Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

Phấn đấu xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa

Trần Độ
Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ xây dựng một nền văn hoá mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, coi đó là một trong những mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.


Để thực hiện những mục tiêu đó, Đảng chủ trương “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt…” (Đảng cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.29).
Toàn bộ chủ nghĩa xã hội cũng như từng bộ phận của nó chỉ có thể ra đời bằng kết quả tổng hợp của cả ba cuộc cách mạng, của toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là con đường hình thành nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa (Vấn đề xây dựng con người mới là vấn đề rộng lớn, cần được nghiên cứu riêng. Cuốn sách này chỉ đề cập nó trong chừng mực có liên quan trực tiếp đến việc xây dựng nền văn hoá mới). Tuy nhiên, xây dựng nền văn hoá mới và con người mới là nhiệm vụ trung tâm của cách mạng tư tưởng và văn hoá. Cuộc cách mạng này với nội dụng rộng lớn và phức tạp, có một vai trò quyết định trực tiếp trong việc làm biến đổi thế giới tinh thần của con người, làm biến đổi đời sống tư tưởng và văn hoá của toàn xã hội.
Để tiến hành tốt cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá, để xây dựng thành công nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta phải hiểu biết những điều cơ bản về bản chất, cơ cấu, chức năng, vai trò của văn hoá, những quy luật phát triển của nó ; hiểu rõ thực chất, mục tiêu, nhiệm vụ và vị trí của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá ; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế, văn hoá và chính trị, văn hoá và con người. Chúng ta cũng phải nắm vững thực chất và những đặc điểm của nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chúng ta xây dựng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa văn hoá hiện đại với văn hoá quá khứ của dân tộc ta, mối quan hệ giữa văn hoá Việt Nam với văn hoá thế giới, nhận rõ vai trò của giao lưu văn hoá, trước hết là giữa nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới.
Chúng ta cũng phải thấy rõ hiện trạng của văn hoá nước ta khi cả nước bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, thấy hết những thuận lợi và những khó khăn phức tạp của việc xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa không trải qua sự phát triển văn hoá tư bản chủ nghĩa ; thấy rõ nhiệm vụ nặng nề của việc xây dựng văn hoá trong tình hình một đất nước vừa trải qua 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, một nửa nước chịu sự tác hại to lớn của “văn hoá” thực dân mới và hiện nay lại phải không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, phải đương đầu với những âm mưu phá hoại thâm độc của kẻ thù bên ngoài trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá.
Chúng ta cũng cần nhận rõ sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng tư tưởng và văn hoá, của việc xây dựng nền văn hoá mới. Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng đang không ngừng được tăng cường và cải tiến.
Có nhận thức sâu sắc những điều nói trên chúng ta mới hiểu rõ đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng ta, mới có khả năng cụ thể hoá đường lối đó, vạch ra những nhiệm vụ phải làm trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
I- Khái niệm văn hoá, cơ cấu, chức năng và những quy luật phát triển của văn hoá
Văn hoá là một khái niệm có nhiều nghĩa. Tính nhiều nghĩa của nó được quy định bởi chỗ phạm vi thể hiện của nó rất rộng : từ một hành vi đạo đức, một tập quán, phong tục, một phát minh khoa học, một tác phẩm nghệ thuật cho đến toàn bộ thiên nhiên đã nhân tính hoá (nhà cửa, máy móc, đường sá, đồ dùng sinh hoạt, tất cả những di tích mà nhà khảo cổ học tìm thấy như mảnh gốm, rìu đá, v.v…). Văn hoá được xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Một định nghĩa về văn hoá thích hợp với khảo cổ học chưa chắc đã trùng hợp với định nghĩa về văn hoá xét từ giác độ triết học.
“Văn hoá” bắt nguồn từ chữ la-tinh culltura, có nghĩa là canh tác, vun trồng, chăm sóc, cải thiện, lúc đầu có ý chỉ sự vỡ đất, chăm bón đất đai, lao động nông nghiệp. Nguồn gốc của từ “văn hoá” có liên quan đến lao động, đến hoạt động tích cực cải tạo của con người. Về sau, từ này chuyển nghĩa, nói về tính chất khai trí, có giáo dục, có học vấn, sự phát triển các năng lực tinh thần của con người.
Nhiều nhà lý luận văn hoá đã nhấn mạnh đến tính chất người của văn hoá. Văn hoá là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người, là cái giúp cho người tách khỏi thế giới tự nhiên và vươn lên từng bước làm chủ tự nhiên. Ranh giới phân biệt giữa thiên nhiên và văn hoá thể hiện ở trình độ phát triển của bản thân con người.
Có nhiều tài liệu định nghĩa văn hoá là tổng thể những thành tựu của xã hội trong sự phát triển vật chất và tinh thần của nó, là toàn bộ những giá trị tinh thần và vật chất do con người sáng tạo ra.
Các tài liệu Liên Xô có nói đến văn hoá theo nghĩa rộng và văn hoá theo nghĩa hẹp. Văn hoá theo nghĩa rộng thì bao gồm văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Văn hoá vật chất bao gồm cả tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao động), cả quan hệ sản xuất và cả tư liệu tiêu dùng.
Cách chia như trên cũng mang tính chất tương đối vì rằng trên thực tế, trong văn hoá, tất cả mọi cái vật chất đều có tính tinh thần và cái tinh thần được thể hiện, chứa đựng vào trong cái vỏ vật chất. Nói tới một cái máy hay một đồ dùng thường ngày, như bộ ấm chén uống trà chẳng hạn, với tư cách là một hiện tượng văn hoá, chủ yếu là ta nói tới trình độ phát triển tinh thần của con người, của xã hội về các mặt khoa học, thẩm mỹ, v.v…
Vì vậy, khi nói về văn hoá, nhiều nhà lý luận Liên Xô cũng chỉ nói đến văn hoá theo nghĩa hẹp, tức là chỉ nói đến văn hoá tinh thần.
Về khái niệm văn hoá, hiện nay các nhà khoa học đang còn tiếp tục nghiên cứu và tranh luận. Đã có tới trên 250 định nghĩa về văn hoá. Chúng ta không có điều kiện để đi sâu vào vấn đề này. Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra một định nghĩa về văn hoá tinh thần làm cơ sở cho việc tiếp tục nghiên cứu các vấn đề được đặt ra trong cuốn sách này.
Văn hoá tinh thần là toàn bộ các giá trị tinh thần và đời sống tinh thần của xã hội trong tính toàn vẹn và mối liên hệ hữu cơ giữa các thành tố của nó ; các giá trị này đều được thể hiện và chứa đựng trong những dạng vật chất : của cải vật chất, vật thể văn hoá nghệ thuật, hành vi ứng xử của con người, v.v… chúng tạo nên một kiểu sinh hoạt tinh thần nhất định ở một giai đoạn lịch sử nhất định của một xã hội, một dân tộc hay một giai cấp nhất định, đánh dấu trình độ phát triển tinh thần của xã hội, dân tộc, giai cấp đó. Khái niệm văn hoá tinh thần không chỉ bao gồm các giá trị tinh thần mà còn bao gồm sự sáng tạo, bảo quản, phân phối, phổ biến và tiêu thụ, sử dụng các giá trị tinh thần ấy. Văn hoá tinh thần cũng cần có cơ sở vật chất của nó.
Định nghĩa trên đây thích hợp cho việc phân tích mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế, văn hoá và chính trị, cho việc tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hoá.
Định nghĩa ấy cũng giúp chúng ta hiểu rõ mối quan hệ mật thiết giữa việc thoả mãn nhu cầu vật chất với việc thoả mãn nhu cầu văn hoá của con người. Chúng ta thấy rằng mọi của cải vật chất do xã hội tạo ra đều chứa đựng yếu tố tinh thần, đều là kết quả của hoạt động vật chất lẫn hoạt động tinh thần, đều nói lên trình độ của con người, của xã hội về các mặt khoa học, kỹ thuật, thẩm mỹ, đạo đức, giáo dục, thế giới quan, v.v… Tất nhiên, những sản phẩm của nền sản xuất tinh thần (như bức tranh, bản nhạc, …) là nhằm thoả mãn nhu cầu văn hoá. Song, xã hội càng tiến bộ thì những đối tượng tiêu dùng vật chất không những đáp ứng nhu cầu vật chất mà còn thoả mãn cả những nhu cầu văn hoá ngày càng cao của con người. Nhà xây là để giải quyết nhu cầu ở, song không phải cứ có chỗ ở là được, mà con người cần ở sao cho hợp khoa học, hợp vệ sinh, hợp đạo lý và sao cho đẹp nữa. Ăn, mặc, đi lại … cũng như vậy. Mọi nhu cầu vật chất của con người xứng đáng với danh hiệu con người đều bao hàm nhu cầu văn hoá, không thể tách rời nhu cầu vật chất khỏi nhu cầu văn hoá. Vì thế ngay trong lĩnh vực sản xuất vật chất mỗi sản phẩm làm ra đều phải trù tính đến cả việc thoả mãn nhu cầu vật chất lẫn nhu cầu văn hoá. Đảng ta quan tâm đến việc “thảo mãn ngày càng đầy đủ không những nhu cầu vật chất mà cả nhu cầu văn hoá của toàn xã hội” (Đảng cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 56).
Nói đến nhu cầu văn hoá phải chú ý đến mấy điểm sau : một là, nhu cầu văn hoá nảy sinh hàng ngày hàng giờ trong một phạm vi cuộc sống con người, nó vừa thể hiện nhu cầu đối với sản phẩm tinh thần, vừa gắn liền với nhu cầu vật chất ; hai là, nhu cầu văn hoá thường không có giới hạn, đặc biệt là đối với chất lượng của các sản phẩm văn hoá, đối với những hoạt động sáng tạo ; ba là, nhu cầu văn hoá bao gồm cả nhu cầu hưởng thụ, thưởng thức sản phẩm văn hoá lẫn nhu cầu sáng tạo, hoạt động văn hoá, bằng hoạt động sáng tạo, con người tự thoả mãn nhu cầu văn hoá.
Chủ nghĩa xã hội không những chăm lo thoả mãn mà còn chăm lo phát triển đúng đắn các nhu cầu văn hoá của mọi thành viên trong xã hội. Song chúng ta không san bằng các nhu cầu văn hoá, không biến mọi người thành một khuôn mẫu đồng loạt, cứng nhắc. Sự phát triển tinh thần của con người ngày càng tăng lên thì các nhu cầu văn hoá của nó ngày càng đa dạng, càng cá thể hoá. Sự thoả mãn các nhu cầu văn hoá cần phải có định hướng mục đích về chính trị và tư tưởng. Cần phân biệt có loại nhu cầu chân chính, đúng đắn, lành mạnh và có loại nhu cầu không đúng đắn, không lành mạnh, lạc hậu. Sự thoả mãn nhu cầu văn hoá phải hướng vào việc nâng cao tư tưởng, tình cảm và tâm hồn, tạo ra những nhu cầu mới cao hơn, phát triển thêm nhu cầu trong nhân dân. Và chính quá trình phát triển các nhu cầu văn hoá mới ngày càng cao trong nhân dân là quá trình hình thành từng bước những phẩm chất của con người mới. Đó là một khía cạnh rất có ý nghĩa trong nhiệm vụ xây dựng con người mới của hoạt động văn hoá. Về cơ cấu của văn hoá tinh thần, có nhiều cách phân chia. Trong Báo các chính trị tại Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, phần nói về các nhiệm vụ văn hoá xã hội cũng thể hiện một quan niệm về cơ cấu của văn hoá tinh thần. Báo cáo chính trị nêu rõ, trong việc xây dựng một nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa thì nền giáo dục có tầm quan trọng hàng đầu, nền văn hoá nghệ thuật có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, các hoạt động thể thao thể dục, y tế, chăm sóc trẻ em là những hoạt động không thể thiếu, các hoạt động này có người còn coi là một thành tố của văn hoá, được gọi là văn hoá thể lực. Tuy nhiên, những thành tố sau đây được nhiều người đề cập hơn cả :
1- Văn hoá chính trị. Đó là tổng hợp những tư tưởng chính trị, pháp quyền, cơ cấu Nhà nước, những chuẩn mực pháp lý, v.v…
2- Văn hoá đạo đức. Đó là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm, những nguyên tắc đạo đức được thể hiện trong một hệ thống những chuẩn mực đạo đức, những phẩm chất, những tình cảm và thói quen … về mặt đạo đức. Những chuẩn mực đạo đức điều khiển hành vi đạo đức và chỉ đạo những quan hệ đạo đức.
3- Khoa học và giáo dục. Đó là tổng hợp những tư tưởng, những tri thức trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội, trong lĩnh vực giáo dục.
4- Văn hoá thẩm mỹ. Đó là năng lực của con người có thể cải tạo thế giới “theo những quy luật của cái đẹp” (Mác) và toàn bộ những giá trị thẩm mỹ do con người sáng tạo ra. Trong văn hoá thẩm mỹ, văn hoá nghệ thuật chiếm một vị trí quan trọng.
Ngoài ra, có tài liệu còn nói đến văn hoá quản lý và văn hoá lao động.
Hệ tư tưởng Mác – Lê-nin không thể được coi như một thành tố ngang với những thành tố khác của văn hoá. Hệ tư tưởng Mác – Lê-nin là toàn bộ những tư tưởng và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, thể hiện dưới hình thức lý luận, về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, pháp quyền, triết học, xã hội, đạo đức học và mỹ học. Nó có mặt trong tất cả các thành tố nói trên của văn hoá. Hệ tư tưởng Mác – Lê-nin là hạt nhân của văn hoá xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện bản chất giai cấp công nhân của văn hoá đó, nó nằm ở cơ sở của mọi yếu tố cấu thành văn hoá xã hội chủ nghĩa, câu kết các yếu tố đó lại thành một chỉnh thể, phân biệt văn hoá xã hội chủ nghĩa với văn hoá tư sản, phong kiến, … Hệ tư tưởng Mác – Lê-nin là yếu tố quy định nội dung xã hội chủ nghĩa của văn hoá các dân tộc khác nhau đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế, Nghị quyết Đại hội lần thứ IV Đảng cộng sản Việt Nam vạch rõ : nền văn hoá mới là nền văn hoá “xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa” (Đảng cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 27). Bản báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội IV cũng nêu lên cho cách mạng tư tưởng và văn hoá nhiệm vụ quan trọng là : “tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin và đường lối, chính sách của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác – Lê-nin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống chính trị và tinh thần của toàn dân, làm cho đường lối, chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng” (Đảng cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 114).
Với cơ cấu như trên, khái niệm văn hoá tinh thần khác khái niệm ý thức xã hội ở chỗ nào ?
Ý thức xã hội với mọi hình thái của nó (hệ tư tưởng chính trị và pháp quyền, đạo đức, khoa học, triết học, nghệ thuật …) là nội dung cơ bản của văn hóa tinh thần. Đồng thời, văn hoá tinh thần còn bao gồm những thói quen nhất định, những phương tiện và những thiết chế nhằm sản xuất (trường quay phim, nhà xuất bản, hội sáng tác, cơ quan nghiên cứu khoa học, các tập thể sáng tác không chuyên nghiệp, v.v…), bảo quản (cơ quan lưu trữ, bảo tàng, thư viện, v.v…), phân phối, phổ biến (rạp chiếu bóng, nhà diễn giảng, phòng hoà nhạc, trường học, thư viện, bảo tàng, v.v…) và tiêu thụ các giá trị tinh thần. Có những thiết chế tổng hợp vừa sản xuất vừa phổ biến văn hoá tinh thần như : câu lạc bộ, nhà hát, nhạc viện, đài phát thanh, đài truyền hình, các tổ bộ môn trong trường đại học, v.v… Các thiết chế thuộc lĩnh vực văn hoá tinh thần tổ chức nên đời sống tinh thần của xã hội. Văn hoá tinh thần còn bao gồm những phương thức giao tiếp giữa con người, bao gồm ngôn ngữ. Vì thế, khái niệm văn hoá tinh thần rộng hơn khái niệm ý thức xã hội, rộng hơn hệ tư tưởng và tâm lý xã hội.
Hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực văn hoá được khách quan hoá thành các giá trị tinh thần cụ thể. Các giá trị này có thể tồn tại dưới dạng vật thể (quyển sách, bức tranh, pho tượng …), nhưng còn một hình thức biểu hiện khá quan trọng của chúng là hoạt động (hoạt động của giáo viên, bác sĩ, nhà diễn giảng, diễn viên sân khấu, ca sĩ, nghệ sĩ múa, …). Các giá trị của văn hoá đạo đức chủ yếu biểu hiện dưới dạng hành động và các quan hệ giữa con người với nhau.
Chúng ta đã nói đến bản chất và cơ cấu của văn hoá tinh thần, giờ đây bàn đến chức năng của nó trong xã hội.
Những chức năng cơ bản của văn hoá là :
1- Chức năng nhận thức. Văn hoá trang bị cho con người những tri thức về tự nhiên, xã hội, con người.
2- Chức năng cải tạo xã hội. Văn hoá giúp cải tạo xã hội, cải tạo thế giới và con người. Chức năng xã hội quan trọng nhất của văn hoá là giáo dục, hình thành mẫu người mới, phù hợp với lý tưởng chính trị - xã hội, đạo đức, thẩm mỹ của một giai cấp nhất định (trong xã hội có giai cấp).
3- Chức năng giao tiếp. Văn hoá là phương tiện giao tiếp giữa các thế hệ, các dân tộc, các quốc gia, giữa nhà khoa học và nghệ sĩ với công chúng.
4- Chức năng định hướng trong hệ thống các giá trị tinh thần. Văn hoá là phương tiện giúp người ta đánh giá các hiện tượng trong hiện thực. Nó cũng chế định những chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi con người theo những lý tưởng nhất định, dựa trên sự đánh giá các hành vi đó.
Đó là những chức năng chung. Ngoài ra, mỗi thành tố của văn hoá có thể có thêm một vài chức năng riêng. Ví dụ, nghệ thuật ngoài những chức năng trên còn có chức năng thẩm mỹ, chức năng giải trí, v.v…
Sự tồn tại và phát triển của văn hoá có những quy luật của nó, những quy luật này đã được Mác, Ăng-ghen và Lê-nin phát hiện.
Trước hết chúng ta xét mối quan hệ giữa văn hoá với phương thức sản xuất, giữa văn hoá và cơ sở kinh tế.
Sự phát triển của văn hoá do lao động trong lĩnh vực sản xuất vật chất quyết định, điều này thể hiện ở chỗ là chính sự biến đổi về phương thức sản xuất quyết định sự biến đổi về văn hoá. Mỗi kiểu văn hoá nhất định trong lịch sử phải phù hợp với mỗi phương thức sản xuất trong quá trình phát triển xã hội loài người và sự biến đổi của các kiểu văn hoá xét đến cùng là do sự biến đổi của phương thức sản xuất quyết định.
Theo Mác và Ăng-ghen thì ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và nói rộng ra thì các quá trình văn hoá phản ánh các quá trình sản xuất vật chất. Nhưng đây không phải là sự phản ánh trực tiếp, máy móc mà là sự phản ánh gián tiếp. Mác và Ăng-ghen nhấn mạnh rằng sản xuất tinh thần có tính độc lập tương đối của nó. Không thể máy móc cho rằng dựa trên trình độ phát triển thấp của cơ sở kinh tế thì không thể có được sự phát triển tương đối cao của văn hoá. Những yếu tố khác nhau của văn hoá gắn với cơ sở vật chất theo cách khác nhau : một số thì trực tiếp (ví dụ các khoa học tự nhiên và kỹ thuật), số khác thì gián tiếp (triết học, nghệ thuật, đạo đức, v.v…). Do đó, sự phát triển lịch sử của văn hoá diễn ra không đồng đều và có mâu thuẫn. Một mặt, văn hoá phụ thuộc vào cơ sở kinh tế, mặt khác nó có tác động tích cực trở lại đối với cơ sở kinh tế, nó có sức mạnh cải tạo rất lớn. Trong lịch sử thế giới đã có những trường hợp những đỉnh cao về văn hoá xuất hiện ở những xã hội mà nền kinh tế còn rất thấp. Đảng ta cũng có một quan niệm rất biện chứng là : “… Không phải trình độ văn hoá của xã hội phụ thuộc máy móc vào trình độ phát triển kinh tế” (Đảng cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. Báo Nhân dân, ngày 28-3-1982).
Một quy luật nữa trong sự phát triển của văn hoá là các yếu tố hợp thành của nó có liên hệ và tác động lẫn nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp. Ví dụ, những thành tựu của khoa học sớm muộn cũng kéo theo nó sự tiến bộ của kỹ thuật, đến lượt mình điều này lại được phản ánh trong các hình thức khác của văn hoá và sinh hoạt hàng ngày. Khoa học và kỹ thuật ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật, không những cung cấp cho nghệ sĩ những phương tiện mới để vật chất hoá hình tượng (nhất là trong kiến trúc, nghệ thuật thực dụng, điện ảnh, âm nhạc, sân khấu, …) mà còn góp phần hình thành quan điểm của nghệ sĩ đối với thế giới và do đó ảnh hưởng đến nội dung sáng tạo nghệ thuật. Đến lượt mình, nghệ thuật tác động qua lại với khoa học, nhất là khoa học xã hội, tham gia tích cực vào quá trình giáo dục con người ; mặt khác, việc nâng cao học vấn và phát triển giáo dục lại ảnh hưởng đến sự phát triển của khoa học và nghệ thuật.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, văn hoá tinh thần, về nội dung tư tưởng, là văn hoá giai cấp. Tính giai cấp của văn hoá biểu hiện ở chỗ : văn hoá tinh thần do những lực lượng nào sáng tạo và thể hiện những tư tưởng nào, phục vụ lợi ích của ai, ai được hưởng thụ những thành tựu của nó, các cơ sở vật chất của văn hoá nằm trong tay ai. Do đó, trong xã hội có giai cấp, văn hoá thống trị là văn hoá tinh thần của giai cấp nắm chính quyền.    
Riêng trong lĩnh vực sáng tác nghệ thuật, Mác và Ăng-ghen đã nêu ra quan điểm về tính khuynh hướng của nghệ thuật làm cơ sở để sau này Lê-nin đề xuất nguyên lý tính đảng của nghệ thuật.
Nghiên cứu văn hoá trong xã hội tư bản chủ nghĩa, Lê-nin đã nêu lên nguyên lý nổi tiếng về sự tồn tại hai dòng văn hoá trong mỗi nền văn hoá dân tộc : văn hoá tư sản thống trị và những yếu tố của văn hoá dân chủ và xã hội chủ nghĩa do quần chúng lao động bị bóc lột tạo ra.
Cùng với tính giai cấp, văn hoá còn có tính dân tộc. Một nền văn hoá bao giờ cũng gắn chặt với một dân tộc. Mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng, phong tục tập quán riêng, cách tổ chức cuộc sống riêng, có những truyền thống văn hoá được giữ lại từ đời này qua đời khác. Mặt khác, phải thấy rằng giao lưu văn hoá giữa các dân tộc là một quy luật của quá trình văn hoá - lịch sử. Không có dân tộc nào mà văn hoá của nó lại phát triển hoàn toàn độc lập với văn hoá các dân tộc khác. Vốn văn hoá của mỗi dân tộc, ngoài những yếu tố độc đáo riêng, còn có những yếu tố tiếp thu từ các dân tộc khác để biến thành tài sản của dân tộc mình. Như vậy, trong sự phát triển văn hoá có mối liên hệ biện chứng giữa tính dân tộc và tính quốc tế.
Sự phát triển sản xuất tinh thần cũng như sự phát triển sản xuất vật chất không thể thực hiện được nếu không có sự kế thừa. Kế thừa là một quy luật quan trọng trong sự phát triển tiến bộ của văn hoá. Giai cấp tiến bộ trong một thời kỳ lịch sử nhất định tiếp thu những gì quý giá, trước hết là những thành tựu khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật của văn hoá quá khứ, lĩnh hội có phê phán và cải tạo nó, phát triển và làm giàu văn hoá. Ngay cả những sự cải tạo to lớn như những cuộc cách mạng xã hội (đặc biệt là cách mạng xã hội chủ nghĩa) cũng không làm gián đoạn tính kế thừa trong sự phát triển văn hoá. Đồng thời, văn hoá mới dứt khoát đoạn tuyệt với những yếu tố trong văn hoá cũ mang những đặc điểm của hệ tư tưởng lỗi thời, với những truyền thống phản động trong lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ giữa con người, với những quan niệm giả dối hoặc lạc hậu trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật, với mọi loại thành kiến, nhất là thành kiến tôn giáo.
Đảng ta đã tiếp thu phát triển học thuyết Mác – Lê-nin về văn hoá, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta, tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá đồng thời với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học - kỹ thuật, từng bước xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, từng bước xây dựng nước ta thành một xã hội văn hoá cao.
II- Cách mạng tư tưởng và văn hoá và vị trí của nó trong ba cuộc cách mạng
A- Bản chất, mục tiêu và những nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hoá
Thuật ngữ “cách mạng văn hoá” do Lê-nin đề ra năm 1923 trong tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác xã”. Nói “cách mạng văn hoá” không có nghĩa là không nói đến cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng vì rằng khái niệm văn hoá bao hàm hệ tư tưởng với tính chất là hạt nhân của văn hoá, biểu hiện bản chất giai cấp của văn hoá và nằm ở cơ sở của mọi yếu tố hợp thành văn hoá. Hệ tư tuởng là toàn bộ những tư tưởng và quan điểm chính trị, kinh tế, pháp quyền, triết học, xã hội, đạo đức học và mỹ học, phản ánh trong hình thức lý luận (trong hình thức những quan niệm, những quy luật, những phạm trù), các quan hệ của con người với đời sống xã hội và giữa con người với nhau.
Đảng ta sử dụng thuật ngữ “cách mạng tư tưởng và văn hoá” là cốt nhấn mạnh vai trò của hệ tư tưởng trong toàn bộ nền văn hoá. Không thể quan niệm đây là hai cuộc cách mạng diễn ra song song mà phải quan niệm đó là một cuộc cách mạng thống nhất.
Thực chất cách mạng tư tưởng và văn hoá là gì ? Cách mạng tư tưởng và văn hoá là quá trình thay thế nền sản xuất tinh thần kiểu tư sản bằng nền sản xuất tinh thần kiểu mới, là quá trình hình thành và phát triển nền sản xuất tinh thần kiểu cộng sản chủ nghĩa (mà giai đoạn đầu là kiểu xã hội chủ nghĩa), với sự biến đổi của nội dung sinh hoạt tinh thần của xã hội phù hợp với sản xuất tinh thần kiểu mới đó.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là chủ thể chân chính của văn hoá. Chỉ có thể xây dựng nền sản xuất tinh thần kiểu mới, nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa với điều kiện là phải xây dựng chế độ làm chủ tập thể về văn hoá (song song với việc xây dựng chế độ làm chủ về chính trị và về kinh tế). “Xây dựng chế độ làm chủ tập thể về văn hoá là tạo cho mọi người một cuộc sống tinh thần phong phú ; là biến mọi giá trị văn hoá thành tài sản của nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân trực tiếp sáng tạo ra các giá trị văn hoá ; là làm cho các quan hệ đối xử giữa người và người thể hiện lẽ sống tốt đẹp : “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người” (Đảng cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 23). Do đó cũng có thể nói rằng : cách mạng tư tưởng và văn hoá là quá trình xây dựng chế độ làm chủ tập thể về văn hoá, đấu tranh chống các tư tưởng phản động, phi vô sản, khắc phục những tàn dư văn hoá lỗi thời, xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, từng bước xây dựng nước ta thành một xã hội văn hoá cao. Đó cũng chính là nội dung của cách mạng tư tưởng và văn hoá ở nước ta.
Xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cách mạng tư tưởng và văn hoá. Chúng ta biết rằng chức năng xã hội quan trọng nhất của văn hoá là hình thành mẫu người mới theo một lý tưởng xã hội – chính trị, đạo đức, thẩm mỹ nhất định. Như vậy có thể nói mục đích cuối cùng của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng con người mới phát triển hài hoà và toàn diện, diễn ra trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Muốn có con người mới phát triển toàn diện phải có chế độ mới tức là chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế mới, tức là nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Nhưng cách mạng tư tưởng và văn hoá có vai trò quyết định trực tiếp trong việc làm biến đổi thế giới tinh thần của con người, làm biến đổi đời sống tư tưởng và văn hoá của toàn xã hội, giúp con người mới phát triển toàn diện.
Những nhiệm vụ có tính quy luật mà bất cứ nước nào tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hoá cũng phải thực hiện là :
1- Làm cho đông đảo nhân dân tiến gần đến sự sáng tạo các giá trị tinh thần, có nghĩa là làm cho các giá trị tinh thần đã được sáng tạo trở thành tài sản của nhân dân, nhân dân có đủ điều kiện để hưởng thụ các giá trị đó và tạo điều kiện cho nhân dân tham gia sáng tạo các giá trị tinh thần. Muốn làm được điều này phải thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể sau đây : xoá nạn mù chữ, xây dựng hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa, nâng cao dần trình độ học vấn của nhân dân.
2- Xây dựng thế giới quan khoa học, vô thần, giải thoát nhân dân khỏi thế giới quan phản khoa học, khắc phục tệ nạn mê tín dị đoan.
3- Bảo đảm cho con người được phát triển toàn diện và hài hoà, được trang bị tối đa những thành tựu của văn hoá nhân loại. Muốn vậy phải làm nhiều việc, trong đó có việc kế thừa và phát triển những truyền thống văn hoá dân chủ và tiến bộ của quá khứ. Đồng thời, phải xây dựng những giá trị tinh thần mới trong các lĩnh vực khoa học, đạo đức, văn hoá nghệ thuật, v.v…
4- Cải tạo trí thức cũ, xây dựng đội ngũ trí thức mới xã hội chủ nghĩa.
5- Khắc phục sự không bình đẳng về văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa nam và nữ, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa các dân tộc ; phát triển các nền văn hoá dân tộc trong một nước có nhiều dân tộc.
6- Đấu tranh khắc phục hệ tư tưởng phong kiến và tư sản, biến những nguyên tắc của hệ tư tưởng Mác – Lê-nin thành niềm tin sâu sắc, có cơ sở khoa học của cá nhân, giáo dục bản lĩnh áp dụng những nguyên tắc ấy vào hoạt động thực tiễn và đấu tranh không thoả hiệp với những tàn dư quá khứ, với những quan điểm tư sản và xét lại. Cải tạo lối sống cũ, xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa.
Với bản chất, mục tiêu và nhiệm vụ như trên đã phân tích, cách mạng tư tưởng và văn hoá là quy luật chung của bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, là quy luật bắt buộc đối với mọi nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Tất nhiên ở mỗi nước những nhiệm vụ cụ thể của cuộc cách mạng này có thể có sự biến đổi phù hợp với những đặc điểm dân tộc và lịch sử, với trình độ phát triển kinh tế và văn hoá đạt được trước khi tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hoá.
Riêng ở nước ta, về nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hoá, cần chú ý mấy điểm sau đây :
Một là, nước ta từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cũng có nghĩa là ở nước ta chưa có nền văn hoá tư bản chủ nghĩa hoàn chỉnh. Điều đó tạo ra cả thuận lợi lẫn khó khăn : tư tưởng tư sản chưa ăn sâu trong nhân dân, trong xã hội, song tàn dư tư tưởng phong kiến còn khá nặng, tư tưởng tiểu tư sản còn phổ biến. Do đó song song với việc đấu tranh chống tư tưởng tư sản, chúng ta phải chống tàn dư của tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản. Phải đề phòng khuynh hướng lệch lạc là : khi chống tư tưởng phong kiến thì lại sa vào tư tưởng tư sản hoặc ngược lại, khi chống tư tưởng tư sản thì lại sa vào tư tưởng phong kiến. Phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, lập trường của chủ nghĩa Mác – Lê-nin mà chống các tư tưởng phi vô sản.
Vì không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên khi bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chúng ta còn nhỏ yếu, năng suất lao động còn rất thấp. Để giải quyết tình trạng này, Đảng ta chủ trương tiến hành ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Đứng về giác độ cách mạng tư tưởng và văn hoá, chúng ta thấy rằng ở nước ta cần phải chú trọng sự nghiệp phát triển giáo dục và khoa học và khi giành được chính quyền thì việc cấp thiết phải làm ngay là xoá nạn mù chữ, vì như Lê-nin nói, người mù chữ đứng ngoài chính trị.
Hai là, đế quốc Mỹ đã để lại cho chúng ta những hậu quả tai hại và nặng nề của “văn hoá” thực dân mới. Đấu tranh khẩn trương và kiên trì, đồng bộ và toàn diện, không một chút lơi lỏng nhằm xoá bỏ triệt để những tàn dư của “văn hoá” thực dân mới là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hoá.
Ba là, chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đã có hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Do đó, về mặt văn hoá, chúng ta cũng nhận được sự giúp đỡ tích cực của các nước anh em. Sự giao lưu văn hoá giữa nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng được triển khai mạnh mẽ.
Chúng ta cũng đang từng bước mở rộng sự giao lưu văn hoá giữa nước ta với nhiều nước khác trên thế giới, trước hết là với các nước trong phong trào không liên kết.
Tình hình đó làm cho nhu cầu văn hoá của nhân dân ta, nhất là thanh niên, tuy có mặt còn thấp song lại có những mặt khá cao. Chúng ta đồng thời vừa phải giải quyết những nhiệm vụ mà lẽ ra chủ nghĩa tư bản phải giải quyết, những vấn đề mà các nước xã hội chủ nghĩa anh em đã giải quyết, vừa đứng trước những vấn đề mà hiện nay các nước xã hội chủ nghĩa phát triển cũng đang gặp phải. Chúng ta có những mặt còn kém xa thế giới, song có những mặt lại không thua gì thế giới. Khó có thể so sánh tình hình cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá ở Việt Nam hiện nay với những năm nào đó của lịch sử Liên Xô hay các nước xã hội chủ nghĩa khác. Một mâu thuẫn hiện nay là : chúng ta phải đáp ứng nhu cầu văn hoá khá cao trên cơ sở một nền kinh tế còn kém phát triển.
Những điều nói trên làm cho nhiệm vụ cách mạng tư tưởng và văn hoá ở nước ta càng thêm nặng nề, phức tạp, đòi hỏi một sự nỗ lực chủ quan rất lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Tính nhân dân sâu sắc là một đặc điểm quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hoá. Tính nhân dân của cuộc cách mạng này thể hiện ở mấy điểm sau đây : một là, nó được tiến hành vì lợi ích của nhân dân ; hai là, nó do chính quần chúng nhân dân thực hiện bằng sự cố gắng và nhiệt tình của họ ; ba là, khối lượng những nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hoá rất lớn đòi hỏi phải dần dần lôi cuốn tất cả những người lao động tham gia vào quá trình sáng tạo tinh thần ; bốn là cách mạng tư tưởng và văn hoá dẫn đến sự biến đổi về tâm lý, về bộ mặt tinh thần của con người, cho nên nó chỉ đạt được kết quả trong quá trình sáng tạo lịch sử của bản thân quần chúng nhân dân.
Trong cách mạng tư tưởng và văn hoá, tính nhân dân thống nhất với tính giai cấp vô sản. Mác đã gọi giai cấp vô sản là giai cấp nắm trong tay sự phục hưng nhân loại. Giai cấp công nhân thể hiện những lợi ích cơ bản của mọi người lao động một cách đầy đủ, sâu sắc. Đoàn kết đông đảo quần chúng lao động xung quanh mình, giai cấp công nhân trở thành động lực, đạo đức và tinh thần của sự tiến bộ văn hoá. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong xã hội là một bảo đảm cho sự xây dựng và phát triển thắng lợi văn hoá xã hội chủ nghĩa. Theo Lê-nin, cách mạng văn hoá sẽ biến văn hoá vô sản – văn hoá này đã tiếp thu những gì ưu tú do thiên tài của nhân loại tạo ra – thành tài sản của toàn dân, nâng dần các tầng lớp lao động trong xã hội lên đến trình độ trưởng thành về tư tưởng, chính trị, đạo đức mà giai cấp công nhân có thể đạt tới.
Cách mạng tư tưởng và văn hoá là quá trình phát triển có kế hoạch dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản được nhân dân thực hiện, thông qua sự tổ chức, quản lý của Nhà nước.
Cách mạng tư tưởng và văn hoá được tiến hành trên cơ sở xã hội hoá tư liệu sản xuất, nhờ đó nó dự kiến xây dựng nền văn hoá mới một cách tự giác, có định hướng mục đích rõ rệt. Cách mạng tư tưởng và văn hoá tiến hành trên cơ sở kế hoạch Nhà nước được thảo ra một cách khoa học, đó là một chương trình rộng lớn nhằm đổi mới đời sống tinh thần của xã hội một cách toàn diện. Trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng cộng sản Việt Nam, kế hoạch 5 năm 1976 – 1980 được gọi là kế hoạch phát triển và cải tạo kinh tế, văn hoá, phát triển khoa học, kỹ thuật. Như vậy sự phát triển văn hoá đã được kế hoạch hoá, song song với những mục tiêu và chỉ tiêu về kinh tế có những mục tiêu và chỉ tiêu về văn hoá. Tuy vậy, trong kế hoạch Nhà nước của chúng ta chỉ mới ghi được một vài chỉ tiêu về văn hoá, vấn đề kế hoạch hoá sự phát triển văn hoá cần phải được nghiên cứu thêm.
Đương nhiên, kế hoạch hoá các quá trình sáng tạo tinh thần được tiến hành theo những hình thức khác so với kế hoạch hoá sản xuất vật chất. Không thể dự định chính xác số lượng tác phẩm nghệ thuật sẽ sáng tác, song lại có thể đưa kế hoạch dự định thực hiện những biện pháp bảo đảm trình độ tư tưởng - nghệ thuật cao cho sáng tạo nghệ thuật.
Kế hoạch hoá quá trình phát triển văn hoá xã hội chủ nghĩa còn bao gồm cả những vấn đề thực tiễn như việc phân phối hợp lý tài sản văn hoá của xã hội, hoàn thiện mọi hình thức và phương pháp phổ biến văn hoá, các tổ chức và cơ quan của nó. Ở đây, chúng ta thấy kế hoạch hoá trong các lĩnh vực này không những tính đến các chỉ tiêu chất lượng mà cả những chỉ tiêu số lượng (số lượng thư viện, bảo tàng, sản phẩm của các nhà xuất bản, mở rộng màng lưới điện ảnh, v.v…).
Cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá phải do Đảng cộng sản lãnh đạo và tổ chức (vấn đề sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình phát triển văn hoá, đối với toàn bộ công tác văn hoá sẽ được nói rõ ở phần dưới).
B- Vị trí cách mạng tư tưởng và văn hoá trong ba cuộc cách mạng. Quan hệ giữa văn hoá và kinh tế.
Cách mạng tư tưởng và văn hoá là một bộ phận hợp thành của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nó gắn bó hữu cơ với cách mạng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực quan hệ sản xuất và khoa học - kỹ thuật. Ba cuộc cách mạng này luôn luôn tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau và gắn bó chặt chẽ với nhau. Kết quả của một cuộc cách mạng đồng thời cũng là kết quả tổng hợp của ba cuộc cách mạng, không có một kết quả nào chỉ là của riêng một cuộc cách mạng. Toàn bộ chủ nghĩa xã hội chỉ có thể ra đời bằng kết quả tổng hợp của toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cách mạng tư tưởng và văn hoá thúc đẩy hai cuộc cách mạng kia, thúc đẩy việc xây dựng nền kinh tế mới, đồng thời bản thân nó cũng chịu tác động của hai cuộc cách mạng kia, những kết quả của nó sở dĩ có được cũng là nhờ dựa trên những thành tựu của hai cuộc cách mạng kia.
Giữa kinh tế và văn hoá có mối quan hệ chặt chẽ. Ăn, ở, sản xuất của cải vật chất là thuộc lĩnh vực kinh tế. Nhưng ăn, ở như thế nào, đó là vấn đề thuộc lĩnh vực văn hoá. Kế hoạch phát triển kinh tế phải gắn liền với kế hoạch phát triển văn hoá.
Chỉ thị số 08 CT/TW ngày 13-4-1977 của Ban chấp hành trung ương Đảng về công tác văn hoá văn nghệ trong giai đoạn cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội có nêu lên một luận điểm quan trọng : “Tư tưởng và văn hoá không chỉ là kết quả của kinh tế mà còn là động lực thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới …”.
Kinh tế phát triển sẽ tạo ra những điều kiện vật chất làm cho văn hoá phát triển nhanh, trái lại, văn hoá phát triển lại thúc đẩy kinh tế phát triển. Nâng cao được trình độ văn hoá của quần chúng thì sản xuất có điều kiện phát triển nhanh. Văn hoá là sản phẩm của một chế độ xã hội, là biểu hiện của kinh tế. Nhưng hoạt động văn hoá không phải là một hoạt động thụ động ; không phải ngồi chờ kinh tế phát triển rồi khi đó mới phát triển văn hoá.
Một mặt cần nhận rõ văn hoá là kết quả của kinh tế, Lê-nin đã nói rằng : “muốn trở thành những người có văn hoá thì tư liệu, vật chất để sản xuất phải phát triển tới một mức nào đó, chúng ta phải có một cơ sở vật chất nhất định nào đó” (V.I. Lê-nin. Toàn tập. Nhà xuất bản Tiến bộ. Mát-xcơ-va, 1978, tiếng Việt, t. 45, tr. 429).
Mặt khác, cần thấy rõ văn hoá là động lực thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới.
Quan hệ sản xuất được xác lập và củng cố một mặt nhờ ý thức giác ngộ của quần chúng, mặt khác nhờ áp dụng khoa học, kỹ thuật tạo ra năng suất lao động cao, cải thiện đời sống. Nhưng muốn áp dụng được khoa học, kỹ thuật phải nhờ vào tuyên truyền, cổ động, báo chí, phim ảnh, nhờ vào văn học, nghệ thuật, …
Trong ba cuộc cách mạng, Đảng ta cho rằng cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, điều đó hoàn toàn đúng đối với hoàn cảnh đất nước ta, vì nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Khoa học, kỹ thuật là một lĩnh vực của văn hoá. Nhưng kỹ thuật cũng là một khâu của sản xuất. Còn khoa học thì ngày nay đang dần dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học, kỹ thuật thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển lực lượng sản xuất. Tuy nhiên tác dụng và vai trò của khoa học, kỹ thuật đến đâu và như thế nào, điều đó còn tuỳ thuộc vào chỗ nó chịu sự chi phối của quan hệ sản xuất nào, chịu sự chỉ đạo của hệ tư tưởng nào, gắn với nền văn hoá nào : tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Ở đây cách mạng tư tưởng và văn hoá có tầm quan trọng của nó, nó giữ vai trò chỉ đạo, hướng dẫn, chịu sự chỉ đạo của tư tưởng Mác – Lê-nin, gắn liền với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa và do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mở đường và khoa học, kỹ thuật của chúng ta phục vụ đời sống con người.
Về mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế, cần làm rõ thêm một vấn đề nữa : văn hoá mới và kinh tế mới đều là mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta (cũng như chế độ mới và con người mới). Cần khắc phục quan niệm sai lầm cho rằng kinh tế là mục đích, còn văn hoá chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích đó.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội IV có nêu : “Mục đích cao quý của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn ngày càng đầy đủ không những nhu cầu vật chất mà cả nhu cầu văn hoá của toàn xã hội”  (Đảng cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 55 – 56).
Hạnh phúc của nhân dân, hạnh phúc của mỗi con người không phải chỉ là ở chỗ đầy đủ về vật chất, tuy rằng nhu cầu vật chất là nhu cầu thiết yếu của con người để tồn tại. Nhân dân có được hạnh phúc là nhân dân được thoả mãn những nhu cầu ngày càng cao về vật chất, văn hoá, tinh thần, được sống theo một lẽ sống tốt đẹp, đầy tình thương yêu, tôn trọng lẫn nhau. Nhu cầu vật chất của con người cũng không thể chỉ được thoả mãn một cách thuần tuý vật chất mà cần phải được thoả mãn một cách có văn hoá, có đạo lý, có tình cảm.
Cũng cần nói thêm rằng có thể xây dựng nền văn hoá mới ngay từ bây giờ, không chờ đợi đến lúc kinh tế phát triển cao.
Hiện nay người ta đã nhận thức rõ một chân lý : mức sống có thể chưa cao vẫn có thể có một lối sống đẹp, “đói cho sạch, rách cho thơm”. Ngược lại, ở một nơi nào đó, mức sống có thể rất cao, song con người vẫn sống đau khổ, lo âu hoặc chán chường, bế tắc, đạo đức suy vi, người và người thù hằn nhau, nghi ngờ nhau, cuộc sống của mỗi người bị chi phối bởi nhiều điều bất trắc, độc ác ; không ai làm chủ được số phận của mình.
Không thể lấy lối sống thay cho mức sống. Phải có mức sống nào đó mới sống được, nhưng rõ ràng là lối sống không hoàn toàn phụ thuộc vào mức sống và ở mức sống nào cũng phải quan tâm đến lối sống và cũng có thể xây dựng được lối sống hợp lý và có văn hoá. Hiện nay trong lối sống đang xuất hiện những yếu tố không lành mạnh như sống không quan tâm tới mục đích, lý tưởng của cuộc sống, mất tin tưởng vào thực tại, đi tìm những sự giải đáp về cuộc sống ở mê tín, dị đoan, thần thánh, sống một cách thực dụng chạy theo những lợi ích vật chất hàng ngày, sống một cách cơ hội, nịnh nọt, luồn lọt, nói dối, nói xấu làm hại người khác để mưu cầu lợi ích riêng tư cho mình. Đáng lưu ý là điều này lại xảy ra trong một bộ phận thanh niên. Những yếu tố ấy lại đang có chiều hướng phát triển. Về thực chất, đó là những yếu tố của một lối sống thấp kém, lạc hậu, hạ phẩm giá con người, do những yếu tố kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và phản xã hội chủ nghĩa đẻ ra, chi phối và khuyến khích. Đấu tranh để xây dựng một lối sống mới, không phải chỉ có những biện pháp văn hoá là đủ. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của mọi ngành và cần có nhiều biện pháp đồng bộ.
Tóm lại, ba cuộc cách mạng có quan hệ hữu cơ, biện chứng với nhau và phải được tiến hành đồng thời. Vị trí của cách mạng tư tưởng và văn hoá thể hiện ở nhiệm vụ trung tâm của nó là xây dựng con người mới, ở chỗ nó đóng vai trò quyết định trực tiếp trong việc làm biến đổi thế giới tinh thần của con người, làm biến đổi đời sống tư tưởng và văn hoá của toàn xã hội.
Cách mạng tư tưởng và văn hoá là sự nghiệp cao quý nhưng cũng là một sự nghiệp lâu dài, khó khăn và phức tạp.
III- Xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam
A- Thực chất và những đặc trưng cơ bản của văn hoá mới
Về thực chất và những đặc trưng cơ bản của nền văn hoá mới, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV nêu rõ :
“Nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Đó là một nền văn hoá có tính đảng và tính nhân dân. Nền văn hoá ấy được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Nó vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành tựu văn hoá, khoa học hiện đại, vừa là sự kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt Nam, của văn hoá Việt Nam. Đó là truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường và mưu trí trong đấu tranh cho độc lập và tự do ; là tình thương giữa những người lao động ; là đức tính cần cù, sáng tạo và tinh thần lạc quan yêu đời. Đó còn là chủ nghĩa quốc tế vô sản đã bắt rễ vào đời sống tinh thần của nhân dân ta từ ngày có Đảng đến nay. Nền văn hoá ấy là sự kết hợp hài hoà những tinh hoa văn hoá có phong cách riêng của các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam” (Đảng cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 62 – 63).
Như vậy, nền văn hoá mới mà chúng ta xây dựng là văn hoá xã hội chủ nghĩa, một kiểu văn hoá mới, tiên tiến nhất trong lịch sử văn hoá từ xưa tới nay, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa làm cơ sở. Văn hoá xã hội chủ nghĩa khác biệt về nguyên tắc với văn hoá tư sản, phong kiến, với văn hoá của mọi xã hội người bóc lột người về nội dung và mục đích, về vị trí và vai trò trong đời sống xã hội. Nội dung xã hội chủ nghĩa của văn hoá mới được quy định bởi những hình thức quan hệ xã hội mới, bởi ưu thế tuyệt đối của hệ tư tưởng Mác – Lê-nin trong đời sống tinh thần của nhân dân, bởi sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Những nét cơ bản của văn hoá xã hội chủ nghĩa là : tính đảng cộng sản, tính nhân dân, tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, sự kết hợp hữu cơ chủ nghĩa quốc tế vô sản với chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những nét chung của mọi nền văn hoá của các dân tộc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Những nét đó nói lên bản chất giai cấp công nhân của văn hoá xã hội chủ nghĩa. Tính giai cấp của văn hoá xã hội chủ nghĩa biểu hiện qua một trình độ phát triển cao của nó là tính đảng. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, quyền lợi của Đảng cộng sản, của giai cấp công nhân nhất trí với quyền lợi của nhân dân, do đó tính đảng nhất trí với tính nhân dân (song không phải hoà làm một). Văn hoá xã hội chủ nghĩa phải là văn hoá có tính đảng cao và tính nhân dân sâu sắc.
Văn hoá mới mà chúng ta xây dựng là văn hoá xã hội chủ nghĩa, song đó là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứ không phải nền văn hoá xã hội chủ nghĩa nói chung. Do đó, cùng với tính đảng và tính nhân dân, nền văn hoá mới của ta có tính chất dân tộc đậm đà.
Xây dựng nền văn hoá mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc chính là sự giải quyết mối quan hệ giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong lĩnh vực văn hoá.
Cần hiểu đúng khái niệm tính chất dân tộc của nền văn hoá mới. Tính chất dân tộc không phải chỉ thể hiện ở hình thức mà cả ở nội dung của văn hoá. Lấy ví dụ trong văn nghệ, tính chất dân tộc của một tác phẩm nghệ thuật không phải chỉ ở những yếu tố của hình thức, ở phương tiện tạo hình - biểu hiện như ngôn ngữ dân tộc, nhạc cụ dân tộc, màu sắc ưa thích của dân tộc hoặc ở loại thể độc đáo của dân tộc như tuồng, chèo, cải lương, … Cố nhiên, lĩnh vực hình thức là một lĩnh vực thể hiện quan trọng và dễ thấy của tính chất dân tộc. Tính chất dân tộc còn và chủ yếu là nằm ở nội dung tác phẩm, nó thể hiện trước hết ở chủ đề tư tưởng của tác phẩm, trong cách người nghệ sĩ đặt vấn đề xuất phát từ tình cảm và tâm hồn dân tộc và giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích cơ bản của dân tộc, những vấn đề nóng hổi đặt ra trước dân tộc. Nó cũng thể hiện ở chủ đề cụ thể của tác phẩm tức là những sự kiện xảy ra trong đời sống dân tộc, những sự kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội diễn ra trong nước, hoàn cảnh thiên nhiên tạo nên môi trường sống và những con người dân tộc với những ý nghĩ, tình cảm, nguyện vọng, ước mơ và hành động của họ, với tâm hồn, tính cách mạng, truyền thống dân tộc. Hiện thực dân tộc và con người dân tộc là những nhân tố quan trọng bậc nhất góp phần tạo nên tính dân tộc thể hiện trong nội dung cụ thể (chủ đề cụ thể) của tác phẩm.
Nói đến tính dân tộc của văn hoá, ngoài việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp như trên đã đề cập, chúng ta còn phải giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc ta với các dân tộc khác (tính dân tộc và tính quốc tế), giữa hiện tại và tương lai của dân tộc ta với quá khứ của nó (vấn đề truyền thống và cách tân, vấn đề kế thừa di sản văn hoá quá khứ).
Như Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IV của Đảng đã nói, nền văn hoá mới của chúng ta “vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành tựu văn hoá khoa học hiện đại, vừa là sự kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt Nam, của văn hoá Việt Nam”.
Các dân tộc không sống cô lập. Sự tác động qua lại của các dân tộc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hoá dân tộc là quy luật phát triển lịch sử của văn hoá. Văn hoá mỗi dân tộc là sự hoà hợp, sự liên kết hữu cơ với các yếu tố tiếp thu được từ các dân tộc khác. Ngày nay, khi có sự tăng cường giao lưu văn hoá giữa các nước trên thế giới, vốn văn hoá của mỗi dân tộc không tách rời vốn văn hóa thế giới. Có những vốn văn hoá là của chung của mọi dân tộc, chúng ta cần tiếp thu một cách sáng tạo, làm cho nó thích ứng với đặc điểm Việt Nam, biến thành tài sản của dân tộc ta. Ví như điện ảnh chẳng hạn hoặc những phát minh khoa học, kỹ thuật ; áo quần cũng vậy. Đối với những giá trị văn hoá của từng nước, chúng ta cần nghiên cứu, tiếp thu có phê phán, chọn lọc. Từ chối các giá trị văn hoá của thế giới hoặc hấp thụ không chọn lọc đều không đúng với quan điểm của Đảng ta. Một mặt, chúng ta phải tiếp thu vốn văn hoá của thế giới ; mặt khác, chúng ta phải đóng góp cho vốn văn hoá thế giới.
Khi tiếp thu vốn văn hoá của thế giới cần lưu ý một điểm là, muốn cho những vốn đó trở thành của dân tộc thì phải đi từng bước vững chắc, không thể nóng vội. Ví dụ tiếp thu múa ba-lê hoặc nhạc giao hưởng, bước đầu chúng ta phải học tập nắm thật vững ngôn ngữ nghệ thuật của các loại hình này để khán giả làm quen và thấu hiểu cái hay, cái đẹp của chúng. Chỉ trên cơ sở đó chúng ta mới từng bước đưa những yếu tố dân tộc vào các loại hình này, biến nó thành ba-lê Việt Nam, nhạc giao hưởng Việt Nam, thành tài sản của dân tộc ta. Ở đây mọi sự hấp tấp, nóng vội đều có hại.
Cũng cần khắc phục tư tưởng sai lầm cho rằng dường như nếu để nhân dân ta tiếp xúc nhiều với những thành tựu của văn hoá, văn nghệ thế giới thì sẽ làm yếu tính dân tộc của văn hoá, văn nghệ Việt Nam, yếu tố quốc tế sẽ bài trừ yếu tố dân tộc.
Chúng ta phải kiên quyết chống tâm lý tự ti dân tộc, đầu óc sùng ngoại, khuynh hướng lai căng, bắt chước, thiếu sáng tạo, tiếp thu văn hoá nước ngoài không chọn lọc. Nhưng mặt khác, phải kiên quyết chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc trong lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, chống đầu óc bài ngoại, khuynh hướng tự đóng kín. Cần nhớ rằng giao lưu văn hoá là một quy luật phát triển của văn hoá mỗi dân tộc và văn hoá thế giới. Cần làm chủ vốn văn hoá, văn nghệ của dân tộc ta và vươn lên từng bước làm chủ vốn văn hoá, văn nghệ của loài người. Hấp thụ có chọn lọc tinh hoa văn hoá, văn nghệ thế giới là để đáp ứng mấy yêu cầu sau đây :
Một là, đưa tinh hoa nghệ thuật thế giới đến với nhân dân ta, thoả mãn nhu cầu văn hoá, thẩm mỹ ngày càng cao của nhân dân, nâng cao trình độ văn hoá, trình độ thẩm mỹ của nhân dân.
Hai là, giúp cho giới văn hoá, văn nghệ nước ta học tập cái hay của tinh hoa văn hoá, văn nghệ thế giới để bồi bổ cho văn hoá, văn nghệ nước ta, kích thích tinh thần sáng tạo, vươn lên, nâng cao chất lượng các sản phẩm văn hoá, văn nghệ của nước ta cho kịp với trình độ thế giới.
Đối với vấn đề tiếp thu tinh hoa văn nghệ thế giới, ngành văn học đã làm được khá nhiều, các ngành khác còn phải cố gắng hơn nữa.
Sự phát triển sản xuất tinh thần cũng như sự phát triển sản xuất vật chất, không thể thực hiện được nếu không có kế thừa. Kế thừa là một tính quy luật của sự phát triển văn hoá. Kế thừa không phải là tiếp thu hoàn toàn và sử dụng máy móc những giá trị văn hoá do các thế hệ trước tạo ra, mà có phân tích phê phán, có cải biến, sáng tạo. Khi kế thừa phải ghi nhớ luận điểm của Lê-nin về hai dòng văn hoá trong văn hoá dân tộc. Phải đứng trên lập trường giai cấp vô sản để phủ định những yếu tố văn hoá phản động và tiếp thu những yếu tố văn hoá dân chủ, xã hội chủ nghĩa của quá khứ.
Chúng ta kiên quyết chống lại thái độ xem nhẹ vốn văn hoá, văn nghệ dân tộc. Dân tộc ta có một nền văn hoá lâu đời. Chúng ta cần nỗ lực sưu tầm, bảo quản và phát huy vốn văn hoá, văn nghệ đó. Cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu đi đôi với việc tăng cường công tác sưu tầm, bảo quản. Một trong những phương thức gìn giữ tốt vốn văn hoá, văn nghệ dân tộc là làm sao cho nó sống ngay trong lòng nhân dân qua các thế hệ. Cần giáo dục cho thế hệ trẻ hiểu biết và giữ gìn những tinh hoa văn hoá, văn nghệ dân tộc.
Bảo vệ di sản tốt đẹp của văn hoá quá khứ không có nghĩa là đóng khung trong di sản đó. Kế thừa truyền thống phải đi đôi với đổi mới, sáng tạo. Dân tộc ta là dân tộc xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội từ gốc đến ngọn, cả lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng của nó. Việc tiếp thu vốn cũ, dù vốn đó có đẹp đẽ, phong phú đến đâu cũng không đủ. Phải ra sức sáng tạo cái mới dựa trên cơ sở truyền thống.
Cần khắc phục quan niệm sai lầm cho rằng chỉ có vốn văn hoá cổ truyền mới có tính dân tộc. Dân tộc phát triển không ngừng. Tính dân tộc bao giờ cũng là tính dân tộc của nền văn hoá đương đại của một dân tộc. Vốn cổ truyền cũng là của ta, vốn hiện đại cũng là của dân tộc ta. Đối với vốn cổ truyền còn nguyên dạng, chúng ta phải trân trọng giữ gìn để cho các thế hệ sau biết được vốn cổ. Đối với vốn cổ truyền không giữ nguyên dạng mà tự nó thay đổi trong đời sống thì chúng ta phải theo dõi, quan sát rút ra quy luật giúp cho các nghệ sĩ có sáng tạo về sau. Đối với những cái mới được sáng tạo ra trên cơ sở vốn cổ truyền thì cần khuyến khích mạnh mẽ. Đối với những cái hoàn toàn mới, chúng ta phải khuyến khích nếu đó là cái mới chân chính.
Chúng ta cũng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ văn hoá giữa các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Kế thừa và phát huy tinh hoa văn hoá có phong cách riêng của các dân tộc anh em song phải kết hợp hài hoà trong một phong cách chung của Việt Nam. Cần phát triển việc giao lưu và trao đổi văn hoá giữa các dân tộc, các địa phương trong cả nước, làm giàu cho nền văn hoá chung Việt Nam.
Bây giờ chúng ta nói tới tính đảng và tính nhân dân của nền văn hoá mới.
Tính đảng của văn hoá biểu hiện cả ở phương diện nội dung tư tưởng, cả ở phương diện tổ chức.
Về mặt nội dung, các giá trị và các chuẩn mực của văn hoá xã hội chủ nghĩa phải lấy hệ tư tưởng Mác – Lê-nin làm nhân lõi, tức là phải dựa trên thế giới quan duy vật biện chứng, những quan điểm Mác – Lê-nin về chính trị, pháp quyền, đạo đức, khoa học, giáo dục, nghệ thuật ; phải giáo dục cho nhân dân lý tưởng chính trị - xã hội, lý tưởng đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ cộng sản chủ nghĩa ; phải công khai bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động, phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ; toàn bộ kiến trúc thượng tầng phải góp phần tích cực bảo vệ, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Về mặt tổ chức, toàn bộ sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới phải do Đảng lãnh đạo, nó phải là một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đảng “phải chỉ đạo quá trình đó một cách có kế hoạch và tạo nên kết quả của nó” (Lê-nin bàn về văn hoá, văn học. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1977, tr. 462). Đảng phải lãnh đạo chặt chẽ các thiết chế, các cơ quan văn hoá nhất là các cơ quan sản xuất và phổ biến các giá trị văn hoá (xuất bản, truyền thanh, truyền hình, ấn loát, báo chí, xưởng phim, trường học, viện nghiên cứu khoa học, các hội sáng tác, các nhà hát, v.v…). Đảng phải tổ chức những người hoạt động văn hoá, giáo dục, nghệ thuật lại, ai chưa phải đảng viên thì tham gia các tổ chức đoàn thể do Đảng lãnh đạo.
Cần chú ý rằng khi nói đến tính đảng của tác phẩm nghệ thuật có nghĩa là chúng ta nói đến cả tính nghệ thuật của nó. Với tư cách một phạm trù mỹ học, tính đảng bao hàm tính nghệ thuật. Một tác phẩm có tính đảng cao không thể là một tác phẩm kém về mặt nghệ thuật. Đồng chí Trường Chinh đã nói : “tính đảng của một tác phẩm văn nghệ của ta chính là ở nội dung tư tưởng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội được thể hiện dưới những hình thức nghệ thuật phong phú, sinh động và trong sáng, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân, gây lòng tin tưởng đối với Đảng ta và chế độ ta” (Về văn hoá – văn nghệ. Nhà xuất bản Văn hoá. Hà Nội, 1972, tr. 256).
Còn tính nhân dân của văn hoá mới thể hiện ở những phương diện sau :
- Nhân dân là đối tượng phản ánh của văn hoá, văn nghệ ;
- Những lợi ích của nhân dân là cơ sở quan điểm, lý tưởng của các nhà hoạt động văn hoá, văn nghệ ;
- Nhân dân là chủ thể sáng tạo văn hoá, văn nghệ ;
- Nhân dân là người tiếp nhận, người hưởng thụ văn hoá, văn nghệ.
Tính đảng tư sản mâu thuẫn với tính nhân dân, tính dân tộc chân chính. Trái lại, tính đảng vô sản nhất trí với tính nhân dân, tính dân tộc của văn hoá, văn nghệ, vì rằng ngoài quyền lợi của nhân dân ra, Đảng ta không có quyền lợi nào khác ; vì rằng giai cấp công nhân xã hội chủ nghĩa là người duy nhất có khả năng kế thừa và phát triển tinh hoa của văn hoá dân tộc, dựa vào những truyền thống dân chủ của nó. Một tác phẩm văn nghệ có tính đảng cao đồng thời phải có tính nhân dân sâu sắc và tính dân tộc đậm đà. Tính đảng trở thành tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá tác phẩm văn hoá, nghệ thuật.
Tóm lại, có thể nói rằng nền văn hoá mới mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa Việt Nam có tính đảng cao, tính nhân dân sâu sắc, tính dân tộc đậm đà, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Mục tiêu cuối cùng của nền văn hoá này là con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam phát triển toàn diện hài hoà.
B- Những nhiệm vụ phải làm để xây dựng văn hoá mới
Để xây dựng thành công nền văn hoá mới, chúng ta phải thực hiện mấy nhiệm vụ lớn sau đây :
1. Phải sáng tạo những giá trị mới, xây dựng những chuẩn mực mới của văn hoá ở tất cả các thành tố của nó (văn hoá chính trị, văn hoá đạo đức, khoa học, giáo dục, văn hoá thẩm mỹ, văn hoá quản lý và văn hoá lao động), trên cơ sở tiếp thu và phát triển tinh hoa truyền thống văn hoá dân tộc, hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành tựu văn hoá, khoa học hiện đại.
2. Phải cải tạo tri thức cũ, đào tạo đội ngũ trí thức mới, đội ngũ những người hoạt động trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục, nghệ thuật, … các cán bộ hoạt động trong các thiết chế văn hoá. Đồng thời với việc xây dựng đội ngũ các nhà hoạt động văn hoá chuyên nghiệp, phải có biện pháp thu hút đông đảo  những người lao động tham gia sáng tạo, bảo quản, phổ biến các giá trị của văn hoá, làm cho họ trở thành chủ thể chân chính của văn hoá, phát huy tính tích cực của họ trong việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội ; cần phát huy sáng kiến khoa học, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ học vấn cho họ thông qua các lớp bổ túc văn hoá, các trường tại chức ; hướng họ tham gia xây dựng nếp sống văn minh, làm đẹp môi trường lao động và sinh hoạt, tham gia hoạt động nghệ thuật không chuyên, phong trào văn hoá quần chúng, v.v…
3. Từng bước, theo sát sự phát triển kinh tế, phải phát triển đời sống văn hoá trong nhân dân. Muốn thế phải xây dựng cơ sở vật chất cho văn hoá, xây dựng những thiết chế văn hoá phục vụ cho việc sáng tạo, bảo quản, phổ biến các giá trị văn hoá. Mỗi thiết chế văn hoá phải gồm đủ ba yếu tố : tổ chức, bộ máy và cán bộ ; cơ sở vật chất và trang bị thiết bị ; nội dung và các mặt hoạt động. Tránh tình trạng thư viện ít sách hoặc có sách mà không mấy ai đến đọc, nhà văn hoá biến thành “nhà văn khoá”. Cần khắc phục quan niệm “văn hoá chỉ cần tinh thần, không cần mấy đến cơ sở vật chất”. Phải xây dựng những chỉ tiêu về cơ sở vật chất của văn hoá trong các kế hoạch của Nhà nước về phát triển kinh tế và văn hoá. Cần thực hiện những nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hoá theo 3 phương hướng của Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đã vạch ra một cách cụ thể như sau :
a) Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường, ấp, đều có đời sống văn hoá ;
b) Tổ chức tốt hơn nữa đời sống văn hoá ở thành thị, thị xã làm cho thành thị xứng đáng giữ vai trò tiêu biểu cho nền văn hoá mới ;
c) Hết sức chăm lo xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn, chú ý đến vùng căn cứ cũ, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Xây dựng một số công trình như nhà văn hoá, rạp chiếu bóng, thư viện, sân vận động, v.v… ở huyện lỵ và các xã trong huyện, tạo thành một mạng lưới có chức năng xây dựng, phát triển và truyền bá nền văn hoá mới ở nông thôn.
Để xây dựng những công trình kể trên, để phát triển đời sống văn hoá, phải thực hiện chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm.
4. Kết hợp xây với chống, lấy xây làm chính, trên cả hai bộ phận của ý thức xã hội là hệ tư tưởng và tâm lý xã hội.
Như trên đã nói, hệ tư tưởng Mác – Lê-nin là nhân lõi, là linh hồn của văn hoá xã hội chủ nghĩa. Chính nó quy định nội dung xã hội chủ nghĩa và bản chất giai cấp vô sản của văn hoá này. Nhiệm vụ vô cùng quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hoá là giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, làm cho chủ nghĩa Mác – Lê-nin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống chính trị và tinh thần của toàn dân.
Hệ tư tưởng Mác – Lê-nin mang tính chất khoa học nhất quán, hoàn toàn dựa trên những quy luật khách quan của hiện thực, phản ánh chân thực những quy luật đó. Tính giai cấp, tính đảng của tư tưởng này bảo đảm cho tính khách quan, khoa học của nó. Hệ tư tưởng Mác – Lê-nin hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều và bệnh máy móc cứng nhắc, đồng thời hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc.
Hệ tư tưởng Mác – Lê-nin phục vụ lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng và của giai cấp công nhân đang hành động có ý thức nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, do đó nó là một hệ tư tưởng thực sự nhân đạo chủ nghĩa. Sứ mệnh cơ bản của nó là xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện và hài hoà của mọi thành viên trong xã hội. Mọi điều đi ngược lợi ích của người lao động, thù địch với bản chất chân chính của con người đều là xa lạ, là trái ngược với hệ tư tưởng Mác – Lê-nin.
Về bản chất, hệ tư tưởng Mác – Lê-nin là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản toàn thế giới, về nguyên tắc, nó gạt bỏ mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa nước lớn. Nó kết hợp đúng đắn tinh thần quốc tế vô sản với lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa.
Hệ tư tưởng Mác – Lê-nin giúp cho con người nắm được quy luật phát triển khách quan của xã hội, do đó phát huy được tính tự giác, chủ động, tích cực của nhân tố chủ quan (Đảng, Nhà nước, nhân dân lao động) trong quá trình xây dựng xã hội mới. Một khi đã thâm nhập sâu rộng vào quần chúng lao động, nó trở thành một lực lượng vĩ đại thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Ý nghĩa của hệ tư tưởng Mác – Lê-nin với tư cách là cơ sở tư tưởng của toàn bộ nền văn hoá xã hội chủ nghĩa và của từng lĩnh vực thuộc nền văn hoá đó được thể hiện ngày càng đầy đủ hơn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tính chất chiến đấu, tính chất tiến công là đặc điểm nổi bật của hệ tư tưởng Mác – Lê-nin. Tính chất đó thể hiện ở chỗ nó đấu tranh kiên quyết với những hệ tư tưởng của các giai cấp bóc lột và với những tư tưởng phi vô sản khác, ở chỗ nó đấu tranh bền bỉ, không khoan nhượng chống những tàn tích của những hành vi và quan điểm cũ thể hiện thành thói quen và ăn sâu vào tâm lý con người.
Nước ta từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Do đặc điểm lịch sử này, song song với việc giáo dục sâu rộng hệ tư tưởng Mác – Lê-nin và đường lối chính sách của Đảng, chúng ta phải tiến hành trong xã hội cuộc đấu tranh chống tư tưởng tư sản và tàn dư của tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và “văn hoá” của chủ nghĩa thực dân mới.
Trong cán bộ, đảng viên, phải kiên quyết khắc phục tư tưởng tiểu tư sản, chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và những tàn dư tư tưởng phong kiến.
Chúng ta phải tiếp tục đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, kiên quyết đấu tranh và ngăn ngừa mọi ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và “tả” khuynh, chủ nghĩa xét lại, khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm.
Tuyên truyền giáo dục hệ tư tưởng Mác – Lê-nin, đấu tranh chống những hệ tư tưởng của các giai cấp bóc lột và những tư tưởng phi vô sản là một nội dung vô cùng trọng yếu của việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới. Khái niệm văn hoá rộng hơn khái niệm hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng là cơ sở của một nền văn hoá. Phải gắn việc giáo dục hệ tư tưởng Mác – Lê-nin với việc xây dựng các lĩnh vực khác của văn hoá, làm cho các thành tố của văn hoá có cơ sở vững chắc là hệ tư tưởng Mác – Lê-nin. Công tác tư tưởng sẽ có hiệu quả cao nếu sử dụng tốt những phương tiện của văn hoá, văn nghệ, những phương tiện thông tin và tuyên truyền đại chúng. Việc nâng cao học vấn, nắm được những tri thức cơ bản của khoa học tư nhiên và khoa học xã hội, nắm được những nguyên lý cơ bản của triết học Mác – Lê-nin đều góp phần phát triển thế giới tinh thần của con người, góp phần xây dựng thế giới quan Mác – Lê-nin khoa học cho người lao động. Văn học, nghệ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục hệ tư tưởng Mác – Lê-nin. Bằng những hình tượng sinh động, nó biến những tư tưởng đúng thành cái đẹp, biến tư tưởng thành niềm tin sâu sắc của con người.
Đồng thời với việc giáo dục hệ tư tưởng Mác – Lê-nin, làm cho nó chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống chính trị và tinh thần của nhân dân, chúng ta phải hình thành một tâm lý xã hội (tức là ý thức thông thường) xã hội chủ nghĩa, xây dựng những tình cảm mới, những tác phong, tập quán, phong tục, truyền thống mới. Phải khắc phục những nhược điểm của tâm lý người sản xuất nhỏ, nói dối, làm ẩu, tản mạn, vô tổ chức, vô kỷ luật, nói và làm thiếu trách nhiệm, … đấu tranh khắc phục những tình cảm, tác phong, thói quen gia trưởng phong kiến, coi thường phụ nữ và thanh niên, khinh lao động chân tay, lười biếng trong lao động, suy nghĩ và học tập ; đầu óc công thần, địa vị ; suy tỵ, ghen ghét ; bệnh cục bộ, địa phương, bản vị ; lối làm việc quan liêu, xa thực tế, xa quần chúng ; bệnh độc đoán, chuyên quyền, coi thường tập thể, đàn áp tư tưởng ; lối suy nghĩ, làm việc bất chấp hiệu quả kinh tế, … ; đấu tranh chống những tình cảm, thói quen do chủ nghĩa thực dân mới để lại như tâm lý “sống gấp”, ăn chơi sa đoạ, nói dối làm giả, đầu cơ tích trữ, buôn lậu, ích kỷ hại người … ; cũng phải đấu tranh khắc phục tệ nạn mê tín dị đoan.
Chúng ta cũng phải tiến hành xây dựng trong nhân dân ta lối sống mới xã hội chủ nghĩa, thích hợp với đặc điểm và truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, một lối sống dựa trên tinh thần làm chủ tập thể, thấm nhuần tinh thần cách mạng và khoa học, dựa trên tình đoàn kết, thương yêu giữa những người lao động, một lối sống siêng năng và trung thực, trật tự và kỷ luật, giản dị và lành mạnh, khẩn trương và hoạt bát, tin tưởng và lạc quan, từ gia đình đến làng xóm, phố phường trong mỗi địa phương và trong cả nước.
5. Việc xây dựng nền văn hoá mới phải gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại những tàn dư tư tưởng và văn hoá của các chế độ cũ, chống lại ảnh hưởng tai hại của “văn hoá” thực dân mới, chống lại các âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt của địch trên mặt trận tư tưởng và văn hoá.
Riêng ở miền Nam, chủ nghĩa thực dân cũ và mới cùng với ba mươi năm chiến tranh đã để lại những hậu quả nặng nề trên lĩnh vực văn hoá và tư tưởng. Bằng nhiều thủ đoạn thâm độc, bọn Mỹ - nguỵ cố tạo ra một thứ “văn hoá” nô dịch, lai căng, cực kỳ phản động, xô đẩy một số khá đông thanh niên thành thị chạy theo lối “sống gấp”, vị kỷ, sa đoạ và ăn bám, đầy thú tính. Âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai là nhằm xoá bỏ mọi giá trị văn hoá truyền thống của nhân dân Việt Nam, làm suy đồi những thế hệ trẻ, làm cho họ sống không cần nhân phẩm, không có trách nhiệm với Tổ quốc ; làm cho người dân an phận sống trong xã hội độc ác, vô luân, ngăn chặn quần chúng đến với cách mạng.
Đế quốc Mỹ và tay sai còn triệt để khai thác và giữ lại những di hại của văn hoá thực dân cũ của Pháp, những tàn dư của xã hội phong kiến, lợi dụng chúng để thi hành chính sách ngu dân.
Đế quốc Mỹ thi hành chính sách văn hoá nô dịch trong thời kỳ chiến tranh xâm lược nên những thủ đoạn được đem ra thực hiện trước hết là nhằm phục vụ cho cuộc chiến tranh đó.
Ngay trong mấy chục năm có chiến tranh, nhân dân ta ở miền Nam đã kiên quyết đấu tranh chống “văn hoá” thực dân mới, bảo vệ và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Sau ngày giải phóng, chính quyền cách mạng đã làm được nhiều việc nhằm xoá bỏ thứ “văn hoá” độc hại đó và làm cho văn hoá cách mạng thâm nhập đời sống xã hội. Tuy vậy, cần tiếp tục đấu tranh khẩn trương và kiên trì xoá bỏ tàn dư “văn hoá” thực dân mới.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã nêu rõ : “Cuộc đấu tranh giữa hai con đường : giữa cái mới và cái cũ, tiên tiến với lạc hậu, tiến bộ với phản động trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, lối sống, đang diễn ra hàng ngày, rất phức tạp, mà chúng ta không thể nào xem nhẹ.
Trước mắt, chúng ta phải đấu tranh kiên quyết và có hiệu quả chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống văn hoá và xã hội. Phải có những biện pháp đồng bộ, về nhiều mặt : kinh tế, hành chính, tổ chức, tư tưởng, văn hoá. Đồng thời phải thấy rằng cuộc đấu tranh nhằm xây dựng con người mới và nền văn hoá mới là một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp và đầy khó khăn. Nó không thể tách rời cuộc đấu tranh kiên quyết, liên tục và sâu sắc nhằm quét sạch những tàn dư tư tưởng và văn hoá lạc hậu, phản động, sản phẩm của xã hội cũ – xã hội phong kiến đã từng tồn tại hàng nghìn năm, đặc biệt là chế độ thực dân cũ và mới ở miền Nam mấy chục năm gần đây ; không thể tách rời cuộc đấu tranh mạnh mẽ, bền bỉ và triệt để chống chiến tranh tâm lý ; tẩy trừ và thường xuyên ngăn ngừa mọi ảnh hưởng của các loại văn hoá phản động, đồi truỵ do bọn đế quốc, bọn bành trướng, bá quyền Trung Quốc và bè lũ tay sai lén lút đưa từ ngoài vào. Mấy năm qua, chúng ta nhận thức chưa đầy đủ và có phần buông lỏng các mặt đấu tranh đó. Trách nhiệm nặng nề của cách mạng tư tưởng và văn hoá là tiếp tục cải tạo và xây dựng con người, đề cao người tốt, việc tốt, phê phán cái xấu và không lành mạnh, tạo điều kiện thúc đẩy toàn bộ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” (Báo Nhân dân, ngày 28-3-1982).
6. Xây dựng con người mới
Như trên đã nói, mục tiêu cuối cùng của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng con người mới phát triển hài hoà và toàn diện của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV đã nêu lên những đặc điểm cơ bản của con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong đó những đặc trưng nổi bật là : làm chủ tập thể, lao động, yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản. Đại hội cũng đã phân tích những con đường và biện pháp hình thành con người mới. Vấn đề con người mới và việc xây dựng con người mới rất rộng lớn và phức tạp, cần được nghiên cứu riêng. Ở đây chúng tôi chỉ phân tích vai trò của cách mạng tư tưởng và văn hoá, nhất là vai trò của công tác văn hoá, văn nghệ đối với việc xây dựng con người mới. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IV của Đảng đã viết : “Con người là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Phải bằng kết quả tổng hợp của cả ba cuộc cách mạng, phải thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua lao động và đấu tranh thì những thành viên trong xã hội mới cải tạo được mình và dần dần trở thành con người mới, … Phải có nhiều biện pháp về các mặt : tư tưởng và tổ chức, giáo dục và hành chính, chính trị và văn hoá, pháp chế và kinh tế, … Trong các biện pháp ấy, tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hoá, áp dụng phổ biến phương pháp tự phê bình và phê bình là biện pháp có tầm quan trọng đặc biệt” (Đảng cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 65 – 66).
Cách mạng tư tưởng và văn hoá đóng vai trò quyết định trực tiếp trong việc làm biến đổi thế giới tinh thần của con người, làm biến đổi đời sống tư tưởng và văn hoá của toàn xã hội, giúp con người mới phát triển toàn diện. Cách mạng tư tưởng và văn hoá xây dựng hệ tư tưởng Mác – Lê-nin, thế giới quan khoa học cho con người mới, thực hiện nhiệm vụ xây dựng hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa, cải cách giáo dục, phát triển khoa học. Nó đem lại cho con người những tri thức về tự nhiên và xã hội ; nó đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng đạo đức mới, hình thành nền văn hoá thẩm mỹ mới (bao gồm cả văn hoá, nghệ thuật) ; nó giáo dục cho con người mới những quan điểm mỹ học Mác – Lê-nin, lý tưởng thẩm mỹ cộng sản chủ nghĩa, thị hiếu thẩm mỹ tốt, lành mạnh và phát triển những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, cao thượng. Văn hoá thẩm mỹ cũng góp phần to lớn vào việc phát triển phong phú nhân cách, bồi dưỡng và phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân, phát huy tinh thần sáng tạo của con người mới. Cách mạng tư tưởng và văn hoá cũng có nhiệm vụ xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa, xây dựng phong tục tập quán mới, xây dựng văn hoá hành vi xã hội chủ nghĩa, quy định những chuẩn mực ứng xử phù hợp với những yêu cầu của xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó góp phần làm cho con người mới có tư tưởng đúng và tình cảm đẹp, có tri thức và năng lực để làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân.
Tóm lại, cách mạng tư tưởng và văn hoá góp phần rất lớn vào sự phát triển toàn diện của con người mới, giúp con người phát triển cả về các mặt : trí, đức, thể, mỹ, lao động ; phát triển cả về tinh thần lẫn thể chất, trí tuệ lẫn tình cảm.
Tất nhiên cách mạng tư tưởng và văn hoá chỉ có thể có vai trò nói trên với điều kiện gắn liền với cách mạng về quan hệ sản xuất, với cách mạng khoa học - kỹ thuật, với quá trình xây dựng và không ngừng phát triển chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, với sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Nhờ cách mạng tư tưởng và văn hoá, quá trình xây dựng con người mới mới trở thành quá trình t giác, chủ động tích cực, có kế hoạch.
Trong việc xây dựng con người mới, ngành văn hoá có một số lợi thế riêng cần được chú trọng phát huy. Những lợi thế này được quy định bởi chỗ ngành văn hoá phụ trách việc sản xuất, bảo quản, phân phối, trao đổi và hướng dẫn tiêu thụ các giá trị nghệ thuật của các hoạt động chuyên nghiệp, đồng thời phụ trách công tác văn hoá giáo dục quần chúng, tức là phụ trách việc bảo quản, phân phối, trao đổi, hướng dẫn tiêu thụ mọi loại giá trị tinh thần do nhiều cơ quan văn hoá sản xuất ra và hướng dẫn tổ chức sáng tác văn nghệ không chuyên nghiệp của quần chúng nhằm giáo dục toàn diện và thoả mãn toàn diện các loại nhu cầu tinh thần của con người nhờ sử dụng các cơ quan văn hoá như câu lạc bộ, nhà văn hoá, thư viện, bảo tàng, công viên văn hoá, nhà triển lãm, v.v…
Những lợi thế đó là gì ?
Một là, việc giáo dục con người bằng các phương tiện văn hoá, văn nghệ sử dụng được thời gian rảnh rỗi của họ làm cho sự nghỉ ngơi của họ trở nên tích cực, có ích về thể chất và tinh thần, kết hợp được việc giáo dục với giải trí.
Hai là, nó thông qua việc thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu văn hoá mà thực hiện việc giáo dục tư tưởng và tình cảm cho nhân dân, xây dựng thế giới tinh thần phong phú cho con người mới, do đó sự giáo dục này được con người tiếp thu một cách tự nguyện. Thoả mãn nhu cầu văn hoá là một chức năng quan trọng của công tác văn hoá, văn nghệ, là một trong những mục đích cao quý của chủ nghĩa xã hội, thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chủ nghĩa.
Ba là, chức năng giáo dục của các hoạt động văn hoá bao gồm cả giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, phát triển cả lý trí lẫn tình cảm, tóm lại là giáo dục con người phát triển toàn diện về tinh thần.
Bốn là, việc giáo dục con người bằng các phương tiện văn hoá, nghệ thuật được thực hiện trong mọi lĩnh vực : cá nhân, gia đình, đời sống công cộng, trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất, công tác, lúc làm việc cũng như khi nghỉ ngơi, giải trí. Chúng ta được giáo dục khi đọc báo, đọc sách, thưởng thức nghệ thuật, xem truyền hình, triển lãm, đi tham quan, du lịch, dạo chơi công viên văn hoá … Chúng ta còn được giáo dục bởi môi trường thẩm mỹ trong lao động, trong sinh hoạt.
Năm là, bộ phận rất quan trọng của việc giáo dục con người bằng các phương tiện văn hoá, văn nghệ là giáo dục thẩm mỹ, với những ưu thế riêng có của nó so với các hình thức giáo dục khác.
Giáo dục thẩm mỹ xây dựng cho con người mối quan hệ thẩm mỹ đúng đắn với hiện thực, phát triển cảm xúc thẩm mỹ đúng đắn, lành mạnh, hình thành lý tưởng thẩm mỹ cộng sản chủ nghĩa và những quan điểm mỹ học Mác – Lê-nin. Đồng thời, do chỗ trong quan hệ thẩm mỹ dường như có sự tích hợp các quan hệ xã hội khác, do chỗ cái nhân lõi của lý tưởng thẩm mỹ chính là lý tưởng chính trị - xã hội, lý tưởng đạo đức cho nên khi tiến hành giáo dục thẩm mỹ không thể không tác động đến các mặt khác của đời sống tinh thần con người : chính trị, tư tưởng, đạo đức, … góp phần cải biến sâu sắc toàn bộ đời sống tinh thần, thế giới nội tâm của con người, góp phần xây dựng con người mới phát triển toàn diện, hài hoà của chủ nghĩa xã hội.
7. Xây dựng chế độ làm chủ tập thể về văn hoá. Dưới chủ nghĩa xã hội, nhân dân là người chủ thực sự của văn hoá. Quyền làm chủ tập thể về văn hoá thể hiện ở chỗ nhân dân được tạo điều kiện để trực tiếp sáng tạo văn hoá, để hưởng thụ mọi giá trị văn hoá xưa và nay. Hơn thế nữa, nó còn thể hiện ở chỗ nhân dân được giáo dục và tự giáo dục về các mặt đức, trí, mỹ, thể, nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học, trình độ thẩm mỹ để có thể tiếp thu những thành tựu văn hoá cao của loài người. Mác đã nói : “Muốn thưởng thức âm nhạc - phải có lỗ tai âm nhạc”. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân về văn hoá đòi hỏi phải nâng cao năng lực thẩm mỹ, trình độ học vấn … cho họ. Điều này cho thấy sự khác nhau về bản chất giữa nền văn hoá thật sự có tính nhân dân của ta với cái gọi là “văn hoá đại chúng” trong xã hội tư sản.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương tại Đại hội Đảng lần thứ V đã nêu rõ :
“Ra sức phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, văn nghệ thích hợp cho mọi người và những hoạt động phù hợp với từng lứa tuổi, từng địa phương, từng dân tộc, nhằm thoả mãn nhu cầu văn hoá to lớn và ngày càng tăng của nhân dân. Mở rộng hơn nữa phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng, thật sự gắn với phong trào sản xuất và chiến đấu, tạo ra cơ sở và nguồn nuôi dưỡng không bao giờ cạn cho nền văn hoá mới của chúng ta. Thắt chặt quan hệ giữa văn hoá, văn nghệ quần chúng với các hoạt động văn hoá, văn nghệ chuyên nghiệp, nâng cao không ngừng trình độ sáng tạo và thưởng thức của quần chúng. Kiên trì xây dựng nếp sống mới lành mạnh, khoa học, tiết kiệm và giản dị ; bảo vệ và phát triển các giá trị tinh thần. Kiên quyết bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, tiếp tục đấu tranh quét sạch văn hoá thực dân mới và ảnh hưởng của các loại văn hoá phản động, đồi truỵ khác. Tất cả những việc đó nhằm làm cho tư tưởng, tình cảm, lối sống mới thật sự chiếm ưu thế trong đời sống nhân dân, nhằm làm cho cả nước có chung một ý chí : xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hoá là đưa văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân” (Báo Nhân dân, ngày 28-3-1982).
Bảo đảm và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân về văn hoá là một nội dung trọng yếu của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá. Nó có tác dụng vô cùng quan trọng trong việc xây dựng thành công nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa.
8. Phát triển văn hoá của các dân tộc anh em sống trong Tổ quốc chung. Cần phát triển việc giao lưu và trao đổi văn hoá giữa các dân tộc, các địa phương trong cả nước. Phải kết hợp hài hoà những nét đặc sắc của các dân tộc, của các địa phương vào trong cái chung của cả nước. Nền văn hoá mới ở Việt Nam là nền văn hoá nhiều dân tộc, phong phú, đa dạng nhưng thống nhất.
C- Những nhiệm vụ và công tác cụ thể của ngành văn hoá trong việc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền văn hoá mới, con người mới là kết quả của cả ba cuộc cách mạng, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành. Ngành văn hoá chỉ đóng góp một phần nhất định tuy là một phần quan trọng.
Chúng ta biết rằng, các thành tố cơ bản của văn hoá là : văn hoá chính trị, pháp quyền ; văn hoá đạo đức ; khoa học, giáo dục ; văn hoá thẩm mỹ. Xây dựng nền văn hoá mới là xây dựng tất cả các thành tố nói trên.
Văn hoá chính trị, pháp quyền do nhiều ngành, nhiều cơ quan tham gia xây dựng. Nhiệm vụ của ngành văn hoá trong lĩnh vực này là thông qua nghệ thuật và các phương tiện của công tác văn hoá quần chúng, thông qua cuộc vận động xây dựng nếp sống mới mà giáo dục tư tưởng làm chủ tập thể về chính trị cho nhân dân lao động, làm cho họ hiểu rõ và biết sử dụng quyền lực chính trị của mình, hiểu rõ và thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ của mình : nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, nghĩa vụ bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội, nghĩa vụ bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, nghĩa vụ tôn trọng và thi hành pháp luật của Nhà nước, các quy tắc của đời sống tập thể, v.v…
Ngành văn hoá giáo dục đạo đức mới, hình thành văn hoá hành vi mới cho nhân dân bằng những hình tượng nghệ thuật sinh động, bằng phong trào xây dựng nếp sống mới, bằng công tác văn hoá giáo dục quần chúng.
Ngành văn hoá thông qua hệ thống thư viện, nhà văn hoá, triển lãm, sinh hoạt câu lạc bộ, ngành xuất bản, hệ thống thông tin đại chúng, báo chí, phim tài liệu, phim khoa học … để phổ biến các tri thức khoa học do các cơ quan nghiên cứu khoa học, các trường đại học … nghiên cứu được để xây dựng hệ tư tưởng Mác – Lê-nin.
Văn hoá quản lý và văn hoá lao động do nhiều ngành tham gia xây dựng như : các cơ quan nghiên cứu khoa học, ngành giáo dục, đại học và trung học, các cơ sở sản xuất, v.v… Ngành văn hoá phải sử dụng các phương tiện của mình để truyền bá những tri thức quản lý, những kỹ năng lao động, giúp con người mới lao động với tinh thần tự giác cao, với đầy đủ nhiệt tình cách mạng, trung thực, thật thà, quý trọng và bảo vệ của công, lao động có kỹ thuật, có kỷ luật, có sáng tạo và đạt năng suất cao, biết làm ra những sản phẩm không những tốt mà còn đẹp, biết làm đẹp môi trường lao động của mình.
Văn hoá thẩm mỹ cũng do nhiều ngành, nhiều tổ chức quần chúng tham gia xây dựng, song nổi bật nhất là hai ngành : văn hoá và giáo dục. Ngành giáo dục phụ trách công tác giáo dục thẩm mỹ ở các trường học. Và có thể nói rằng ngành văn hoá đóng vai trò chính trong việc xây dựng văn hoá thẩm mỹ (mà bộ phận quan trọng là văn hoá nghệ thuật) của xã hội. Nó vừa giữ vai trò trực tiếp phụ trách việc sản xuất, bảo quản, trao đổi, phổ biến và hướng dẫn tiêu thụ các giá trị nghệ thuật, vừa giữ vai trò tham mưu cho các ngành khác trong việc đưa cái đẹp vào sản xuất, vào lao động, vào sinh hoạt hàng ngày. Có thể coi đây là một trong những chức năng chính của ngành văn hoá.
Chức năng chính thứ hai của ngành văn hoá là :
Phục trách việc bảo quản, trao đổi, phổ biến và hướng dẫn tiêu thụ mọi giá trị văn hoá do nhiều cơ quan văn hoá sản xuất ra và hướng dẫn tổ chức sự sáng tạo văn hoá, sáng tạo nghệ thuật không chuyên nghiệp của quần chúng lao động, nhằm giáo dục toàn diện cho con người và thoả mãn các loại nhu cầu văn hoá của con người, nói tóm lại, là ngành phụ trách công tác văn hoá quần chúng. Nhiều giá trị văn hoá phải thông qua hệ thống công tác văn hoá giáo dục quần chúng mới tác động đầy đủ tới con người. Ngành văn hoá là cơ quan tham mưu và chỉ đạo nghiệp vụ công tác văn hoá giáo dục quần chúng, còn công tác này phải do nhiều ngành, nhiều cơ quan, đoàn thể cùng tiến hành.
Để thực hiện chức năng và hoàn thành những nhiệm vụ nói trên của mình, để góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, ngành văn hoá phải làm một số việc sau đây :
1. Xây dựng nền văn hoá nghệ thuật ở tất cả các khâu của nó : nghệ sĩ, tác phẩm, đào tạo cán bộ nghệ thuật, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo quản, phổ biến, hướng dẫn quần chúng tiêu thụ các giá trị nghệ thuật, lý luận phê bình, bộ máy lãnh đạo, quản lý …
2. Xây dựng nếp sống mới với 5 nội dung cơ bản :
a) Xây dựng phong cách lao động mới : lao động có kỹ thuật có kỷ luật và có năng suất cao.
b) Xây dựng gia đình văn hoá mới đại thể theo 3 tiêu chuẩn : gia đình hoà thuận và nuôi dạy con cái tốt, lao động tiên tiến, chấp hành chính sách tốt.
c) Xây dựng nếp sống công cộng tốt, bao gồm trật tự công cộng, vệ sinh công cộng và lịch sự công cộng.
d) Cải tiến việc tang, cưới, giỗ, hội, chống mê tín dị đoan.
e) Đưa cái đẹp vào cuộc sống hàng ngày, ở nơi giao tiếp công cộng, ở từng gia đình, ở từng con người, về tinh thần, về thể chất, về ngoại hình như ăn mặc, đầu tóc …
3. Xây dựng một mạng lưới công tác văn hoá giáo dục quần chúng và một hệ thống cơ sở vật chất về văn hoá trong toàn quốc. Cơ sở vật chất nói đây là nhà cửa, máy móc, dụng cụ văn hoá, văn nghệ. Các cơ quan văn hoá được xây dựng chung trên một diện tích kết cấu thành trung tâm văn hoá. Trung tâm văn hoá là bộ mặt văn hoá, là nơi tập trung những điều kiện để thoả mãn những nhu cầu văn hoá của nhân dân trong một vùng nhất định.
Ở các trung tâm văn hoá, ngoài các công trình của ngành văn hoá (thư viện, bảo tàng, cung văn hoá, nhà văn hoá, rạp chiếu bóng, rạp hát, phòng hoà nhạc, hiệu sách, hiệu ảnh, công viên văn hoá, khu di tích lịch sử, thắng cảnh, tượng đài kỷ niệm, sân khấu ngoài trời, trường năng khiếu nghệ thuật, v.v…) còn có các công trình của các ngành khác như sân vận động, cung thể thao, bể bơi của ngành thể dục thể thao, các trường học của ngành giáo dục, các cửa hàng lớn của ngành thương nghiệp, các bệnh viện của ngành y tế, v.v… Chúng ta sẽ xây dựng những trung tâm văn hoá ở các trung tâm chính trị và kinh tế.
Trung tâm văn hoá toàn quốc là thủ đô Hà Nội. Đây là bộ mặt văn hoá của cả nước. Do tầm quan trọng về kinh tế và chính trị, thành phố Hồ Chí Minh cũng là một trung tâm văn hoá có ý nghĩa toàn quốc.
Trung tâm văn hoá địa phương là bộ mặt văn hoá của địa phương thể hiện rõ nét đặc trưng văn hoá của địa phương mình, nó đại diện cho một tỉnh, một vùng hoặc một vùng nhỏ trong tỉnh.
Trung tâm văn hoá cơ sở nằm ở huyện, thị trấn, các quận, các khu kinh tế mới.
Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đã chỉ rõ, phải “tổ chức tốt hơn nữa đời sống văn hoá ở thành phố, thị xã, làm cho thành thị xứng đáng giữ vai trò tiêu biểu cho nền văn hoá mới. Hết sức chăm lo xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn, chú ý đến vùng căn cứ cũ, vùng có đồng bào các dân tộc. Xây dựng một số công trình như nhà văn hoá, rạp chiếu bóng, thư viện, sân vận động, v.v… ở huyện lỵ và các xã trong huyện, tạo thành một mạng lưới có chức năng xây dựng, phát triển và truyền bá nền văn hoá mới ở nông thôn” (Báo Nhân dân, ngày 28-3-1982).
Như vậy là tinh thần của Báo cáo chính trị đã nói lên những ý như sau :
- Hết sức coi trọng việc xây dựng đời sống văn hoá ở các loại cơ sở, từ các cơ sở sản xuất đến các cơ sở dân cư, cơ sở sự nghiệp, cơ quan, ở cả thành phố và nông thôn,
- Yêu cầu nâng cao đời sống văn hoá ở thành thị, thị trấn đạt tới một đời sống văn hoá tiêu biểu cho nền văn hoá mới,
- Hết sức chú trọng nâng cao đời sống văn hoá ở nông thôn (đặc biệt chú ý tới vùng căn cứ cách mạng cũ và vùng có dân tộc ít người),
- Hết sức dựa vào phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng những thiết chế văn hoá ở huyện và xã, tạo thành mạng lưới các thiết chế để xây dựng, phát triển và truyền bá văn hoá mới trong nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Đi đôi với việc xây dựng huyện về kinh tế, cần chú trọng xây dựng các mặt văn hoá ở huyện.
Đó là những nội dung để cụ thể hoá và bổ sung vào những phương hướng mà Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã đề ra.
Trong bài “Bàn về chế độ hợp tác xã”, Lê-nin có nói : “Hiện nay chúng ta có hai nhiệm vụ chủ yếu có ý nghĩa đánh dấu thời đại. Nhiệm vụ thứ nhất là cải tạo bộ máy quản lý hoàn toàn vô giá trị mà thời đại cũ đã để lại toàn bộ cho chúng ta ; trong hai năm đấu tranh, chúng ta chưa kịp cải tạo được cái gì đáng kể trong bộ máy đó và chúng ta cũng không thể làm kịp được. Nhiệm vụ thứ hai của chúng ta là tiến hành công tác văn hoá trong nông dân. Mà công tác văn hoá trong nông dân lại nhằm mục tiêu kinh tế - đó chính là thực hiện chế độ hợp tác xã. Nếu chúng ta tổ chức được toàn thể nông dân vào hợp tác xã thì chúng ta đứng vững được hai chân trên miếng đất xã hội chủ nghĩa. Nhưng điều kiện đó bao hàm một trình độ văn hoá nhất định của nông dân (chính là nông dân với tư cách là một khối quần chúng đông đảo), cho nên nếu không có cả một cuộc cách mạng văn hoá thì không thể nào thực hiện được việc hợp tác hoá hoàn toàn ấy” (V.I. Lê-nin ; Toàn tập. Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, tiếng Việt, t.45, tr. 428 – 429).
Những lời trên đây của Lê-nin hoàn toàn có thể áp dụng vào hoàn cảnh nước ta. Muốn tiến hành công tác văn hoá trong nông dân nhằm mục tiêu kinh tế là thực hiện chế độ hợp tác xã thì một trong những biện pháp quan trọng là phải lấy huyện làm địa bàn xây dựng trung tâm văn hoá cơ sở. Đây cũng là một phương hướng quan trọng nhằm xoá dần sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn. Từ trung tâm văn hoá huyện sẽ toả ra các hoạt động tác động xuống hệ thống mạng lưới công tác văn hoá trong toàn huyện, ở các xã và cấp tương đương.
Tóm lại, một nền văn hoá mới phải có các cơ sở vật chất và một mạng lưới tổ chức hoạt động rộng lớn (của Nhà nước và của nhân dân) để chứa đựng và thể hiện sinh hoạt tinh thần và để tác động vào sinh hoạt tinh thần.
Muốn thế, cần xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu về văn hoá bên cạnh các chỉ tiêu về kinh tế trong kế hoạch Nhà nước. Đó là nhiệm vụ kế hoạch hoá sự phát triển văn hoá.
IV- Tăng cường và cải tiến sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá, văn nghệ
Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm vững chắc cho sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Từ trước tới nay, Đảng ta luôn luôn đánh giá đúng vị trí của văn hoá, văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng, coi đó là một mặt trận cũng như các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, là một trong những mục tiêu lớn của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn luôn quan tâm đến sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá, văn nghệ. Bước vào giai đoạn mới của cách mạng, giai đoạn cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, do tầm quan trọng, do quy mô rộng lớn và tính chất phức tạp của hoạt động văn hoá, văn nghệ và để bảo đảm cho văn hoá, nghệ thuật phát triển đúng hướng, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác văn hoá, văn nghệ. Chỉ thị số 08 – CT/TW của Ban chấp hành trung ương về công tác văn hoá, văn nghệ trong giai đoạn cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội đã vạch rõ : “Các cấp uỷ Đảng, các cơ quan chính quyền cũng như các đoàn thể công nhân, thanh niên, phụ nữ phải coi công tác văn hoá là một mặt quan trọng của công tác cách mạng và đời sống nhân dân, đặc biệt chú trọng chăm sóc những hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng. Mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi đoàn thể khi xây dựng, phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân đều phải có phần kế hoạch phát triển văn hoá, Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi bảo đảm cho nhu cầu thưởng thức và hoạt động văn hoá của quần chúng ; bảo vệ và khuyến khích mọi tài năng sáng tạo nghệ thuật”.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ V sau khi nêu bật vai trò rất quan trọng của văn hoá, văn nghệ trong đời sống của nhân dân và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đã lưu ý rằng trên cơ sở hiểu biết tính đặc thù của văn hoá, văn nghệ và đặc điểm của mỗi lứa tuổi, mỗi địa phương, phải ra sức phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu thưởng thức và sáng tạo văn hoá to lớn và ngày càng tăng của nhân dân. Phải đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Phương châm quan trọng để phát triển đời sống văn hoá là Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Gắn liền sự nghiệp văn hoá, văn nghệ với sự nghiệp cách mạng chung, xem văn hoá văn nghệ cũng là một mặt trận và người nghệ sỹ, người hoạt động văn hoá là chiến sĩ trên mặt trận đó, Đảng cũng thường xuyên lưu ý đến quy luật riêng, đến tính đặc thù của văn hoá, văn nghệ mà những người lãnh đạo, quản lý văn hoá, văn nghệ phải nắm vững để tiến hành công tác cho có lý, có tình, có kết quả tốt. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương tại Đại hội Đảng lần thứ V khẳng định : “Văn hoá là một lĩnh vực rất quan trọng và rất phức tạp của văn hoá và của đời sống xã hội. Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo đối với lĩnh vực này, đồng thời cải tiến sự lãnh đạo cho phù hợp với tính đặc thù của nó. Đảng tin tưởng và đánh giá cao sự cống hiến của anh chị em văn nghệ sĩ, luôn luôn mong mỏi trên đất nước ta xuất hiện nhiều tài năng sáng tạo, nhiều sản phẩm văn nghệ có giá trị cao về tính tư tưởng và trình độ nghệ thuật, xứng đáng với đất nước nghìn năm văn hiến và dân tộc anh hùng. Đảng khuyến khích mọi tìm tòi, sáng tạo, khuyến khích sự phát triển của phong cách và tài năng nghệ thuật. Đồng thời, Đảng yêu cầu văn nghệ sĩ nắm vững phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, nêu cao tính đảng và trách nhiệm của người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, tư tưởng trong giai đoạn mới của cách mạng, phục vụ đắc lực hơn nữa lợi ích của nhân dân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc” (Báo Nhân dân, ngày 28-3-1982).
Văn nghệ là bộ phận sắc bén và nhạy cảm nhất của văn hoá. Lãnh đạo văn nghệ phải nắm vững tính đặc thù của nó, phải nắm vững đặc điểm của sáng tạo nghệ thuật, của tâm lý nghệ sỹ, phải đạt lý, thấu tình, phải giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải rất tế nhị.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ phải thúc đẩy sự ra đời và phổ biến những tác phẩm có trình độ cao về tư tưởng và nghệ thuật, ngăn chặn sự xuất hiện những tác phẩm có nội dung xuyên tạc hiện thực xã hội chủ nghĩa, tuyên truyền những quan điểm, những tư tưởng xa lạ, thù địch với hệ tư tưởng Mác – Lê-nin.
Sự lãnh đạo của Đảng phải đạt được yêu cầu sau đây : bảo đảm cho văn nghệ đi đúng đường lối của Đảng, đường lối văn nghệ cũng như đường lối chung, đồng thời bảo đảm sự phát triển của bản thân văn nghệ.
Cần tránh hai khuynh hướng : một là dựa vào lý do văn nghệ có tính đặc thù để tách rời sự lãnh đạo của Đảng ; hai là, lấy lý do “văn nghệ phải phục tùng chính trị” mà can thiệp thô bạo vào công việc văn học nghệ thuật.
Cần quan niệm cho đúng mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Vấn đề này đã được Đảng giải quyết đúng đắn. Không nên hiểu một cách chật hẹp nhiệm vụ chính trị như là “công tác trước mắt” ; hoặc coi chính trị như là một sự áp đặt của các cấp lãnh đạo mà công tác văn nghệ phải “phục vụ”, phải “phục tùng”. Cách hiểu như vậy ảnh hưởng không tốt đến việc phát huy vai trò chủ động, tích cực của văn nghệ trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Xuất phát từ tình hình cụ thể của xã hội, của đất nước, từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, dựa trên sự phân tích tình hình một cách khoa học, Đảng vạch ra đường lối chính trị đúng đắn và phương hướng, phương pháp để giải quyết hàng loạt vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá đang đặt ra trước mắt và cho tương lai để đưa xã hội tiến lên. Văn nghệ không thể tách khỏi chính trị đó, không thể thoát ly đời sống xã hội, không thể không tham gia giải quyết những vấn đề mà cuộc sống đặt ra. Sự gắn bó khăng khít giữa văn nghệ và chính trị là khách quan, là tất yếu. Người làm công tác văn nghệ không thể làm tròn chức năng của mình nếu không hiểu, không nắm chắc nhiệm vụ chính trị, không lấy nhiệm vụ chính trị làm phương hướng hoạt động.
Con người mới phát triển toàn diện, hài hoà là một trong những mục tiêu lớn của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng con người mới là nhiệm vụ chính trị tổng quát của văn hoá nói chung, của văn nghệ nói riêng. Tất nhiên nhiệm vụ chính trị chung có thể cụ thể hoá ở từng thời kỳ cách mạng và văn nghệ phải thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể đó. Song không bao giờ được quên mục đích của nó là con người mới phát triển toàn diện và hài hoà. Một ca khúc động viên sản xuất và chiến đấu bằng nghệ thuật cao là một tác phẩm tốt. Nhưng đối với một bản nhạc không lời thể hiện một tình yêu quê hương đất nước, chúng ta cũng đánh giá cao và vẫn coi là thực hiện được nhiệm vụ chính trị, bởi vì nó cũng góp phần giáo dục con người mới. Đối với một bản tình ca trong sáng cũng có thể đánh giá như vậy. Về vấn đề này cũng cần tính đến ngôn ngữ riêng của mỗi loại hình, thể loại nghệ thuật. Để tuyên truyền cho việc phát triển chăn nuôi lợn lai kinh tế thì một bức tranh cổ động sẽ là thích hợp, nhưng nếu yêu cầu nghệ thuật múa làm điều này thì lại là hạ thấp ngành nghệ thuật này và thực tế không thể làm được. Đối với tranh tĩnh vật cũng phải có quan niệm như vậy.
Cũng cần khắc phục quan điểm sai lầm khác cho rằng sở dĩ có hiện tượng khô khan, máy móc, công thức, sơ lược trong văn nghệ, đó là do quá nhấn mạnh đến chính trị, quên nghệ thuật. Nguyên nhân chủ yếu của bệnh công thức, sơ lược, v.v… là sự thiếu hiểu biết về cuộc sống, thiếu gắn liền với nhiệm vụ chính trị, thiếu sự rèn luyện, chưa đặt mình trong thực tiễn cách mạng của đất nước, thiếu hiểu biết sâu sắc về nghề nghiệp, về đặc trưng, đặc điểm của hoạt động văn học, nghệ thuật, không dám đi vào những vấn đề gay cấn nhất, cấp thiết nhất của cuộc sống với tất cả trách nhiệm của người cộng sản để góp phần tích cực vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng bằng văn học, nghệ thuật.
Mối quan hệ giữa việc xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới (trong đó có văn nghệ), con người mới là quan hệ giữa các mặt trận trong một cuộc chiến đấu chung, là quan hệ giữa các mục tiêu lớn của cách mạng. Phải khắc phục quan niệm coi văn hoá, văn nghệ chỉ là phương tiện để thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế.
Thông qua việc giáo dục con người mới, văn hoá, văn nghệ góp phần đẩy mạnh việc xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới. Chế độ mới được củng cố, nền kinh tế mới được phát triển sẽ ảnh hưởng thuận lợi đến việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới. Văn hoá, văn nghệ có trách nhiệm với kinh tế thì ngược lại kinh tế cũng có trách nhiệm đối với sự phát triển của văn hoá, văn nghệ. Cần quán triệt quan điểm Đảng lãnh đạo văn hoá, văn nghệ phải giúp cho bản thân sự nghiệp văn hoá, văn nghệ và tất nhiên phải theo đúng đường lối của Đảng.
Khi dùng khái niệm nghệ thuật (hay văn nghệ hoặc văn học, nghệ thuật) chủ yếu chúng ta nói đến các tác phẩm thuộc các loại hình, thể loại nghệ thuật. Còn khi dùng khái niệm văn hoá nghệ thuật (viết liền nhau và nghệ thuật là tính từ bổ nghĩa cho danh từ văn hoá) là chúng ta chỉ một hệ thống hoàn chỉnh gồm các khâu chính sau đây : 1) đội ngũ nghệ sĩ, những người lãnh đạo, quản lý nghệ thuật và việc đào tạo đội ngũ này ; 2) sự sáng tạo nghệ thuật và các tác phẩm nghệ thuật ; 3) cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và tổ chức để phổ biến tác phẩm ; 4) công chúng thưởng thức nghệ thuật ; 5) phê bình nghệ thuật.
Nói Đảng lãnh đạo văn nghệ tức là Đảng phải lãnh đạo toàn bộ nền văn hoá nghệ thuật với tất cả các khâu của nó, phối hợp đồng bộ các khâu đó để văn hoá nghệ thuật phát triển mạnh mẽ và đúng đường lối của Đảng.
Đảng cần tăng cường lãnh đạo công tác đào tạo nghệ sĩ, đào tạo cán bộ quản lý văn hoá nghệ thuật. Cần tiến tới tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ quản lý. Đối với việc đào tạo những người sáng tạo nghệ thuật, cần đặc biệt chú trọng hai vấn đề : một là, bồi dưỡng thế giới quan Mác – Lê-nin, đường lối chính sách của Đảng ; hai là, bằng mọi cách làm cho người sáng tác luôn luôn sống giữa cao trào cách mạng, gắn bó mật thiết với đời sống của nhân dân. Nội dung học tập phải bảo đảm trang bị cho họ vốn chính trị, vốn văn hoá, vốn sống và những hiểu biết đầy đủ về chuyên môn, nghề nghiệp. Cũng cần chú ý tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các trường nghệ thuật, trường đào tạo cán bộ quản lý văn hoá nghệ thuật.
Những nghệ sĩ có tài năng là vốn quý, là tài sản của quốc gia, của nhân dân. Phải có kế hoạch và biện pháp phát hiện kịp thời các năng khiếu đặc biệt xuất hiện trong đất nước từ ở lứa tuổi nhỏ nhất. Cần trân trọng, bảo vệ và tạo điều kiện để các tài năng phát triển, phục vụ nhân dân.
Ngoài sự tiếp xúc chung giữa cán bộ đảng với văn nghệ sĩ, nên có những cuộc tiếp xúc riêng với từng văn nghệ sĩ để trao đổi về các vấn đề sáng tác, để giúp họ giải quyết những vướng mắc trong cuộc sống và trong sáng tác, trong sự nhận thức đường lối chính sách của Đảng, v.v…
Sáng tạo nghệ thuật là một hoạt động xã hội, nghệ sĩ cũng là một nhà hoạt động xã hội, là lỗ tai, là con mắt của giai cấp (Go-rơ-ki), tác phẩm của họ là vũ khí đấu tranh giai cấp. Do đó Đảng yêu cầu nghệ sĩ phải có tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, trước nhân dân. Mặt khác, sáng tạo nghệ thuật cũng là một quá trình có tính đặc thù, đòi hỏi sự sáng tạo, óc tưởng tượng, niềm cảm hứng cao độ, những tìm tòi về hình thức và nội dung, v.v… Do đó, không nên can thiệp vào quá trình sáng tạo, vào cá tính sáng tạo của nghệ sĩ, mà điều quan trọng là phải tác động vào thế giới quan của nghệ sĩ, giúp nghệ sĩ nâng cao trình độ chính trị, đứng trên lập trường chủ nghĩa Mác – Lê-nin để nhìn nhận đúng đắn hiện thực trong quá trình phát triển của nó.
Phải làm sao tạo ra trong giới nghệ sĩ không khí đoàn kết thi đua, phấn khởi hồ hởi sáng tạo. Nghệ sĩ cần nâng cao thế giới quan, nâng cao trách nhiệm chính trị đối với công chúng, đối với xã hội, đối với Tổ quốc rèn luyện cho mình có những tình cảm, những xúc động phù hợp với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Được như vậy, nghệ sĩ sẽ cảm thấy hoàn toàn có tự do sáng tác.
Đối với các tác phẩm nghệ thuật, Đảng yêu cầu phải có tính đảng cao, tính nhân dân sâu sắc, tính dân tộc đậm đà. Tác phẩm có tính đảng là tác phẩm phản ánh chân thật cuộc sống muôn màu muôn vẻ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, làm cho nhân dân tăng thêm lòng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa, vào Đảng. Đồng thời, tác phẩm có tính đảng, cũng phải là tác phẩm có trình độ nghệ thuật cao về cả nội dung và hình thức.
Sự lãnh đạo của Đảng phải góp phần thúc đẩy sự ra đời ngày càng nhiều tác phẩm tốt, đồng thời ngăn ngừa việc xuất hiện những tác phẩm xấu. Cần khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo trong nghệ thuật. Cần tạo điều kiện cho những sự thử nghiệm, giúp cho nghệ thuật thêm đa dạng về phong cách. Có nhiều ý kiến khác nhau về một tác phẩm, đó là chuyện bình thường trong nghệ thuật. Có tranh luận, thử nghiệm, tìm tòi thì mới có tiến bộ trong nghệ thuật.
Hiện nay công tác lý luận và phê bình nghệ thuật của chúng ta còn yếu, đội ngũ lý luận và phê bình còn mỏng trong khi lý luận và phê bình nghệ thuật lại ảnh hưởng rất lớn đến sáng tác. Muốn sáng tác có nghệ thuật cao phải có nền lý luận nghệ thuật sâu sắc, nền phê bình nghiêm túc. Phải chú ý đào tạo cán bộ lý luận về mỹ học, nghệ thuật học, các nhà phê bình của từng loại hình nghệ thuật có trình độ lý luận cao, quan điểm lập trường vững, có vốn sống, công tâm và có hiểu biết sâu về loại hình nghệ thuật mà mình phê bình. Công tác lý luận và phê bình nghệ thuật phải thực sự hướng dẫn dư luận công chúng nâng cao thị hiếu nghệ thuật của họ, thiết thực giúp ích cho những người sáng tác. Một trong những phương thức lãnh đạo có hiệu quả của Đảng đối với nghệ thuật là lãnh đạo thông qua sự phê bình nghệ thuật.
Thái độ phê bình phải khoa học, khách quan, công bằng, lành mạnh, tránh kèn cựa cá nhân, châm chọc, suy diễn, chụp mũ và càng không được vùi dập thô bạo, làm cho người sáng tác không còn tiếp tục việc sáng tác được nữa.
Trình độ thẩm mỹ, trình độ nghệ thuật của công chúng có ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của nghệ thuật, do đó phải chú ý lãnh đạo công tác giáo dục thẩm mỹ cho nhân dân, bắt đầu ngay từ nhà trường phổ thông. Cần thông qua phê bình nghệ thuật để nâng cao thị hiếu nghệ thuật, nâng cao trình độ thưởng thức nghệ thuật của công chúng. Chúng ta cần có những cuốn sách phổ biến những kiến thức phổ thông về mỹ học, về các loại hình nghệ thuật để góp phần giáo dục thẩm mỹ cho nhân dân. Trình độ thưởng thức của công chúng cao lên thì trình độ nghệ thuật cũng phải cao lên. Nghệ thuật phát triển lại làm cho trình độ thưởng thức của công chúng được nâng cao. Nghệ thuật phải thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ phong phú của công chúng, phải góp phần thống nhất tư tưởng, ý chí và tình cảm của họ, nâng cao tâm hồn của họ, góp phần xây dựng con người mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, nghệ thuật cũng phải tránh khuynh hướng chạy theo chiều chuộng những thị hiếu thấp kém hoặc không lành mạnh bằng những thủ pháp thiếu tính nghệ thuật, rẻ tiền.
Cũng cần tăng cường và cải tiến sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và tổ chức để phổ biến tác phẩm. Cần khắc phục quan điểm cho rằng văn hoá nghệ thuật là hoạt động tinh thần, ít cần đến tiền nong, cơ sở vật chất - kỹ thuật. Không thể có tác phẩm nghệ thuật nếu không có một cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật nhất định. Muốn có sách phải có giấy, mực, nhà in, … muốn có tranh, tượng, phải có gỗ, vải, sơn, bột màu, thạch cao, đá, … muốn xem kịch phải có nhà hát, phông màn, quần áo, son phấn, đạo cụ, … đó là chưa nói muốn có một bộ phim phải có cả một nền công nghiệp điện ảnh.
Việc trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động nghệ thuật phải được tiến hành phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay của nước ta. Ngoài sự đầu tư thích đáng của Nhà nước, bản thân ngành văn hoá cũng phải có hoạt động kinh doanh ở mức nhất định, hợp lý, để tự trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho mình. Vấn đề là ở chỗ, phải xây dựng được ý thức quan tâm đến cơ sở vật chất - kỹ thuật của hoạt động nghệ thuật, đưa nghệ thuật chân chính đến với nhân dân và đưa nhân dân đến với nghệ thuật.
Cần tránh hai khuynh hướng không đúng sau đây : Khuynh hướng thứ nhất cho rằng văn hoá không làm kinh tế, phục vụ nhân dân là chính, thiếu hụt bao nhiêu thì Nhà nước bù lỗ. Khuynh hướng thứ hai là chạy theo kinh doanh quên mất chức năng cao cả của văn hoá, không quan tâm đúng mức đến việc nâng cao trình độ nghệ thuật hoặc không chú ý đúng mức đến việc phục vụ nhân dân theo từng đối tượng.
Phải tăng cường và cải tiến sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật và các Hội nghệ sĩ khác. Phải làm sao cho các hội nghệ sĩ bớt tính chất hành chính, sự vụ để trở thành một tổ chức đoàn kết nghệ sĩ, giúp nhau nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác – Lê-nin, đường lối chính sách của Đảng, giúp nhau thâm nhập thực tế cuộc sống sôi nổi phong phú, giúp nhau trong sáng tác và giúp các cơ quan xuất bản, các cơ quan lãnh đạo đánh giá đúng các tác phẩm của hội viên. Hội phải quan tâm đến cả đời sống tinh thần và vật chất của hội viên, giúp đỡ họ giải quyết một phần những khó khăn trong cuộc sống. Phải giúp các hội xây dựng được quỹ của mình bằng những biện pháp chính đáng, hợp pháp, bằng sự đóng góp của hội viên, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của hội.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá nói chung, nghệ thuật nói riêng, còn phải đạt yêu cầu sau đây : kế hoạch hoá được sự phát triển của văn hoá, văn học, nghệ thuật. Các cấp phải xây dựng được chỉ tiêu phát triển văn hoá, nghệ thuật của địa phương, đơn vị mình. Trong các kế hoạch 5 năm và kế hoạch ngắn hạn của Nhà nước, cần xây dựng được những chỉ tiêu cơ bản của sự phát triển văn hoá, nghệ thuật.
* * *
Xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó là một sự nghiệp vẻ vang đồng thời cũng là một công việc phức tạp, khó khăn, đòi hỏi thời gian và sự kiên trì. Mặt khác, nó cũng đòi hỏi phải khẩn trương vì đây là một mặt trận hàng ngày, hàng giờ diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng, hai lối sống, giữa ta và địch, giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cái mới và cái cũ. Chúng ta vừa phải ra sức xây dựng cái mới, vừa phải cải tạo cái cũ, mà xây dựng cái mới là chủ yếu. Chúng ta phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kế thừa và sáng tạo cái mới, giữa truyền thống và cách tân, một mặt phải chống tư tưởng bảo thủ, thủ cựu ; mặt khác, phải chống thái độ hư vô chủ nghĩa. Chúng ta cũng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, một mặt phải chống đầu óc sùng ngoại, tự ty dân tộc, chống xu hướng lai căng, bắt chước ; mặt khác, phải chống đầu óc bài ngoại, thái độ tự đóng kín, tư tưởng dân tộc chủ nghĩa. Chúng ta cũng phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các nền văn hoá của các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Mục đích đi tới của chúng ta là nền văn hoá mới. Và như Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã chỉ ra và được Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng khẳng định một lần nữa, đó là “nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nền văn hoá mới vừa kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt Nam, của văn hoá Việt Nam, vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành tựu văn hoá, khoa học hiện đại. Nền văn hoá mới kết hợp hài hoà những tinh hoa văn hoá có phong cách riêng của các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam” (Báo Nhân dân, ngày 28-3-1982).
Chúng ta cũng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hoá với chính trị và kinh tế. “Chúng ta nhận thức rằng chế độ mới và nền kinh tế mới có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành nền văn hoá mới, con người mới. Ngược lại, những thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, con người mới là một động lực to lớn thúc đẩy tiến trình xây dựng chế độ mới và nền kinh tế mới.
Xây dựng nền văn hoá mới và con người mới là điều cần và có thể thực hiện từng bước, từng phần ngay từ hôm nay. Trong chặng đường trước mắt này, có những điều kiện khách quan và chủ quan cho phép chúng ta bước đầu tạo ra một xã hội đẹp về lối sống, về quan hệ giữa người và người, một xã hội trong đó nhân dân lao động cảm thấy sống hạnh phúc, tuy mức sống vật chất còn chưa cao” (Báo Nhân dân, ngày 28-3-1982).
Nền văn hoá mới của chúng ta do nhân dân xây dựng nên, nó phản ánh tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, ý chí, tư tưởng và đời sống của nhân dân, nhằm phục vụ nhân dân, thoả mãn nhu cầu văn hoá to lớn và ngày càng tăng của nhân dân. Xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động về văn hoá là một nội dung cơ bản của cách mạng tư tưởng và văn hoá.
Đường lối văn hoá của Đảng ta được nêu ra trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là trong văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IV và lần thứ V, là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta phấn đấu xây dựng từng bước nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xứng đáng với đất nước nghìn năm văn hiến và dân tộc anh hùng.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét