn: The New Yorker, 16-12-2013
0 nhận xét:
Đăng nhận xét