Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013

Những khuôn vàng thước ngọc do Constantine đặt ra cho Ki-tô giáo:

Với đạo luật Milan năm 313, Constantine đã chính thức chấm dứt 3 thế kỷ cấm đạo Ki-tô của đế quốc La-mã. Constantine luôn luôn tự coi mình là một đại ân nhân của tôn giáo này. Hơn thế nữa, Constantine chỉ coi Ki-tô giáo là một công cụ phục vụ cho mưu đồ củng cố và bành trướng đế quốc của hắn nên hắn đã tạo ra những “khuôn vàng thước ngọc” để buộc Ki-tô giáo phải tuân theo. Chính vì vậy Constantine tự coi mình là ông thầy dạy cho Ki-tô giáo phải làm những việc gì. Trong tác phẩm “Christian Spiritual”, Classics xuất bản năm 1996, trang 97, tác giả Richard Woods đã viết rất chí lý: “trong lãnh vực ý thức chính trị cao, Constantine không phải là học trò mà là bậc thầy của giáo hội” (In the realm of high politics, Constantine was not the pupil of the church but its instructor). Quả thật “ông thầy” Constantine đã để lại cho đứa học trò của mình là Ki-tô giáo, đặc biệt là Công giáo La-mã, nhiều khuôn vàng thước ngọc để tuân hành suốt trong 17 thế kỷ qua.
1. Khuôn vàng thước ngọc đầu tiên là Công Đồng (Council)
      Giáo sư sử học Garry Wills thuộc đại học Western University đã viết: “Constantine điều hành các công đồng của giáo hội như một thẩm quyền chính trị của ông ta nhằm mục đích đập tan các phe dị giáo và để sắp đặt các giám mục” (Constantine who ran church coucils as his political right broke heresies and installed bishops – Papal Sin, Doubleday 2000, page 153).
Năm 324, Constantine thống nhất toàn đế quốc La-mã. Qua năm 325, ông ta triệu tập Công đồng Nicea bằng cách gửi giấy mời đến 1800 giám mục trong toàn lãnh thổ đế quốc, nhưng chỉ có 250 giám mục đến họp tại Nicea (nay là thành phố Izmir của Thổ-nhĩ-kỳ). Phòng họp là một lâu đài sang trọng của nhà vua tại thành phố này. Constantine chủ tọa cuộc họp với tư cách là sứ giả của chúa (Messenger of God). Constantine chẳng biết gì về giáo lý đạo Ki-tô nhưng ông ta nhận thấy Ki-tô giáo có quá nhiều phe phái chống báng nhau. Ông ra lệnh cho các giám mục phải thống nhất giáo lý - bất kể là giáo lý nào - miễn sao đại đa số giám mục biểu quyết chấp thuận thì giáo lý đó thành chân lý cho toàn giáo hội. Đó là nguyên tắc chính yếu của các Công đồng thuộc giáo hội Ki-tô.
Kết quả của Công đồng Nicea năm 325 là: Ngoài việc chấp thuận Kinh Tin Kính bao gồm những tín điều căn bản của đạo Ki-tô, Công đồng còn biểu quyết một đoạn đặc biệt để chống lại giáo phái Arius. Đoạn này như sau: “Chúa Jesus có cùng bản chất với Chúa Cha, Người là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Jesus was of one substance with Father, He is true God of true God).
Sau khi Công đồng biểu quyết, Arius là giám mục tại thành phố Alexandria (Ai-cập) không chịu ký vào biên bản. Ông ta vẫn giữ vững lập trường cho rằng: “Thiên Chúa tạo ra Jesus – Ki-tô từ không. Như vậy có lúc chúa Ki-tô không có. Do đó Ki-tô không phải là Thiên Chúa” (God created Christ from nothing. there was time Christ was not, so he is not God). Arius bị Constantine tống giam 9 năm (325-334). Khi được thả ra thì Arius đã 78 tuổi. Ông sống lang thang trên hè phố Constantinople được hai năm rồi nằm chết bên đường như gã ăn mày. Arius đã chết vì không hiểu chủ đích của Constantine. Tên bạo chúa La-mã chỉ cần thống nhất Ki-tô giáo để biến nó thành một công cụ chính trị. Y không cần đếm xỉa gì đến cái giáo lý của nó ra sao.
Trong cuộc đời của Constantine cho đế khi chết năm 337, y đã trực tiếp triệu tập và điều khiển 4 Công dồng để thống nhất giáo lý Ki-tô. Các hoàng đế La-mã kế nghiệp triệu tập Công đồng Ephesus năm 431 để tôn vinh bà Maria là Mẹ Thiên Chúa (Mother of God). Công đồng Chalcedon năm 451 để xác nhận Jesus có hai bản tính con người và Thiên Chúa....
Triệu tập Công đồng để giải quyết mọi vấn đề khó khăn của giáo hội là sáng kiến của Constantine. Giáo hội Công giáo La-mã thực hiện rất nhiều Công đồng trong gần 2000 năm qua. Công đồng cuối cùng là Vatican II do Giáo hoàng XXIII triệu tập năm 1962.
2. Khuôn vàng thước ngọc thứ hai của Constantine là hình thành cơ cấu tổ chức căn bản của giáo hội Ki-tô.
Trước hết, Constantine biến Rome thành thủ đô Ki-tô giáo (a Christian City) bằng cách xuất quĩ xây nhiều nhà thờ vĩ đại như Đền thánh Phê-rô, biến các đền thờ của Đa Thần giáo La-mã thành nhà thờ Ki-tô giáo.
Constantine ban hành qui chế giám mục. Các giám mục được coi như tương đương với nghị sĩ (senator) được hưởng quyền lợi của viên chức cao cấp của triều đình (state officiers).
Riêng giám mục ở Rome được Constantine cho ở trong Cung điện Lateran.  Cung điện này nguyên là dinh thự của hoàng hậu Fausta bị Constantine giết chết. Lateran trở thành dinh của các giáo hoàng từ đó cho đến thế kỷ 14 mới chuyển sang một lâu đài khác.
Một điều quan trọng khác là Constantine chia lãnh thổ toàn đế quốc La-mã thành các giáo phận (dioceses) đứng đầu bởi một giám mục. Nhà thờ ở nơi có giám mục được gọi là “Cathedral”, do chữ Hy-lạp “Cathedra” có nghĩa là cái ghế, ám chỉ giám mục có quyền cai trị của một viên chức nhà nước (bureaucratic power). Các tu sĩ (clergy men) được miễn mọi thứ tạp dịch công cộng (public duties). Từ năm 323, Constantine trao cho các giám mục có quyền xét xử mọi người trong giáo phận quản hạt.
3. Những khuôn vàng thước ngọc của Constantine về các nghi lễ tôn giáo.
      a. Ngày 28.10.312, Constantine công nhận thập giá là huy hiệu chính thức của quân đội La-mã. Trong ngày khai mạc Công đồng Nicea năm 325, Constantine chỉ thị cho các giám mục phải dùng Thập giá làm biểu tượng chính thức của Ki-tô giáo và thập giá phải là trung tâm thờ phượng của đạo Ki-tô (center of Christian cult). Từ đó, thập giá xuất hiện trên các nóc nhà thờ và luôn luôn ở vị trí chính giữa của bàn thờ Ki-tô giáo.
      b.Constantine tự ý ấn định mỗi tuần dành ra một ngày lo việc thờ phượng cho các tín đồ Ki-tô. Ngày đó gọi là “ngày của Thần Mặt trời” (Sunday). Ngày chủ nhật đầu tiên cho các tín đồ đi lễ là ngày 7.3.321.
      c. Constantine không cần biết Jesus sinh ra ngày nào, năm nào. Tuy nhiên, ông ta tự ý quyết định chọn ngày sinh nhật của Thần Mặt trời Vạn thắng (The Invincible Sun God) theo Đa Thần giáo La-mã làm ngày sinh nhật của Jesus. “Đêm Thánh Vô Cùng” đầu tiên toàn giáo hội Ki-tô long trọng tổ chức để mừng Chúa “giáng sinh” là ngày 25 tháng 12 năm 336.
Khi ban bố các lệnh trên, Constantine là tín đồ kiêm giáo chủ tối cao của Đa Thần giáo La-mã. Y muốn những tín đồ Ki-tô bề ngoài thực hiện nghi lễ của tôn giáo mình nhưng thực ra là để tôn kính Thần Mặt trời của Đa Thần giáo. Ngày chủ nhật là ngày của Thần Mặt trời (Sunday), chứ không phải là “Chúa Nhật” (God day/ Christ Day! Vì vậy chúng tôi tha thiết mong những người Việt không nên gọi ngày Chủ nhật là “Chúa nhật”).
      d. Constantine tự ý quyết định các buổi lễ (Mass) của Ki-tô giáo phải có bánh và rượu để tượng trưng thịt và máu của Jesus. Nghi lễ này không phải do Constantine sáng chế mà do sáng kiến của Justus Martyr. Constantine chỉ muốn giáo hội Ki-tô phải hành lễ theo một nghi thức thống nhất mà thôi. Nghi thức tế lễ có bánh và rượu được gọi là “Phép Mình Thánh Chúa” (Eucharist – A Concise History of the Catholic Church, Thomas Bokken-Kotten, Doubleday 1990).
Đấng Bề Trên Của Ki-tô Giáo.
Sử gia lừng danh thế giới Will Duran đã bỏ ra 25 năm nghiên cứu Ki-tô giáo và hoàn thành tác phẩm “Cesar and Christ” (750 trang) trong 5 năm. Nơi trang 656 ông nhận xét thái độ của Constantine đối với Ki-tô giáo như sau: “Trong suốt thời gian trị vì, Constantine đối xử với các giám mục như những phụ tá chính trị: Ông ta triệu tập và chủ tọa các Công đồng. Đối với một tín đồ chân chính thì phải là một Ki-tô hữu trước đã rồi mới là chính khách sau, nhưng với Constantine thì ngược lại. Ki-tô giáo đối với ông ta chỉ là một phương tiện chứ không phải là cứu cánh”. (Throughout his reign, Constantine treated the bishops as his political aids: He summoned them, presided over their councils. A real believer would have been a Christian first and a stateman afterward. With Constantine it was the reverse, Christianity was to him a means, not an end).
Tác phẩm “Eerdmans Handbook of Christianity” là công trình nghiên cứu tập thể của trên 100 giáo sư Sử học và Tôn giáo học của các trường Đại học Âu, Mỹ, Úc. Nơi trang 109, họ đã viết: “Trước Công đồng Nicea do Constantine triệu tập năm 325 thì những tiêu chuẩn phổ quát của đức tin chính thống Ki-tô giáo chưa hề có” (Prior to the Council of nicea summoned by Constantine in 325, no universal touchstone of Orthodox faith existed).
Các sử gia chân chính trên thế giới cho chúng ta thấy sự thật lịch sử là đạo Ki-tô chỉ thật sự thành hình từ sau Công đồng Nicea năm 325 mà thôi. Trong 3 thế kỷ đầu Công gnuyên không có Ki-tô giáo mà chỉ có “Phong trào Jesus” với rất nhiều phe nhóm chủ trương đối nghịch nhau.
Đọc lại cuốn Việt Nam Giáo Sử của linh mục Phan Phát Huồn (trang 20) tôi phải ... ‘phát buồn’ vì thấy ông linh mục sử gia dỏm này viết sách bất chấp việc kiểm chứng sự thật lịch sử. Linh mục Huồn viết: “Lấy võ lực đàn áp Công giáo để tiêu diệt người Công giáo thì chẳng những Công giáo không bị tiêu diệt mà còn sinh sản đông đúc thêm.... Các hoàng đế La-mã muốn tiêu diệt đạo Công giáo thì ngày nay trên thủ đô Rô-ma phất phới trước gió một cách oai hùng quốc kỳ Vatican tượng trưng cho quyền bính của giáo hội.”
Trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên chưa có đạo Ki-tô hẳn hòi mà chỉ có những nhóm thờ Jesus với những giáo lý hổ lốn. Ta có thể tạm gọi họ là những tín đồ Ki-tô giáo Nguyên thủy (The Early Christianity). Sau 325 mới có Ki-tô giáo thống nhất và phải đợi tới đời con của Constantine là hoàng đế Constantine I, Ki-tô giáo được ông vua sùng đạo này đổi tên thành Công giáo (Cattolica) vào năm 340.
Trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên, dù cho các hoàng đế La-mã có muốn diệt Công giáo đến đâu cũng không thể diệt được vì lúc đó Công giáo chưa được đẻ ra !
Từ sau năm 325, Công giáo là con đẻ của đế quốc La-mã được đế quốc vỗ béo cho mau lớn để trở thành tôn giáo chính thức của cả đế quốc La-mã rộng lớn. Các hoàng đế La-mã chẳng bao giờ muốn tiêu diệt Công giáo mà chỉ lo việc bành trướng nó khắp nơi bằng bạo lực mà thôi.
- Năm 356, hoàng đế Constantius I  ra lệnh cấm Đa Thần giáo La-mã, biến các đền thờ Đa Thần giáo thành các giáo đường Ki-tô giáo.
- Hoàng đế Thedeosius (379-395) công bố Ki-tô giáo là quốc giáo, mọi người theo các đạo khác đều bị tử hình.
- Vào năm 500, một người ở xứ Gaul tên Cloris dấy binh thống nhất tất cả các bộ lạc Frank (Frankish tribes) lập nên nước Pháp. Cloris trở thành vua Pháp liên kết chặt chẽ với giáo hoàng La-mã và ra lệnh cho toàn dân Pháp phải theo đạo Công giáo. Ai bất tuân lệnh phải chịu hình phạt tử hình.
- Cuối thế kỷ 7, Hồi giáo tiêu diệt Ki-tô giáo tại Ai-cập, Palestine, Trung Đông và Bắc Phi. Ki-tô giáo lo bành trướng thế lực ở Tây Âu. Người thực hiện kế hoạch này là vua Pháp Chrlemagne (lên ngôi năm 768). Charlemagne đem quân đánh đuổi quân Ả-rập Hồi giáo khỏi lãnh thổ Tây-ban-nha. Sau đó Charlemagne chiếm thêm vùng đồng bằng sông Rhin (Đức, Bỉ, Hòa Lan). Đúng ngày lễ Noel năm 800, Charlemagne đến Rome quì gối dưới chân giáo hoàng Leo III để được giáo hoàng đội vương miện và phong tước hiệu “Hoàng đế của đế quốc La-mã Thánh thiện” (Emperor of the Holy Roman Empire). Đây chính là Đế quốc Công giáo La-mã đầu tiên. Charlemagne và giáo hoàng cùng chủ trương dùng đạo Công giáo làm lực lượng thống nhất đế quốc (a unifying force). Sau đó, Charlemagne đã ban bố một mệnh lệnh ghê gớm: “Phải theo đạo tập thể hoặc chống đối sẽ bị tàn sát tập thể” (mass conversion or mass slaughter in case of resistance – The Story of Christianity by Michael Collins and Mathew Price DK Publishing 1999, page 91).
Sử sách Âu châu gọi Đế quốc La-mã trong thời gian từ năm 313 đến năm 590 (277 năm) là “Đế quốc Ki-tô giáo” (The Christianity Empire – Sách dẫn chiếu trang 57-59). Ki-tô giáo nói chung và Công giáo La-mã nói riêng hiển nhiên là một sản phẩm của đế quốc La-mã.
Constantine là người biết rõ điều đó hơn ai hết nên ông ta luôn luôn có ý coi rẻ tôn giáo này. Một bằng chứng cụ thể nhất chứng tỏ Constantine tự coi mình là “Đấng bề trên của Ki-tô giáo”, đó là việc Constantine thiết kế khu nhà mồ của mình ở Constantinople (nay là thủ đô Istambul của Thổ-nhĩ-kỳ). Trong tác phẩm “The faith – A History of Christianity” nơi trang 96, sử gia Brian Monahan viết: “Mộ của Constantine được đặt ở trung tâm khu nhà mồ hình tròn mà ông ta đã xây cho chính mình tại Constantinople, với 12 ngôi mộ trống ở chung quanh tượng trưng cho các tông đồ (của Jesus) nằm ở  dưới chân hắn” (His tomb was placed in the carter of the circular mauseleum he built for himself in Constantinople with twelve sepulchures place around it as though the apostles lay at his feet).
Thái Độ của Vatican Đối Với Constantine:
Trong Giáo hội Chính Thống giáo, Constantine được tôn vinh là Hoàng đế-Thánh (Emperor-Saint) có ảnh tượng thờ tại các giáo đường. Constantine đội vương miện cao 3 tầng, tay phải cầm cây thập giá rất dài để nhắc mọi người biết Constantine là người đầu tiên tôn vinh dấu hiệu chữ Thập (In Hoc Signo). Trong Giáo hội Công giáo, chỉ một mình mẹ của Constantine được tôn vinh mà thôi. Mặc dầu tiểu sử của bà chẳng có gì đặc biệt: xuất thanh từ một cô gái hầu bàn (a barmaid) lấy một sĩ quan La-mã, có con rồi bị chồng bỏ. Tuy nhiên, nhờ có bà  mới có Ki-tô giáo như ngày nay nên bà được Vatican phong “hiền thánh”. Cả giáo hội Công giáo dành riêng ngày 18 tháng 8 hàng năm để “dâng thánh lễ” tôn vinh ‘bà Thánh’ Helena. Ngoài ra, bà còn được tôn vinh là thánh quan thầy của kẻ tân tòng. So sánh với bà Helena thì công lao của Constantine đối với Ki-tô giáo lớn gấp ngàn vạn lần. Nhưng Constantine đã không được Vatican phong thánh. Chẳng những thế, Vatican còn cố ý lờ đi không nhắc tới để cho tên tuổi sự nghiệp của Constantine bị chìm trong quên lãng. Công giáo La-mã là kẻ chịu ơn của Constantine nhiều nhất nhưng lại muốn phủ nhận hoàn toàn ‘công ơn trời biển’ của vị hoàng đế La-mã này. Tất cả chỉ vì Constantine đã lôi Ki-tô giáo từ vũng bùn lên, đánh rửa sạch sẽ và tô son điểm phấn cho nó để làm công cụ phục vụ những mục tiêu chính trị của đế quốc.
Bề ngoài Constantine củng cố Ki-tô giáo để đạt mục tiêu chính trị, về mặt tâm linh ông ta vẫn là một tín đồ của đạo thờ thần Mặt Trời (a Sun-god worshiper). Cho đến khi về già ông ta vẫn tự xưng là Giáo chủ Tối cao của Đa Thần giáo La-mã (Pontifex Maximus).
Vì chỉ coi Ki-tô giáo như một sản phẩm của mình nên thật sự Constantine không coi trọng Jesus, do đó ông ta không thèm xử dụng tước hiệu Đại diện Chúa Ki-tô (Vicar of Christ) mà xử dụng tước hiệu “Đại diện Thượng đế Trên Trái Đất” (God’s Vicar on earth). Trong tác phẩm “The Oxford Illustrated History of Christianity” của John Mac Mannus, Oxford Uni, Press 1990, trang 71 có in hình huy hiệu của Constantine, trên đó có in chữ Hy-lạp có ý nghĩa như trên ‘God’s vicar on earth’.
Constantine tạo mọi điều kiện làm cho Ki-tô giáo lớn mạnh nhưng không cho phép nó thành một quyền lực độc lập, mà chỉ cho nó làm một bộ phận của đế quốc mà thôi. Do đó, sau này Vatican đã phải làm giả văn kiện mang tên “Sự dâng cúng của Constantine” (The donation of Constantine) để tạo quyền lực cho giáo hội Công giáo La-mã. Văn kiện này được Vatican giả mạo dưới triều giáo hoàng Stephen III (752-757) bằng cách ngụy tạo văn kiện, ngụy tạo chữ ký của Constantine và bịa đặt ngày ký là 30 tháng 3 năm 315.
Trong văn kiện này có điều khoản quan trọng sau đây : “Đức Thánh Cha là đấng thừa kế Thánh Phê-rô sẽ được tôn vinh lên bậc cao cả trong đế quốc chúng ta và còn cao cả hơn ngôi báu thế gian. Đức Thánh Cha cai quản các giám mục ở Antioch, Alexandria, Constantinople và Jerusalem” (The Faith, a history of christianity, Brian Monahan, pages 217, 362).  Văn kiện giả mạo “The Donation of Constantine” đã bị lôi ra ánh sáng bởi Lorenzo Valla, một giới chức cao cấp tại Vatican, vào năm 1440. Một trong những bằng cớ rõ rệt nhất là văn kiện giả mạo ghi ngày ký là 30.3.315. Lúc này, Constantinople chưa có. Thành phố Constantinople bắt đầu được thành lập từ năm 324!
Với văn kiện giả mạo này, Vatican đã chiếm được quyền lực cai quản toàn bộ các giám mục trong giáo hội và lấn lướt quyền lực của các vua chúa về phương diện thế quyền. Văn kiện “The Donation of Constantine” chỉ là một trong vô vàn các hình thức bịp bợm đã tạo nên quyền lực của Vatican trong 16 thế kỷ qua.
Để kết thúc bài viết này, tôi xin mượn lời của sử gia Gibbon trong tác phẩm ‘The Decline and Fall of the Roman  Empire’ : “Giáo hội La-mã dùng bạo lực để bảo vệ cái đế quốc mà nó đã chiếm được bằng sự lừa bịp”! (The Church of Rome defended by violence the empire she acquired by fraud).


            Charlie Nguyễn

                (re-edited on March, 2002)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét