Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Hai, 16 tháng 12, 2013

Samuel P. Huntington - Dân chủ hóa ở các nước diễn ra như thế nào [1]

Samuel P. Huntington
Vương Thiện chuyển ngữ
Lời giới thiệu: SAMUEL P. HUNTINGTON là giáo sư Albert J. Weatherhead III của trường Đại học Harvard. Ông qua đời tháng 12/2008. Ông là một nhà khoa học chính trị xuất sắc trong các môn như quan hệ dân sự - quân sự, phát triển chính trị, nhà nước so sánh và đụng độ toàn cầu giữa các nền văn hóa. Giáo sư Huntington còn là một người bạn tốt của tạp chí quý Khoa học Chính trị và Biên tập viên của tạp chí này. Chúng tôi thương tiếc ông một cách sâu sắc. Bài báo này vốn đã được xuất bản trong số mùa Đông năm 1991 của Tạp chí và đã là một trong những bài viết được đọc nhiều nhất trên JSTOR và cả trên trang web của chúng tôi.
Giữa những năm 1974 và 1990 hơn 30 nước Nam Âu, châu Mỹ latinh, Đông Á, và Đông Âu chuyển đổi từ chế độ độc tài sang hệ thống chính thể dân chủ. Cuộc “cách mạng dân chủ toàn cầu” này có lẽ là trào lưu chính trị quan trọng nhất cuối thế kỷ 20. Đây là làn sóng dân chủ hóa lần thứ ba trong kỷ nguyên hiện đại. Làn sóng dân chủ hóa này bao gồm một nhóm các nước chuyển đổi từ chế độ phi dân chủ sang chế độ dân chủ trong một khoảng thời gian nhất định, và số lượng các nước như vậy nhiều hơn nhiều các quá trình chuyển đổi đối nghịch trong cùng khoảng thời gian. Làn sóng thứ nhất diễn ra tại châu Mỹ vào đầu thế kỷ mười chín và lên đến đỉnh điểm vào giai đoạn cuối chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, với khoảng 30 nước đạt được chế độ dân chủ. Cuộc đổ bộ của Mussolini vào thành Rome năm 1922 bắt đầu một làn sóng đối nghịch, và vào năm 1942 chỉ còn lại 12 nền dân chủ trên thế giới. Với chiến thắng của quân đội Đồng minh ở chiến tranh Thế giới lần thứ hai và ảnh hưởng từ phong trào phi thực dân hóa, phong trào hướng tới dân chủ lần thứ hai đã được khởi xướng, mặc dù phong trào lần này yếu dần và thoái trào vào đầu thập niên 60, với khoảng 36 nước hưởng các chế độ dân chủ. Tiếp ngay sau đó là phong trào đối nghịch lần thứ hai hướng về chủ nghĩa độc tài, đánh dấu đột ngột nhất là bằng các cuộc tiếp quản quân sự tại châu Mỹ latinh và cướp chính quyền của những kẻ độc tài như Ferdinand Marcos.
Nguyên nhân khởi nguồn của làn sóng thứ ba, cũng như của các làn sóng trước đó, rất phức tạp và mang tính đặc thù riêng. Tuy nhiên, bài viết này không lưu tâm tới việc tại sao có làn sóng thứ ba này, mà hơn hết lưu tâm với câu hỏi là các tiến trình dân chủ hóa của làn sóng này đã diễn ra như thế nào: các cách thức trong đó lãnh đạo chính trị và quần chúng trong thập niên 1970 và 1980 kết thúc các hệ thống độc tài và tạo ra các chế độ dân chủ. Con đường đi đến sự thay đổi rất đa dạng, cũng như thế về những nhân vật chủ chốt đưa đến sự thay đổi. Hơn hết, điểm bắt đầu và kết thúc của các quá trình này không đối xứng. Có những sự khác biệt rõ rệt tồn tại giữa các chế độ dân chủ: một vài dưới hình thức dân chủ tổng thống, số khác theo hình thức nghị viện, số khác nữa theo trường phái của Charles De Gaulle là sự tổng hòa của cả hai hình thức trên; do đó, một số là hai đảng, số khác đa đảng, và những sự khác biệt lớn tồn tại ở bản chất và sức mạnh của các đảng này. Những sự khác biệt này có tầm quan trọng đáng kể đối với tính ổn định của các hệ thống dân chủ đã hình thành, nhưng không quan trọng lắm trong các quá trình dẫn đến việc ra đời những nền dân chủ này[1]. Sự khác biệt quan trọng hơn cả là trong tất cả các nền dân chủ, viên chức chính của chính phủ được lựa chọn thông qua các cuộc bầu cử mang tính cạnh tranh mà trong đó toàn thể dân chúng đều có thể tham gia. Do đó, các hệ thống dân chủ có một điểm hạt nhân chung về thể chế và đây chính là cái tạo nên đặc tính của các hệ thống này. Các hệ thống độc tài – như từ này được dùng trong nghiên cứu này – được xác định đơn giản là tính vắng mặt của hạt nhân thể chế đó. Ngoài việc không phải là các thể chế dân chủ, các thể chế này có thể không có gì nhiều chung. Do đó, sẽ là cần thiết bắt đầu cuộc thảo luận về sự thay đổi trong các chế độ độc tài bằng việc xác định những sự khác biệt giữa các chế độ này và điểm quan trọng trong những điểm khác biệt đó đối với các tiến trình dân chủ hóa.

CÁC CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI

Trong lịch sử, các chế độ phi dân chủ tồn tại dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Các chế độ tiến hành dân chủ hóa trong làn sóng lần thứ nhất nói chung là các chế độ quân chủ chuyên chế, chế độ quý tộc phong kiến còn rơi rớt lại, và các quốc gia kế thừa các đế chế lục địa. Các chế độ dân chủ hóa trong làn sóng lần thứ hai trước đó là các quốc gia phát xít, thuộc địa, và độc tài chính trị cá nhân hóa và trước đó thường đã có kinh nghiệm về dân chủ. Các chế độ chuyển động và hướng tới dân chủ trong làn sóng lần thứ ba rơi vào 3 nhóm: chế độ một đảng, chế độ quân sự, và chế độ độc tài mang tính cá nhân.
Hệ thống một đảng hình thành từ cuộc cách mạng hoặc do sự áp đặt của Xô-viết và bao gồm các nước cộng sản cộng thêm Đài Loan và Mê-hi-cô (Thổ Nhĩ Kỳ cũng phù hợp với mô hình này trước khi nước này thực hiện dân chủ hóa trong làn sóng lần thứ hai vào những năm 1940). Trong các hệ thống này, đảng cầm quyền giữ độc quyền về quyền lực, tiếp cận quyền lực thông qua tổ chức đảng, và đảng cầm quyền hợp pháp hóa sự thống trị của mình thông qua ý thức hệ/hệ tư tưởng. Các hệ thống này thường đạt được mức độ thể chế hóa chính trị tương đối cao. Các chế độ quân sự được tạo ra sau các cuộc đảo chính lật đổ chính phủ dân chủ hoặc dân sự. Trong các hệ thống này, quân đội thực thi quyền lực trên cơ sở thể chế, với một đặc tính tiêu biểu là giới lãnh đạo quân đội thường quản lý nhà nước như những kẻ độc tài quân sự hoặc phân phối các vị trí hàng đầu trong chính phủ cho các vị tướng lĩnh đứng đầu quân đội. Các chế độ quân sự tồn tại trong rất nhiều nước ở châu Mỹ latinh (nơi một số người coi gần giống như mô hình quan liêu – độc tài) và ở cả Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan, Nigeria và Hàn Quốc.
Chế độ độc tài mang tính cá nhân là nhóm thứ ba, đa dạng hơn trong hệ thống các nền phi dân chủ. Đặc điểm phân biệt một chế độ độc tài mang tính cá nhân là ở chỗ vị lãnh đạo đó là nguồn của quyền hành và ở chỗ quyền lực phụ thuộc vào việc tiếp cận tới vị lãnh đạo này, sự gần gũi với vị này, sự phụ thuộc vào vị này, và sự ủng hộ của vị lãnh đạo này. Nằm trong phân loại này gồm có Bồ Đào Nha dưới thời António Salazar và Marcello Caetano, Tây Ban Nha dưới thời Francisco Franco, Philipin dưới thời Ferdinand Marcos, Ấn Độ dưới thời Indira Ghandi, và Rô-ma-ni-a dưới thời Nicolae Ceausescu. Độc tài mang tính cá nhân có rất nhiều nguồn gốc khởi nguyên. Những vị độc tài ở Philipin và Ấn Độ là kết quả của đảo chính ở cấp độ hành pháp. Độc tài ở Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha bắt đầu bằng các cuộc đảo chính quân sự (trong đó, ở trường hợp của Tây Ban Nha, sau đó dẫn đến chiến tranh dân sự) với những kẻ độc tài lần lượt thiết lập cơ sở quyền lực độc lập với quân đội. Tại Rô-ma-ni-a, độc tài mang tính cá nhân sinh ra từ chế độ một đảng. Chi-lê dưới thời Augusto Pinochet khởi đầu là một chế độ quân sự nhưng trong thực tế dần trở thành độc tài mang tính cá nhân do sự nắm quyền kéo dài của ông này và những bất đồng cũng như vị thế thống trị của ông với các lãnh đạo của giới quân sự. Một vài độc tài mang tính cá nhân như Marcos và Ceausescu, như Anastasio Somoza, François Duvalier, Sese Seko Mobutu, và vua Iran, là những ví dụ điển hình cho mô hình của Weber về các chế độ sultanic đặc trưng bởi quyền bổ nhiệm, ưu đãi, quan hệ và tham nhũng.
Chế độ một đảng, chế độ quân sự, và độc tài mang tính cá nhân đè nén cả tính cạnh tranh và sự tham gia. Hệ thống của Nam Phi khác những chế độ này ở chỗ hệ thống này về cơ bản là chính thể đầu sỏ theo chủng tộc với hơn 70 phần trăm dân số bị loại khỏi chính trị nhưng với tính cạnh tranh chính trị tương đối căng thẳng xuất hiện trong cộng đồng các quan chức chính phủ người da trắng. Kinh nghiệm từ lịch sử cho thấy dân chủ hóa diễn ra dễ dàng hơn nếu cạnh tranh mở rộng trước khi có sự tham gia.[2] Nếu đây là trường hợp đó, triển vọng cho một kết cục dân chủ hóa thành công ở Nam Phi là cao hơn so với các nước có các dạng thức khác của hệ thống độc tài. Quá trình diễn ra ở Nam Phi, ở một mức độ nào đó, giống với các quá trình dân chủ hóa ở thế kỷ 19 tại châu Âu trong đó đặc điểm trung tâm là sự mở rộng quyền đi bỏ phiếu bầu cử và sự thiết lập một chính thể chính trị mang tính đại diện rộng hơn. Trong những trường hợp này, sự loại trừ dựa trên các cơ sở kinh tế, chứ không phải trên cơ sở chủng tộc. Tuy nhiên, trong lịch sử, các hệ thống công xã theo thứ bậc thường có tính kháng cự rất cao trước thay đổi mang tính hòa bình.[3] Cạnh tranh trong hệ thống chính thể đầu sỏ do đó thuận lợi hơn cho quá trình dân chủ hóa thành công của Nam Phi; khái niệm chủng tộc của chính thể đầu sỏ này đã tạo ra vấn đề cho quá trình dân chủ hóa.
Các chế độ cụ thể không phải luôn luôn hợp sít sao vào một trong những phân loại cụ thể kể trên. Ví dụ vào đầu thập niên 1980, Ba Lan là tổng hợp của các yếu tố của một chế độ một đảng đang bị mọt ruỗng và của một chế độ dựa trên quân đội trong tình trạng thiết quân luật đứng đầu là một sĩ quan quân đội và người này cũng đồng thời là tổng bí thư Đảng Cộng sản. Chế độ cộng sản của Rô-ma-ni-a (cũng giống như ở Hàn Quốc) khởi đầu là chế độ một đảng nhưng đến những năm 1980 đã tiến sang hình thức độc tài mang tính cá nhân sultanic.
Bảng 1: Chế độ Độc tài và Quá trình Tự do hóa/Dân chủ hóa, 1974–90
   Chế độ
 Quá trình Một đảng Cá nhân Quân sự Đầu sỏ dân tộc
Chuyển đổi
(Transformation)
(Đài Loan)[a]
Hungary (Mê-hi-cô)
(Liên Xô)
Bulgaria

Tây Ban Nha
Ấn Độ
Chi-lê
Thổ Nhỹ Kỳ
Brazil
Pê-ru
Ecuador
Guatemala
Nigeria[*]
Pakistan Sudan[*]
 
 16  5  3  8  
Chuyển dịch (Transplacement) Ba Lan
Séc và Slôvakia Nicaragua
Mông Cổ
 (Nê-pan) Uruguay
Bô-li-vi-a
Honduras
El Salvador
Hàn Quốc    
(Nam Phi)
 11  4  1  5  1
Thay thế
(Replacement)
Đông Đức Bồ Đào Nha Phi-lip-pin
Rô-ma-ni-a
Hy Lạp Ác-hen-ti-na  
 6  1  3  2  
 Can thiệp  Grenada    (Panama)  
 2  1    1  
 Tổng số            
 35  11  7  16  1
Ghi chú: Nguyên tắc cơ bản của dân chủ hóa là việc lựa chọn chính phủ thông qua bầu cử cởi mở, cạnh tranh, mang tính tham gia đầy đủ, và được điều hành nhẹ.
a. Dấu ngoặc đơn chỉ một đất nước có giải phóng nhưng không dân chủ cho tới năm 1990.
* Chỉ một nước đảo ngược lại trở thành độc tài.
________________________
[1] Xem G. Bingham Powell, Jr., Các nền dân chủ đương đại: Tham gia, Ổn định, và Bạo lực (Cambridge, MA: Nhà xuất bản trường Đại học Havard, 1982), chương 5–9; Juan J. Linz, “Hiểm họa của hình thức tổng thống”, Tập san Dân chủ 1 (mùa Đông 1990): 51–69.
[2] Robert A. Dahl, Đa nguyên trị (Polyarchy): Tham gia và Chống đối (New Haven: Nhà xuất bản trường Đại học Yale, 1971), 33–40.
[3] Xem Donald L. Horowitz, “Ba Chiều của Chính trị Dân tộc”, Chính trị Thế giới 23 (tháng Giêng 1971): 232–36; Samuel P. Huntington và Jorge I. Domínguez, “Phát triển Chính trị” trong Fred I. Greenstein và Nelson W. Polsby biên tập, Sổ tay Khoa học Chính trị, quyển 3 (Sách đọc, MA: Addison-Wesley, 1975), 74–75.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét