Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013
CÔNG GIÁO VÀ THÁNH TỬ ĐẠO
23:10
Hoàng Phong Nhã
No comments
Năm 340, đế quốc La Mã tiêu diệt
hết các giáo phái Kitô đi ngược lại các giáo
điều của hội nghị Nicaea do hoàng đế
Constantine triệu tập vào năm 325 và chính thức
đặt tên cho giáo hội Kitô mới của toàn
đế quốc là Công Giáo (tiếng La tinh: Cattolica,
tiếng Hy Lạp: Katholicos, có nghĩa là tôn giáo của hoàn
cầu). Saint Cyril of Jerusalem
đã viết trong năm 340 định nghĩa giáo hội
Công Giáo như sau: "Tất cả mọi người
thờ Chúa đều phải qui tụ trong một hệ
thống thiêng liêng đặt dưới quyền cai
trị của Giáo Hoàng La Mã. Bất cứ ai
không phải là thành viên của Giáo Hội đều bị
vứt bỏ ra khỏi cuộc đời này và
điều quan trọng hơn là bị vứt bỏ ra
khỏi đời sau". (All who worshiped God were united
in one sacramental system under the government of the Roman Pontiff. Anyone not
a member of the Church must be cast out of this life and more important, out of
next). Đây là một lệnh cưỡng bức toàn dân
thuộc đế quốc phải theo
đạo Công Giáo. Mọi người
chống đối đều bị giết. Riêng những người Kitô thuộc giáo phái Arius
(Arian Christians) bị giết trên 3000 người.
Trong các năm 1512-1517, Công Đồng Lateran
tái xác định giáo hội Công Giáo là giáo hội duy
nhất nắm Ơn Cứu Chuộc của Chúa với
khẩu hiệu: "Nulla Salus extra Ecclessian" (không
thuộc giáo hội sẽ không được cứu
chuộc – có nghĩa là phải sa hỏa ngục). Năm
1703, thánh De La Salle viết sách "Les Devoirs d’un Chretien"
tái định nghĩa danh từ Công Giáo như sau: "Công
Giáo là xã hội của đức tin được thâu tóm
thành một và thuộc một thực thể
được cai trị bởi các đấng chăn
chiên hợp pháp mà Chúa Jesus là thủ lãnh vô hình và Đức
Giáo Hoàng là thủ lãnh hữu hình trên trái đất này".
(In 1703, Saint De La Salle wrote "Les Devoirs d’un Chretien"
defined: "Catholicism is the society of the faithful collected into one
and the same body governed by its legitime pastors of whom Jesus Christ is the
invisible head and the Pope being his representative on earth".) Xin
đọc các phần trích dẫn trên trong tác phẩm "A
World lit only by fire" của William Manchester, do Little Brown and
Co. USA. Xuất bản 1992, các trang 8-20.
Sau khi đọc các điều trên từ
một cuốn sách ở thư viện, về nhà
đọc Báo Đại Chúng Xuân Canh Thìn phát hành tại vùng
Washington DC tháng 2.2000, trong đó có bài "Bên trong và
đằng sau thư ngõ của các ông Đỗ Mậu,
Nguyễn Kha, Lê Trọng Văn" của tác giả
Trần Ngọc Vân với nội dung chống lại ý
kiến của 10 vị nhân sĩ đã ký tên trong
"Bức Thư Ngõ Gửi Giáo Hoàng Jean Paul II"
đăng trên báo Vận Hội Mới Xuân Kỷ Mão (1999).
Tôi rất tiếc không có số báo Vận Hội Mới
nói trên nên không có dịp đọc Bức thư
Ngõ của 10 vị nhân sĩ. Cho nên tôi chỉ
được biết vài điểm của bức thư ngõ này qua sự trích dẫn của tác
giả Trần Ngọc Vân thôi.
Tôi đồng ý với ông Trần Ngọc
Vân là chúng ta không nên gọi đạo Công Giáo là đạo
Gia Tô (hoặc Ca Tô Rôma) vì trên thế
giới này không có đạo nào là đạo Gia Tô cả! Chỉ có đạo Kitô hoặc Cơ-đốc.
Ta phải thừa nhận một điều là các
đạo thờ Chúa đều xuất phát từ Tây
Phương – bao gồm Âu Mỹ và các nước Do
Thái-Ả Rập. Vì vậy chúng ta cần hiểu các tôn giáo
này theo định nghĩa của họ.
Gia Tô là tiếng phiên âm chữ
Hán tên của Giêxu. Trong kinh cầu hồn bằng
chữ Hán có câu: "Thiên Chúa Da-tô thục tội thi ân chi đại", có nghĩa là
"Đức Chúa Giê xu chuộc tội ban ơn rất
lớn". Người Tây phương dùng
thần thoại Kitô (Cơ-đốc) chứ không lấy
tên của Jesus (Datô) đặt tên cho đạo này. Vì
vậy ta không nên gọi Công Giáo là đạo Gia Tô (hay Da Tô). Hơn nữa,
nếu hiểu Công Giáo là đạo Gia Tô, tức
đạo duy nhất thờ Jesus, thì lại là một
lầm lẫn lớn. Chính Thống Giáo (Anh Giáo), hàng
trăm giáo phái Tin Lành, thậm chí Hồi Giáo và Cao Đài
cũng có thờ Jesus nhưng không phải là Công Giáo. Sở
dĩ ta phải gọi là "Công Giáo La Mã" vì có mấy
thứ Công Giáo khác nhau với hệ thống giáo quyền
và giáo đô khác nhau, trong đó có Công Giáo Anh, Công Giáo Hy
Lạp, Công Giáo Ai Cập (Egyptian Coptic), Công Giáo Nam Phi, Công
Giáo Trung Nam Mỹ với Thần Học Giải Phóng tách
rời Vatican...
Tôi xin đề nghị chúng ta
nên xử dụng danh từ "Công Giáo La Mã" là danh
từ chính xác nhất để tránh lầm lẫn với
các tôn giáo thờ chúa khác. Danh từ Thiên Chúa Giáo nên
được hiểu là Độc Thần Giáo (Monotheism)
bao gồm 3 tôn giáo lớn là Do Thái Giáo (Judaism), Hồi Giáo
(Islam) và Kitô Giáo hoặc Cơ Đốc Giáo. Danh từ
Christianity do nguyên ngữ Hy Lạp Christos mà ra. Christos (tiếng Anh và Pháp là Christ, tiếng Tây Ban
Nha Cristo) được người Hoa phiên âm thành
"Cơ Đốc". Người Việt xưa
kia phiên âm từ tiếng Tây Ban Nha Cristo thành "Chúa
Ki-ri-xi-tô" trong các sách kinh nguyện xuất bản
trước Công Đồng Vaticano 1962. Sau 1962, danh từ
"Ki ri xi tô" được thu
gọn lại thành Kitô. Tín đồ Kitô
(Christians) được dịch là Ki-tô-hữu. Đạo Kitô được gọi là Kitô Giáo bao
gồm Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống, Anh Giáo vì tất
cả đều tin Jesus là Chúa Kitô. Chúng ta cũng không
nên gọi Công Giáo La Mã là "Catô Rôma" vì phiên âm như
vậy sẽ làm mất cái ý nghĩa "Công Giáo" là
đạo chung của toàn cầu qua âm mưu thâm
độc của Constantine và đế quốc La Mã trong
mưu đồ dùng đạo này làm lợi khí chinh
phục toàn cầu. Nếu chỉ hiểu Công Giáo là
"public religion" hoặc "state religion" là quốc
giáo của một quốc gia tức là đã đánh giá quá
thấp tham vọng ban đầu của bọn đế
quốc khi chúng diệt đạo Kitô nguyên thủy và
lập ra đạo Công Giáo để dùng làm chiêu bài xâm
lược toàn cầu.
Tôi xin đề nghị nên xử dụng
danh từ "Công Giáo La Mã" để làm nổi bật
cái dã tâm xâm lược toàn cầu của đế
quốc La Mã núp dưới chiêu bài tôn giáo bịp bợm và
ác độc của nó.
Theo ông Trần Ngọc Vân, tác giả bài báo
đăng trên Đại Chúng Xuân Canh Thìn vào tháng 2.2000, thì
10 nhân sĩ tác giả bức thư ngỏ gửi giáo hoàng
(trong đó có các ông Đỗ Mậu, Nguyễn Kha, Lê
Trọng Văn...) đều là những người
"đã xếp hàng chung với tập đoàn Cộng
Sản" (Đại Chúng tr. 191). Có lẽ ông Vân ngụ ý
cho rằng những nhân sĩ này đều là những cây
bút tay sai Cộng Sản chỉ viết để xuyên
tạc nhằm bôi lọ Công Giáo và làm lợi cho Cộng
Sản. Theo tôi, dù cho nhận định của ông Trần
Ngọc Vân là đúng chăng nữa thì những cây bút
chống Công Giáo này không thể nào làm lợi cho Cộng
Sản bằng Gioan XXIII và Paul VI trong thời chiến tranh
Việt Nam.
Bài báo của ông Trần
Ngọc Vân là động lực chính yếu đã thúc
đẩy tôi viết bài này để trình bày những
nhận định của một người trong cuộc
(an insider) nhìn về giáo hội lâu đời của gia
tộc mình. Ngoài ra, tôi là một quân nhân
phục vụ 10 năm trong QLVNCH và ở tù 10 năm trong
trại cải tạo sau 30.4.1975. Tất
cả những nhận định của tôi trình bày trong
bài này đều là những điều tôi thấy sao nói
vậy, nghĩ sao viết vậy. Tôi
không oán thù riêng một ai và cũng không sợ hãi bất
cứ một thế lực nào. Tôi
chỉ yêu sự thật và dám chết cho sự thật
với niềm tự hào của một người chân
thực. Mọi người thân yêu
nhất của đời tôi trong quá khứ cũng như
trong hiện tại, tất cả đều là
người Công Giáo.
Tôi sinh ra và lớn lên trong môi trường
Công Giáo, đã chứng kiến những thảm trạng do
giáo hội Công Giáo gây ra chung quanh tôi và cũng do sự
học hỏi tìm tòi những sự thật lịch sử
qua các sách nghiên cứu hết sức đầy đủ
và có giá trị cao trong các thư viện Mỹ. Tôi đã
tỉnh ngộ để có đủ tinh thần khách quan
đánh giá lại niềm tin và giáo hội của mình. Tôi
đã chọn cho mình một hướng đi là phải
tham gia công tác giáo dục ngõ hầu giúp đồng bào
đồng đạo của mình thức tỉnh
để nhận cho đúng chân tướng gian ác của
giáo hội Công Giáo La Mã, để không còn bị bọn tu
sĩ lưu manh bóc lột và dẫn đi vào con
đường tội ác chống loài người và
chống dân tộc mình. Tôi cố gắng làm việc
hết mình để góp phần vào công việc "Enlightenment"
này càng nhiều bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu và tôi sẵn
sàng chấp nhận mọi điều bất hạnh có
thể xảy đến cho bản thân, tất cả
chỉ vì lòng khát khao yêu mến sự thật. Ý nguyện
này có thể được tóm tắt trong khẩu
hiệu:
"CHRISTIAN BY BIRTH ANTI-CHRISTIAN BY
CHOICE".
Trải qua gần 500 năm theo
đạo, các tiền nhân của tôi đã có nhiều
vị tử đạo. Tuy nhiên, tôi không lấy
điều này làm niềm vinh dự. Trái lại, tôi
coi đó là niềm đau xót lớn lao
vì các tiền nhân đã phải đổ máu vô ích cho
một thứ tà đạo mà cả loài người ngày
nay đang lớn tiếng nguyền rủa nó. Ông Trần
Ngọc Vân viết: "Trong một đoạn ở
đầu trang 3 thư ngõ, các ông Đỗ Mậu, Lê
Trọng Văn, Nguyễn Kha còn dùng những lời lẽ
hạ cấp nhất để miệt thị 117 vị
Thánh Tử Đạo Việt Nam, đồng thời
mạt sát Đức Gioan Phaolồ II khi Ngài quyết
định tuyên thánh cho các vị này hơn 10 năm
trước". Tôi không biết các tác giả thư ngỏ đã viết ra sao mà bị ông
Vân gọi là "dùng những lời lẽ hạ cấp
nhất". Ở đây tôi chỉ xin bày
tỏ cảm nghĩ của tôi đối với vụ
phong thánh cho các tử đạo Việt Nam
với tư cách là một người Công Giáo tỉnh
ngộ.
Trong buổi lễ phong thánh cho 117 tử
đạo Việt Nam tại Vatican năm 1988, giáo hoàng
đã đọc các lời vinh danh sau đây:
"Các người vinh quang của
Jerusalem
Là nỗi vui mừng của Israel
Và là vinh dự của dân
tộc Việt Nam!"
Tôi không hề thấy các
người tử đạo đã đem lại một
vinh dự nào cho dân tộc Việt Nam.
Trái lại họ chỉ nhắc cho mọi
người về một nguyên nhân chính yếu làm cho dân
tộc Việt Nam rơi vào vòng nô lệ nhục nhã của thực
dân Pháp hơn 80 năm. Họ là nguyên nhân gây mặc
cảm hận thù chia rẽ dân tộc mà hậu quả là
việc thành lập các lực lượng vũ trang
cuồng tín hiếu sát của Tự Vệ Công Giáo Phát
Diệm Bùi Chu Thái Bình và Lực Lượng Công Giáo Miền
Nam, gọi tắt là UMDC (Unités Mobiles de Défense des Chrétiens)
của đại tá Le Roy trong các năm 1946-1954.
Người Công Giáo luôn luôn phản bội dân tộc,
chỉ lo phục vụ Vatican và ngoại
bang. Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi cũng như Le
Roy ra mặt phục vụ thực dân Pháp cho đến
1954. Sau 1954, Le Roy chạy sang Pháp, còn Lê Hữu Từ và Hoàng
Quỳnh móc nối với Bình Xuyên chống chính phủ
Diệm. Trong chiến tranh Pháp-Việt và Đệ Nhất
Cộng Hòa, người Công Giáo chống Cộng điên
cuồng không phải vì yêu nước mà để phục
vụ chủ trương chống Cộng cực đoan
của Giáo hoàng Piô XII. Khi Giáo hoàng Gioan XXIII và Paul VI trở
mặt thân Cộng chống VNCH, họ cũng thay
đổi theo. Năm 1966, LM Hoàng
Quỳnh xua hàng chục ngàn giáo dân biểu tình phá rối
trị an của VNCH. GH Paul
VI tiếp thủ tướng Nga tại Vatican ngày 30.1.1967.
Ngay từ đầu thập niên 60, GH Gioan XXIII đã móc
nối với Hồ Chí Minh để thiết lập chính
phủ trung lập tại VN đã đưa đến
cuộc lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm
năm 1963 và rút phép thông công TGM Ngô Đình Thục. Ngày
12.11.1974, LM Hoàng Quỳnh và gián điệp Vũ Ngọc
Nhạ đến Củ Chi họp mật với MTGPMN
để lập thành phần thứ ba trong chính phủ
Liên Hiệp với Cộng Sản. Tất cả chỉ
để thi hành mệnh lệnh của Vatican. Sau 30.4.1975,
Giáo Hoàng Paul VI đã ban thưởng huy chương cho
Vũ Ngọc Nhạ trong khi hàng trăm ngàn quân cán chính VNCH
đi tù cải tạo thì Tòa Thánh hoàn toàn lặng thinh không hề
can thiệp!
Tập thể Công Giáo Việt Nam
đã tự biến mình thành một giáo hội hèn hạ,
hoàn toàn nép mình dưới cái gậy chỉ huy độc
đoán, và nhiều khi rất nham hiểm của các giáo
hoàng La Mã. Do sự việc này, chúng ta sẽ nhận ra
sự độc hại của các sách kinh... "mọi
nơi thảy nên một ràn cùng một kẻ chăn"
(Kinh Nhựt khóa 170-172) "Ai chẳng vâng lời Hội
Thánh trong mọi việc là chẳng vâng lời Chúa tôi",
"Đức Chúa Trời hằng gìn giữ Đức
giáo hoàng cho nên chẳng có lẽ nào sai lầm được"
(Toàn Niên Kinh Nguyện Bùi Chu N-127 do Cơ Sở Dân Chúa
xuất bản). Cả cái tập thể Công Giáo VN,
người sống cũng như người tử
đạo, đều chỉ làm nhục dân tộc
Việt Nam
do những lời cầu kinh thiếu trí tuệ đó.
Tôi đau xót tự hỏi: Tại sao
những người tử đạo VN đã phải
đổ máu mình cho vinh quang của Jerusalem?
Cái thành phố Jerusalem xa
xôi kia có liên quan gì đến dân tộc
VN? Báo Washington Post loan tin: Ngày 25.3.2000, Giáo Hoàng Jean Paul II
đến nhà thờ The Holy Sepuleher tại Jerusalem
làm lễ kêu gọi 7 chi phái Kitô Giáo tại đây hãy
hợp nhất lại để xóa bỏ hận thù
với nhau. Trong khi giáo hoàng làm lễ thì các nhà
thờ thuộc các giáo phái khác khua chuông ầm ĩ
để phá đám. Một giới chức trong phái
đoàn của giáo hoàng tuyên bố với báo chí gồm 2000
phóng viên quốc tế rằng: "Phương cách này là
một cuộc chiến" (this process is a battle) và tuyên
bố tiếp: "Đó là thực tế, mọi người
dồn vào khu đất thiêng này nhưng chẳng ai
chịu ai, chẳng ai muốn mất đi một cái gì
cả" (It’s the reality, everybody is packed into sacred space and
unwillingly to lose something). Cuối cùng, giáo hoàng xác nhận ngay
tại Jerusalem: "Tôn giáo
vẫn được dùng làm một phương tiện
cho sự chia rẻ và chiến tranh" (Religion has been used
as a means for division and war – Washington Post 19.3.2000 p. A30). Giáo hoàng
đã công khai phủ nhận giá trị của các tôn giáo nói
chung và Công Giáo nói riêng ngay tại
đất thánh Jerusalem. Vậy Jerusalem chỉ là một chứng tích
cụ thể về sự thất bại hoàn toàn của
cái gọi là "Công Ơn Cứu Chuộc của Chúa
Kitô". Bản thân đất thánh
Jerusalem còn
không tạo nổi vinh quang cho mình trong mấy ngàn năm
qua, hà cớ gì người Việt Nam
lại phải đổ máu mình cho vinh quang của
Jerusalem?
Tại sao người tử
đạo Việt Nam
phải đổ máu mình vì nỗi vui mừng của Israel?
Cách đây 4000 năm, cháu nội của Abraham
là Jacob đã đặt tên cho nước Do Thái là Isra-El
để tôn vinh thiên chúa của dân tộc Do Thái thời
đó là con bò El. Do Thái thờ con bò El từ khoảng
năm 4000 trước Công Nguyên, đến thế kỷ
12 trước Công Nguyên, đạo thờ bò
được cải tổ thành đạo Do Thái của
Môi-se (Mosaic Judaism). Môi-Se
(Moses) đổi tên Thiên Chúa El hoặc Elohim thành Jehovah.
Đây không phải là tên mới của Thiên Chúa mà chỉ có
nghĩa là "Thiên Chúa của các tổ phụ" (Jehovah
means God of Fathers) tức vẫn là Elohim, vẫn là con bò
thần El. Tại sao các tử đạo VN phải
chết vì nỗi vui mừng của dân tộc thờ bò là
Isra-El?
Tôi nghĩ đến câu tục ngữ
Việt Nam:
"Đồ ngu như bò" và nhận thấy không có
một trường hợp nào áp dụng câu tục ngữ
này thích hợp cho bằng trường hợp tử
đạo Việt Nam
được phong thánh với những lời vinh danh
như trên của Giáo Hoàng Jean Paul II.
Nhân dịp này tôi xin kính gửi đến 10
vị nhân sĩ ký tên chung trong bức thư ngỏ gửi
Giáo Hoàng Jean Paul II đã đăng trên báo Vận Hội
Mới Xuân Kỹ Mão (1999) cũng như kính gửi
đến toàn thể quí vị hằng quan tâm đến
nền văn hóa và tiền đồ dân tộc một
số kinh nghiệm bản thân của tôi về vấn
đề Công Giáo và Dân tộc như sau:
1) Chúng ta nên phân biệt hai loại
người đối tượng. Loại người
thứ nhất là các tu sĩ Công Giáo và tập thể chính
trị gia, trí thức Công Giáo lưu manh là bọn xưa nay
chỉ vì tư lợi gây rất nhiều tội ác
chống lại nhân loại và dân tộc. Đối
với loại người này, chúng ta phải xác
định họ là kẻ thù nguy hiểm và chúng ta cần
phải đấu tranh diệt trừ không thể khoan
nhượng. Đứng đầu bọn này
phải kể đến Hội Đồng Giám Mục,
những dòng tu đang biến đức tin Công Giáo thành
một món hàng béo bở để tận dụng khai thác
làm giàu như dòng tu Đồng Công ở Missouri chẳng
hạn. Kế đến là bọn chính
trị lưu manh đang ẩn nấp trong các đoàn
thể ở nhà thờ như Hiệp sĩ đoàn.
Vào một lúc nào đó thuận tiện, chúng sẽ mau chóng
biến thành những đoàn quân võ trang hoặc những
đoàn quân mật vụ hiếu sát như những đoàn
thể của LM Hoàng Quỳnh, Lê Hữu Từ, Le Roy
hoặc Trần Kim Tuyến. Loại
người thứ hai là tuyệt đại đa số
giáo dân, những người mãi lo làm ăn, vô tư
chất phát, họ chỉ vì thiếu hiểu biết
đã bị các tu sĩ và trí thức lưu manh lừa
gạt kích động, xô đẩy vào những hoạt
động phá hoại đất nước mà họ vô
tình không biết. Họ cũng như hầu hết
các người tử đạo xưa kia
chỉ là những nạn nhân bị lừa gạt mà thôi. Đối với những người này, chúng ta
cần phải đối xử với lòng thương
yêu chân thành trong tình nghĩa đồng bào. Chúng ta
chỉ có một khát vọng là đem ánh sáng của sự
thật để xua đuổi bóng tối trong tinh
thần của họ mà thôi. Họ đã và
đang là nạn nhân bị các tu sĩ bòn rút tiền
của. Đối với bọn tu
sĩ lưu manh, họ chỉ là một bầy bò sữa
để cho chúng vắt hầu vỗ béo thân xác và thỏa
mãn các thứ dục vọng của chúng. Họ cũng là những nạn nhân của
bọn chính trị lưu manh, lúc nào cũng lăm le
biến họ thành những công cụ hoặc những
vật hy sinh cho những mưu đồ đen tối
của chúng. Trong thâm tâm của mỗi
người chúng ta luôn luôn phải phân biệt rõ rệt
bạn và thù, nạn nhân và thủ phạm. Mục đích tối hậu là diệt trừ
mọi thứ kẻ ác để bảo vệ những
người thiện lành. Nhất
định đồng bào sẽ ủng hộ chúng ta và
Ơn Trên sẽ phù hộ chúng ta.
2) Với nhận định như trên, chúng
ta cần đem lại sự giáo dục tới tận các
giáo dân bằng những bằng chứng sự thật
được trình bày đơn giản, cụ thể và
dễ hiểu. Không nên quá chú trọng đến các lý
thuyết cao xa như thuyết Tạo Dựng, Thuyết
Cứu Rỗi mà cần chú trọng đến các vấn
đề thông thường được nêu trong các sách
kinh nguyện (prayer books) mà nhà giáo dân nào cũng có và họ
thường tụng niệm hằng ngày.
Thánh kinh thường được coi
như những cuốn sách làm căn bản của
đạo thì rất ít giáo dân đọc. Họ
chỉ biết thánh kinh qua một số trích đoạn mà
bọn cha cố đã lựa chọn kỹ càng để
đem ra giảng thuyết mà thôi. Các
cuốn sách dày như Việt Nam Máu Lửa Quê Hương
Tôi chắc chắn chẳng có giáo dân bình thường nào
đọc cả. Vậy nên cần xuất bản
nhiều cuốn sách nhỏ đề cập đến
những vấn đề thiết thực để khai
sáng hơn là viết các sách đồ sộ khô khan hầu
như không có tác dụng nào đối với đa số
giáo dân.
3) Có những điều mà các trí thức
ngoại giáo ít ai biết tới là:
a) Mỗi khi có một cuốn sách hay bài báo
chống đạo xuất hiện, bọn cha cố công
khai ngăn cấm giáo dân không được đọc.
Nếu đọc là phải tội v.v... nên
bọn chúng đã vô hiệu hóa một cách dễ dàng tác
dụng của các sách báo này.
b) Dưới sự lãnh đạo dày
dạn kinh nghiệm và vô cùng xảo quyệt của Vatican,
các giáo sĩ luôn luôn có sẵn những lối giải thích
lươn lẹo để hóa giải các lập luận
tấn công Giáo lý hay giáo hội. Vì thế Công Giáo đã
vượt qua mọi cuộc tấn công của khoa
học và mọi cuộc chống phá của các phong trào soi
sáng (Enlightenment) hay các phong trào giải trừ Kitô Giáo
(Dischristianization) như hiện nay. Muốn biết các
lập luận lươn lẹo này ra sao xin hãy đọc
"Giáo Lý Mới –Thời Đại Mới" 157 trang do
Đất Mẹ xuất bản và phát hành tại Houston
năm 1996. Đọc cuốn sách Giáo Lý
Mới này, quí vị sẽ phải khâm phục tài nghệ
giải thích lươn lẹo của bộ tham mưu
thần học của Vatican.
Thí dụ: Thiên Chúa dựng nên vũ trụ trong 7 ngày
cần được hiểu là 7 thời đại, [
Nếu nói 7 thời đại thì cây cỏ thảo mộc
Chúa tạo ra trước mặt trời làm sao sống
được vì không có diệp lục tố!]
mỗi thời đại
kéo dài nhiều triệu năm! Giáo dân
được mời gọi để bắt
chước lòng trung thành tuyệt đối của Abraham
đối với Thiên Chúa chứ không phải
được mời gọi để bắt chước
hành động của Ngài (loạn luân, giết con
để tế Thiên Chúa). Kinh Tin Kính là bản
liệt kê các giáo điều căn bản của
đạo Công Giáo đã được Hội Nghị
Nicaea chấp thuận năm 325 vẫn có thể
được sửa đổi cho phù hợp với
thời đại ngày nay (sách trích dẫn trang 160). Do
đó, việc bài trừ hệ thống tu sĩ Công Giáo là
một vấn đề ưu tiên cần thực hiện
trước khi bắt tay vào việc giáo
dục quần chúng.
Mọi người chúng ta
đều biết rằng Chúa Jesus chỉ có một
người mẹ duy nhất là đức Mẹ Maria.
Nhưng chúng ta thấy người Công Giáo
đã gọi Mẹ Maria bằng rất nhiều danh
hiệu khác nhau. Nào là Đức Mẹ Đồng
Trinh, Đức Mẹ Chúa Trời, Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội, Đức Mẹ Mông Triệu,
Đức Mẹ Mân Côi và Đức Mẹ sắp mang thêm
một danh hiệu chính thức nữa là "Đức
Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc". Ngoài ra, chúng ta
cũng nghe nói tới những vụ Đức Mẹ
hiện ra ở nhiều nơi trên thế giới như
Lộ Đức (Pháp) Fatima (Bồ Đào Nha) La Vang
(Việt Nam) và hàng trăm địa danh khác nữa không
xiết. Mỗi một danh hiệu nói trên
của Đức Mẹ đều có lịch sử
của nó và đều đã gây ra nhiều hậu quả
cho đời sống nhân loại và đời sống
của giáo hội Kitô. Mỗi lần Vatican đưa ra
một phép lạ của Đức Mẹ ở một
nơi nào đó đều có dụng đích chính trị
của họ. Vấn đề tôn
thờ Đức Mẹ có cả một ngành nghiên cứu
riêng gọi là Mariology hết sức phức tạp và hoàn
toàn xa lạ đối với đại đa số
đồng bào ta là những người ngoại giáo.
Đây là lý do thứ hai thúc đẩy tôi
viết bài này nhằm trình bày khái lược về
những vấn đề trên để quí vị
độc giả ngoại giáo hiểu thêm về thực
chất của giáo hội Công Giáo La Mã và cũng để
từ đó có thể đoán biết được
tương lai của giáo hội này sẽ đi về
đâu. Sự mất còn của giáo hội
Công Giáo với trên một tỷ tín đồ có liên hệ
mật thiết với vận mệnh của nhân loại,
trong đó có dân tộc Việt Nam.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét