Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013

Thập Giá và Lưỡi Gươm của Đại đế Constantine


  Charlie Nguyễn


Constantine sinh năm 274 (?) tại Nish, nay là tiểu bang Serbia của Nam Tư (Yougoslavia), qua đời tại Constantinople (nay là Istambul của Thỗ nhĩ kỳ) vào năm 337. Mẹ của Constantine là Helena, sinh quán tại Anh quốc. Cha của Constantine là Constantius Chlorus, một vị tướng của đế quốc La mã đồn trú tại Anh. Cha của Constantine đã quen biết bà Helena khi bà này còn là một cô gái hầu bàn tại quán rượu ở Bithinia (Enc. Britanica Vol. VI, page 297). Bà Helena chỉ là một trong những cô vợ bé của Constantius mà thôi. khi Constantine lên 7, 8 tuổi thì bà Helena bị chồng ruồng bỏ. Bà rất đau buồn nên đã tìm an ủi trong đạo Ki-tô, chẳng bao lâu sau bà trở thành một tín đồ rất sùng đạo. Không ai ngờ hành động theo đạo Ki-tô của bà đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với Constantine. Sau này, Constantine đã biến Ki-tô giáo thành một lực lượng khuynh đảo thế giới (world shaking power) lớn nhất trong lịch sử loài người.
Trước thời đại của Constantine, người Ki-tô giáo dùng hình con cá làm biểu tượng. Constantine là người đầu tiên dùng thập giá làm huy hiệu chính thức của quân đội La mã và cũng từ đó thập giá trở thành huy hiệu cao quí nhất của Ki-tô giáo. Đế quốc La mã và Ki-tô giáo cùng chung một biểu tượng thập giá. Dưới bàn tay phù thủy của Constantine, thập giá là một dụng cụ giết người rất dã man và đáng ghê tởm nhất đã biến thành “Thánh giá” thiêng liêng cao quí của đạo Ki-tô và của cả đế quốc!
 Có lẽ do ảnh hưởng của mẹ, Constantine nhận thấy những người Ki-tô giáo rất cuồng tín. Constantine không tin đạo nhưng chủ tâm xử dụng Ki-tô giáo làm công cụ chính trị để thống nhất đế quốc và sau đó có thể dùng tôn giáo để chinh phục thế giới. Constantine đã bộc lộ chủ trương này qua khẩu hiệu “In Hoc Signo Vinces” (Dưới khẩu hiệu Thập giá ta sẽ chiến thắng!”. Chủ trương này còn bộc lộ rõ rệt hơn nữa khi người kế nhiệm Constantine đổi tên Ki-tô giáo thành “Công giáo” năm 340. Danh từ “Công giáo” trong tiếng La tinh “Cattolica” có nghĩa là toàn cầu (universal) ngụ ý đế quốc có thể bành trướng thế lực ra khắp thế giới dưới chiêu bài Ki-tô giáo!
Những hoàn cảnh Lịch sử đã đưa Constantine lên ngôi Đại đế:
Đế quốc La mã bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 6 trước Công nguyên. Đến thời Deocletian, cuối thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, đế quốc La mã bao trùm một vùng lãnh thổ rộng lớn lên tới hai triệu dặm vuông, trải dài từ Armenia (sát nước Nga) đến Bắc Phi, từ Đại Tây dương đến Biển Chết, từ Tô-cách-lan  đến Ai-cập.
Năm 285, Deocletian lên ngôi hoàng đế La-mã thấy lãnh thổ của mình quá lớn bèn chia đế quốc thành bốn vùng, mỗi vùng do một thống đốc (Tetrach/ Governor) cai trị. Bốn thống đốc đó là Licinius, Maxentius, Galerius và Constantius Chlorus (cha của Constantine). Vùng lãnh thổ thuộc quyền Constantine là Anh, Pháp, Tây-ban-nha và một phần đồng bằng sông Rhin (Đức, Bỉ).
Năm 305, nhân dịp có vụ nổi loạn ở Anh, Constantine được cha trao trách nhiệm mang quân từ Pháp qua Anh dẹp loạn. Đến tháng 7 năm 306, trong lúc Constantine đang ở Anh thì được tin cha từ trần tại Ý. Các quân sĩ dưới quyền tôn Constantine lên ngôi hoàng đế (emperor).
Bắt đầu từ đó (306) Constantine lo củng cố quân lực để thống nhất đế quốc. Sau 6 năm tuyển mộ quân lính, phần đông là những tín đồ Ki-tô giáo, Constantine thành lập đạo quân Thập Tự đầu tiên với cờ hiệu là hình chữ Thập hoặc viết hai chữ tắt Hy-lạp “XP” có nghĩa là Ki-tô.
Năm 312, Constantine kéo quân đến Rome, giết chết đối thủ là Maxentius tại cầu Milvian. Xác của Maxentius bị vứt xuống sông Tiber. ngay khi tiến quân vào làm chủ thủ đô Rome, Constantine công bố chủ trương ưu đãi Ki-tô giáo. Vào tháng 2 năm 313, Constantine đến Milan gặp đối thủ (co-emperor) Lucinius và thuyết phục ông này cùng ký tên vào văn kiện được gọi là “Đạo luật Milan” (Edit of Milan) ban bố hủy bỏ lệnh cấm đạo trên toàn đế quốc. Cả hai vị hoàng đế cùng công bố như sau: “Chúng tôi cho mọi người Ki-tô giáo có quyền lựa chọn các nghi lễ thờ phượng mà họ muốn” (We might give all Christians fredom of choice to follow the ritual which they wished –the Rise of Chistianity, Greenhaven press 1999, page 22).
Sau đạo luật Milan, Constantine ra lệnh hoàn trả Ki-tô giáo tất cả tài sản đã bị các hoàng đế tiền nhiệm tịch thu. Ngày 28-10 năm 312, Constantine công bố Thập giá là biểu tượng chính thức của Ki-tô giáo. Trước đó, các tín đồ Ki-tô thường dùng hình vẽ con cá làm biểu tượng vì chữ Hy-lạp ICHTBUS có nghĩa là Cá, cụm từ EOU  UIOS  SOTER có nghĩa là Con của Chúa Trời (Son of God). Ghép các chữ đầu lại với nhau sẽ thành tên của Jesus theo tiếng Hy-lạp IESOUS (Deceptions and Myth of the Bible, Lloyd M. Graham, page 326-327).
Năm 323, một đối thủ của Constantine là Galerius (co-emperor) bất thần bị bệnh chết và không có thừa kế. Sân khấu chính trị của đế quốc La-mã chỉ còn lại hai đấu thủ là Constantine và Licinius. Năm 324, Constantine kéo đại quân tấn công Licinius tại Milan, truy kích và tiêu diệt đối thủ tại hải cảng Bosporus (Hy-lạp). Từ năm 324, Constantine tự xưng là Đại đế (Constantine the Great) nắm trọn quyền kiểm soát toàn thể lãnh thổ của Đế quốc La-mã rộng lớn.
Với chủ trương xử dụng Ki-tô giáo làm dụng cụ toàn cầu, ngay sau khi nắm trọn quyền cai trị đế quốc, Constantine đã lo thực hiện việc đầu tiên là triệu tập hội nghị các giám mục trong toàn thể đế quốc họp tại Nicea (Hy-lạp) năm 325 để thống nhất các giáo phái Ki-tô. Sau Công đồng Nicea năm 325, Ki-tô giáo mới thành hình là một tôn giáo thống nhất về giáo lý. Trước đó thật sự chưa có đạo Ki-tô theo đúng nghĩa như ta hiểu hiện nay. Để đánh giá đúng mức công trình kiến tạo Ki-tô giáo của Constantine, chúng ta cần tìm hiểu cái gọi là “Ki-tô giáo nguyên thủy” (The Early Christianity) tức Ki-tô giáo trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên, hoặc còn gọi là “Ki-tô giáo trước Thời đại Constantine” (The Pre-Constantine Christianity)  như thế nào?
  
Ki-tô giáo trước Thời đại Constantine
Trong thời gian Constantine tiến quân vào Rome năm 312 thì thành phố này có khoảng một triệu dân, nhưng không có một giáo hội Ki-tô nào có thể hoạt động công khai tại đây. Từ thời Néron (54-68) nhiều ngàn tín đồ Ki-tô bị ném vào giáo đấu trường cho thú dữ ăn thịt. Bạo Chúa Trajan (98-117) cấm đạo ác liệt trong 19 năm. Tiếp theo là vụ quân La-mã tàn phá Jerusalem giết hại 850.000 dân Do-thái trong các năm 132-135 khiến cho giáo hội Ki-tô Do-thái do James (em ruột của Jesus)  lập nên bị hoàn toàn tiêu diệt.
Năm 160 xảy ra biền cố quân Hung-nô chống lại La-mã. Do đó, các hoàng đế La-mã đã áp dụng chính sách cấm đạo gay gắt kéo dài trên một thế kỷ. Tín đồ Ki-tô bị sát hại hàng loạt, các nhà thờ bị đốt phá, các sách kinh bị hủy diệt.
Khởi đầu là hoàng đế Marcus Aurelius (161-180), hoàng đế Didius Julianus (193) Valerian (253-260) và hoàng đế Diocletan (284-305).
Các tín đồ sùng đạo phải đọc kinh hoặc hành lễ trong các hang hầm bí mật. Giáo hội Ki-tô bị phân tán và rút vào bóng tối như những hội kín (secret society). Ngày nay, Vatican thường liệt kê danh sách các giáo hoàng liên tục hoạt động ở Rome từ thời Phêrô cho đến thời Constantine là một điều hoàn toàn ngụy tạo. Trước hết, trong vòng 3 thế kỷ đầu Công nguyên, Ki-tô giáo chưa thành hình là một tôn giáo thống nhất nên không thể có giáo hoàng đứng đầu toàn giáo hội. Sau nữa, trải qua nhiều đợt cấm đạo gay gắt liên miên trong gần 3 thế kỷ, mọi hoạt động công khai của giáo hội cũng như mọi cơ cấu tổ chức rộng lớn đều không thể thực hiện và không thể tồn tại ở Rome.
Trong tác phẩm “A History of Christianity” do St. martin press, N.Y. xuất bản, tác giả Owen Chadwick đã viết: “Trong 3 thế kỷ đầu Công gnuyên, Ki-tô giáo luôn luôn bị coi là bất hợp pháp trong toàn đế quốc La-mã. Do đó, Ki-tô giáo không có giáo hội công khai mà chỉ có “Hội kín của những tín đồ Ki-tô” mà thôi (... Secret society of the Christians, sách đd., trang 34). Trong thế kỷ đầu Công nguyên, tên gọi Ki-tô giáo cũng chưa có, mọi người trong  đế quốc La-mã gọi đạo của Jesus là “Phong trào Jesus” (The Jesus’s movement).
Tác phẩm “Eermans Hanbook of Christianity” là công trình nghiên cứ Ki-tô giáo của trên một trăm giáo sư Sử học và tôn-giáo-học thuộc các trường Đại học Bắc Mỹ, Âu châu, Úc châu và Nhật Bản. sách dày trên 700 trang khổ lớn, xuất bản lần đầu 1977, tái bản 1987 với 750.000 cuốn. Mười trang sách (96-105) của tác phẩm giá trị này cho chúng ta thấy Ki-tô giáo trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên chưa thành hình là một tôn giáo thuần nhất. Có ít nhất 4 nhóm Ki-tô giáo đưa ra những “giáo lý” khác nhau. Nhóm này viết sách đã kích nhóm kia và kết án lẫn nhau là dị giáo hoặc rối đạo (heretic).


1. Nhóm Ki-tô giáo Do-thái (Jewish Christianity):
Nhóm này thoát thai từ giáo hội Ki-tô đầu tiên do em ruột của Jesus là James thành lập tại Jerusalem. Nhóm này tôn vinh Jesus là đấng Messiah (Ki-tô) và nhấn mạnh đến sự sống lại của Jesus vì theo truyền thuyết của Cựu ước Do-thái thì đấng Messiah không bao giờ chết. Nếu không đề cao “sự sống lại” của Jesus thì ông ta không thể được coi là Chúa Cứu thế!
Nhóm Ki-tô Do-thái cố gắng tìm mọi cách để chứng minh Jesus là đấng Messiah đã được Cựu Ước tiên tri. Họ dùng những hình ảnh quen thuộc của Cựu Ước Do-thái để gọi Jesus. Chẳng hạn như Jesus là “Con chiên hy sinh trong ngày Lễ Vượt Qua” (The Passover Lamb), Jesus là “Adam thứ hai” (The Second Adam) ...
Điều này cũng dễ hiểu vì Ki-tô giáo xuất thân từ Do-thái giáo và các tín đồ Ki-tô đầu tiên cũng đều là những người Do-thái. Chính vì thế mà dân Do-thái đã gọi những tín đồ Ki-tô giáo đầu tiên là “những tín đồ Do-thái biến thể’ (The Judaisers). Nhóm Ki-tô Do-thái đòi hỏi mọi người ngoại giáo muốn theo đạo Ki-tô phải chịu phép cắt bì (cắt da đầu dương vật) và phải tuân hành mọi luật lệ của đạo Do-thái (nghỉ việc ngày Sabbath).
Trong lúc đó, Phao-lồ đang giảng dạy đạo Ki-tô cho các ‘dân ngoại’ tại Hy-lạp và Rome với chủ trương “theo đạo qua đức tin mà thôi” (Conversion through faith only). Nghe tin Phê-rô và James thực hiện việc truyền đạo Ki-tô với những điều kiện ràng buộc vào đạo Do-thái, Phao-lồ lo sợ họ sẽ phá hỏng cuộc truyền đạo nên vội đến Jerusalem can gián Phê-rô và James, James biết phục thiện và nghe lời Phao-lồ. Phê-rô bướng bỉnh cãi lại nên hai người đã trải qua một cuộc đấu khẩu kịch liệt. James bị chính quyền Do-thái xử tử tại Jerusalem năm 62, sau đó nhóm Ki-tô Do-thái phải hoạt động trong bóng tối hoặc phải chạy phân tán ra nước ngoài.
2. Nhóm Ki-tô Ngộ Đạo (Gnosticism):
Đây là giáo phái Ki-tô xuất hiện tại Tiểu Á và Bắc Phi vào cuối thế kỷ 1, phát triển mạnh trong thế kỷ 2 sau Công nguyên. Năm 1947, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều tài liệu cổ ở vùng Biến Chết (The Dead Sea Scrolls), trong đó có nhiều cuộn sách bằng da lừa nói về giáo phái Ngộ Đạo. Giáo phái này chủ trương mọi người được cứu rỗi do sự hiểu biết những bí mật của đạo. Danh xưng của giáo phái do tiếng Hy-lạp Gnosis, có nghĩa là ‘hiểu biết sự bí mật”  (Gnosis = a secret knowledge). Họ giải thích trái cấm trong vườn Địa đàng chính là Trái của cây Hiểu Biết (The Tree of Knowledge). Con rắn quyến rũ Eva ăn trái cấm không phải là quỉ Sa-tăng mà là một đại ân nhân của loài người vì Con rắn là biểu tượng cho sự khôn ngoan. Con rắn muốn giúp loài người trở nên sáng suốt để tự giải thoát mọi đau khổ trầm luân trên cõi đời này bằng cách ăn trái của cây Hiểu Biết. Chính Thiên Chúa Jehovah trong Cựu Ước mới là ác quỉ vì nó ra lệnh cấm tổ tiên loài người không được ăn trái của Cây Hiểu Biết. Nó muốn dìm con cháu Adam – Evà phải chìm đắm trong sự u mê tăm tối để luôn luôn phải tôn thờ và tuân phục nó. Loài người phải đau khổ triền miên vì chưa thoát ra khỏi sự ức chế của Ác Chúa Jehovah!  Đưa ra lý luận trên, giáo phái Ki-tô Ngộ Đạo chủ trương Ki-tô giáo phải tách rời khỏi Do-thái giáo bằng cách hoàn toàn phủ nhận các Kinh Thánh Cựu Ước Do-thái. Họ thẳng thắn phê bình “Thiên Chúa” (Jehovah) của đạo Do-thái là quá thấp kém, thậm chí họ còn gọi Jehovah là thằng quỉ, chính vì thế những người Ki-tô giáo không thể tôn thờ nó.
3. Giáo phái Ki-tô Marcionism:
Vào năm 160, Marcion là một tín đồ Ki-tô rất trí thức và hùng biện thuyết giảng tại Rome ca ngợi Jesus là đấng Ki-tô (Chúa Cứu thế) nhưng đồng thời kịch liệt mạt sát Thiên Chúa của đạo Do-thái. Ông nói: “Thiên Chúa của Cựu Ước Do-thái thường gây những cuộc chiến tranh hoặc những cuộc tàn sát do sự tức giận nên không thể phù hợp với Đức Chúa Cha nhân lành của Jesus trong Tân Ước được”  (The old testament God who ordered battles and slaughter and was driven by anger, was incompatible with the merciful Father of Jesus Christ – Eerdmans Handbook of Christianity, page 101). Marcion ca ngợi Thiên Chúa trong Phúc âm Kitô giáo là Thiên Chúa của tình yêu. Tuy nhiên, Marcion cho rằng Jesus đã không được sinh ra bởi một người đàn bà nhưng đã bất thần xuất hiện tại Capermaum năm 29 sau Công nguyên với hình vóc của một người lớn, Marcion bác bỏ lý thuyết cho rằng xác của mọi người chết sẽ sống lại, bác bỏ hoàn toàn Cựu Ước Do-thái và phần lớn các sách Tân Ước, chỉ ngoại trừ Phúc âm của Luke và những bức thư của Phao-lồ mà thôi.
Giáo phái Ki-tô Marcionism truyền đạo khắp nước Ý trong thế kỷ 2. Tới thế kỷ 4, giáo phái này trở nên thịnh hành tại Trung Đông, Armenia và Ai-cập. Họ có nhà thờ riêng, có hệ thống tu sĩ riêng và có các nghi thức hành lễ riêng. Đến cuối thế kỷ 4, giáo phái này bị đế quốc La-mã tiêu diệt.
4. Giáo phái Ki-tô Hy-lạp:
Giáo phái này có rất nhiều “học giả” nổi tiếng, thông thạo triết học Hy-lạp và chịu ảnh hưởng sâu đậm triết học duy tâm của Plato và Socrates. Họ tin rằng Thiên Chúa của Plato chính là Thiên Chúa của Kinh Thánh và họ gọi Socrates là “tín đồ Ki-tô giáo trước Jesus” (sách đd, trang 110).
Các “học giả” này viết rất nhiều sách để hoàn thành một hệ thống giáo lý cho đạo Ki-tô. Họ chủ trương vẫn tôn trọng các sách Kinh Thánh Cựu Ước của đạo Do-thái, đồng thời dùng triết học và thần thoại Hy-lạp để biến Jesus thành Thiên Chúa. Họ đã thành công vì lý thuyết của họ về một “Thiên Chúa Ba ngôi” đã được Công đồng Nicea năm 325 chấp nhận và trở thành Kinh Tin Kính của Ki-tô giáo. Những học giả nổi tiếng nhất của giáo phái Ki-tô Hy-lạp gồn có bốn người sau đây:
a. Justin Martyr (100-165): Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa (Creator-God) theo đúng quan điểm của đạo Do-thái, nhưng Thiên Chúa cũng hóa thân thành người sống giữa trần gian (incarnation) bởi vì Thiên Chúa là Ngôi Lời (Logos-Word). Theo thần thuyết Hy-lạp thì Ngôi Lời là con của Thượng đế có thể biến thành xương thịt như con người (Word became flesh).
Các sách của Justin Martyr đều được viết bằng tiếng Hy-lạp vào khoảng giữa thế kỷ 2. Điều đặc biệt đáng nhớ là Justin đã sáng tác ra nghi lễ “Misa”. Khi các tu sĩ làm lễ này phải có bánh và rượu để tượng trưng cho thịt và máu của Jesus.
b. Giám mục Irenaeus: Giám mục Irenaeus là tác giả chống lại phe Ki-tô Ngộ Đạo (Gnostic) mạnh mẽ nhất và cũng là người tuyên truyền mạnh nhất cho thần thuyết Ngôi Lời (theory of the Logos) của Hy-lạp. Danh từ Logos được xử dụng đầu tiên bời một số triết gia theo chủ nghĩa Platonism (thuộc thế kỷ 3 trước CN.) để chỉ “Thượng đế hóa thân”. Các “học giả” Ki-tô theo học thuyết Plato (Christian Platonists) cố gắng gán ghép Jesus là Logos để tôn thờ, đồng thời dựa vào đó để lập ra thuyết “Thiên Chúa Ba ngôi”.
Irenaeus sinh trưởng tại Bắc Phi, lớn lên trở thành tu sĩ tại Pháp và được bầu chọn làm giám mục tại địa phận Lyon vào giữa thế kỷ 2. Năm 185, Iraneus xuất bản cuốn sách “Chống dị giáo” (Against the Heretics) kết tội hai giáo phái Ki-tô Gnosticism và Marcionism. Ông đưa ra một bản dự thảo “Đức tin của các Thánh Tông đồ” (The Apostle’s creed). Bản dự thảo này đã được Công đồng Nicea biểu quyết chấp thuận năm 325 và trở thành kinh “Tin Kính” của Ki-tô giáo.
c. Origen (185-254): Origen là người Hy-lạp sinh trưởng tại Ai-cập, du lịch rất nhiều nơi và viết nhiều sách để quảng bá tư tưởng của Plato (Platonic philosophical ideas). Ông viết sách “First principles” để nêu ra thuyết Thiên Chúa Ba ngôi, gồm có God (Thiên Chúa của Cựu Ước Do-thái). Christ/ Logos (tức Jesus, ngôi thứ hai) và Holy Spririt (Chúa Thánh thần). Origen là người đầu tiên hoàn thành “thần học Ki-tô theo triết học và thần học Hy-lạp” (Greek Christian Theology). Trong cuộc cấm đạo dưới triều hoàng đế La-mã Dicius, Origen bị chém đầu năm 254.
d. Tertullian: Ông sinh trưởng tại Bắc Phi, chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy-lạp nhưng lại là tác giả đầu tiên viết sách truyền đạo Ki-tô bằng tiếng La-tinh. Người ta không rõ ông đã sinh và mất năm nào, chỉ biết các sách của ông đã được viết trong thời gian từ 196 đến 212 sau Công nguyên. Ông viết nhiều sách nhằm đả phá các giáo phái Ki-tô đương thời (Against marcion, Against Praxie, Exclusion of Heretics...) và rất nhiều sách giảng thuyết về linh hồn, và phép rửa tội, nhất là về thần quyền “Ngôi Lời”. Ngôi lời là một danh từ khó hiểu, thực ra nó đơn giản chỉ là lời nói (word). Tất cả phát xuất từ thần thoại Hy-lạp cho rằng “Thượng đế đã tạo dựng vũ trụ bằng lời nói của Ngài” (God made this universe by His word). Tertullian tán thêm: “Lời nói phát sinh từ Thiên Chúa nên được gọi là Con của Thiên Chúa và cùng bản chất với Thiên Chúa. Cho nên Con của Thiên Chúa đã từ Thiên Chúa mà ra như tinh thần bởi tinh thần, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng” (This word was produced from God and therefore is called the Son of God from the unity of substance with God. For God is spririt, so from spirit comes spirit, God from God, as light is from light – Eermands Hanbook of Christianity, page 111-113).
Lời bàn “Mao Tôn Cương” nói trên của Tertullian không ngờ đã trở thành nòng cốt cho “thần học Ngôi Lời” của Ki-tô giáo trong 17 thế kỷ qua. Tại các nhà thờ Công giáo ngày nay các giáo dân luôn luôn đọc câu kinh trong các lễ Mi-sa để ca ngợi Jesus: “....Chúa được sinh ra mà không phải tạo thành, Chúa là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng...”
Tòa thánh thấy câu văn của Tertullian viết hay quá nên đã thưởng câu văn này biến nó thành câu kinh để giáo dân tin rằng Jesus cũng là Thiên Chúa như “ánh sáng bởi ánh sáng”, ngài là Ngôi Lời đã cùng với Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ này!
Đệ tử ruột của vua tán nhảm Tertullian là Đức ông Philippe Lê xuân Thượng, chánh xứ của họ đạo Việt Nam mang tên “Giáo xứ Đức Ki Tô Ngôi Lời Nhập Thể” (Christ the Incarnate Word Parish) – 8503 S.Kirwood Rd. Houston. Số phôn: (282) 495-8133. Còn  có website có tên: gx-ngoiloi.tripod.com. Đức ông Thượng đặt tên cho giáo xứ của ngài là “Đức Ki tô Ngôi Lời Nhập Thể”, vậy chắc ngài rất thông suốt về thần học Ngôi Lời. Tôi ghi địa chỉ của Đức ông như trên để quí độc giả có điều gì thắc mắc về thần thoại Ngôi Lời xin cứ việc liên lạc trực tiếp để được giải đáp thỏa đáng.
 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét