Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013
Thập Giá và Lưỡi Gươm của Đại đế Constantine
11:21
Hoàng Phong Nhã
No comments
Constantine sinh
năm 274 (?) tại Nish, nay là tiểu bang Serbia của Nam
Tư (Yougoslavia), qua đời tại Constantinople (nay là
Istambul của Thỗ nhĩ kỳ) vào năm 337. Mẹ
của Constantine là Helena,
sinh quán tại Anh quốc. Cha của Constantine
là Constantius Chlorus, một vị tướng của
đế quốc La mã đồn trú tại Anh. Cha của
Constantine
đã quen biết bà Helena
khi bà này còn là một cô gái hầu bàn tại quán rượu
ở Bithinia (Enc. Britanica Vol. VI, page 297). Bà Helena chỉ là
một trong những cô vợ bé của Constantius mà thôi. khi
Constantine
lên 7, 8 tuổi thì bà Helena
bị chồng ruồng bỏ. Bà rất đau buồn nên
đã tìm an ủi trong đạo Ki-tô, chẳng bao lâu sau bà
trở thành một tín đồ rất sùng đạo.
Không ai ngờ hành động theo đạo Ki-tô của bà
đã gây ảnh hưởng rất lớn đối
với Constantine. Sau này,
Constantine
đã biến Ki-tô giáo thành một lực lượng khuynh
đảo thế giới (world shaking power) lớn nhất
trong lịch sử loài người.
Trước thời đại của
Constantine,
người Ki-tô giáo dùng hình con cá làm biểu tượng.
Constantine
là người đầu tiên dùng thập giá làm huy hiệu
chính thức của quân đội La mã và cũng từ
đó thập giá trở thành huy hiệu cao quí nhất
của Ki-tô giáo. Đế quốc La mã và Ki-tô giáo cùng chung
một biểu tượng thập giá. Dưới bàn tay phù thủy của Constantine,
thập giá là một dụng cụ giết người
rất dã man và đáng ghê tởm nhất đã biến thành
“Thánh giá” thiêng liêng cao quí của đạo Ki-tô và của
cả đế quốc!
Có lẽ do
ảnh hưởng của mẹ, Constantine
nhận thấy những người Ki-tô giáo rất
cuồng tín. Constantine không
tin đạo nhưng chủ tâm xử dụng Ki-tô giáo làm
công cụ chính trị để thống nhất
đế quốc và sau đó có thể dùng tôn giáo
để chinh phục thế giới. Constantine
đã bộc lộ chủ trương này qua khẩu
hiệu “In Hoc Signo Vinces” (Dưới khẩu hiệu
Thập giá ta sẽ chiến thắng!”. Chủ
trương này còn bộc lộ rõ rệt hơn nữa khi
người kế nhiệm Constantine
đổi tên Ki-tô giáo thành “Công giáo” năm 340. Danh từ
“Công giáo” trong tiếng La tinh “Cattolica” có nghĩa là toàn
cầu (universal) ngụ ý đế quốc có thể bành
trướng thế lực ra khắp thế giới
dưới chiêu bài Ki-tô giáo!
Những hoàn
cảnh Lịch sử đã đưa Constantine lên ngôi Đại đế:
Đế quốc La mã bắt đầu
xuất hiện từ thế kỷ 6 trước Công
nguyên. Đến thời Deocletian, cuối thế kỷ
thứ 3 sau Công nguyên, đế quốc La mã bao trùm một
vùng lãnh thổ rộng lớn lên tới hai triệu
dặm vuông, trải dài từ Armenia (sát nước Nga)
đến Bắc Phi, từ Đại Tây dương
đến Biển Chết, từ Tô-cách-lan đến Ai-cập.
Năm 285, Deocletian lên ngôi hoàng đế La-mã
thấy lãnh thổ của mình quá lớn bèn chia đế
quốc thành bốn vùng, mỗi vùng do một thống
đốc (Tetrach/ Governor) cai trị. Bốn thống
đốc đó là Licinius, Maxentius, Galerius và Constantius Chlorus
(cha của Constantine). Vùng
lãnh thổ thuộc quyền Constantine
là Anh, Pháp, Tây-ban-nha và một phần đồng bằng
sông Rhin (Đức, Bỉ).
Năm 305, nhân dịp có vụ nổi
loạn ở Anh, Constantine
được cha trao trách nhiệm mang quân từ Pháp qua Anh
dẹp loạn. Đến tháng 7 năm 306, trong lúc Constantine
đang ở Anh thì được tin cha từ trần tại
Ý. Các quân sĩ dưới quyền tôn Constantine
lên ngôi hoàng đế (emperor).
Bắt
đầu từ đó (306) Constantine
lo củng cố quân lực để thống nhất
đế quốc. Sau 6 năm tuyển mộ quân lính,
phần đông là những tín đồ Ki-tô giáo, Constantine
thành lập đạo quân Thập Tự đầu tiên
với cờ hiệu là hình chữ Thập hoặc
viết hai chữ tắt Hy-lạp “XP” có nghĩa là Ki-tô.
Năm 312,
Constantine
kéo quân đến Rome,
giết chết đối thủ là Maxentius tại cầu
Milvian. Xác của Maxentius bị vứt xuống sông Tiber.
ngay khi tiến quân vào làm chủ thủ đô Rome,
Constantine công bố chủ
trương ưu đãi Ki-tô giáo. Vào tháng 2 năm 313,
Constantine đến Milan gặp đối thủ
(co-emperor) Lucinius và thuyết phục ông này cùng ký tên vào
văn kiện được gọi là “Đạo
luật Milan” (Edit of Milan) ban bố hủy bỏ lệnh
cấm đạo trên toàn đế quốc. Cả hai
vị hoàng đế cùng công bố như sau: “Chúng tôi cho
mọi người Ki-tô giáo có quyền lựa chọn các
nghi lễ thờ phượng mà họ muốn” (We might give all Christians fredom of
choice to follow the ritual which they wished –the Rise of Chistianity,
Greenhaven press 1999, page 22).
Sau
đạo luật Milan,
Constantine
ra lệnh hoàn trả Ki-tô giáo tất cả tài sản
đã bị các hoàng đế tiền nhiệm tịch thu.
Ngày
28-10 năm 312, Constantine công
bố Thập giá là biểu tượng chính thức
của Ki-tô giáo. Trước đó, các tín đồ
Ki-tô thường dùng hình vẽ con cá làm biểu
tượng vì chữ Hy-lạp ICHTBUS có nghĩa là Cá,
cụm từ EOU UIOS SOTER có nghĩa là Con của Chúa
Trời (Son of God). Ghép các chữ đầu lại với
nhau sẽ thành tên của Jesus theo tiếng Hy-lạp IESOUS
(Deceptions and Myth of the Bible, Lloyd M. Graham, page 326-327).
Năm 323,
một đối thủ của Constantine
là Galerius (co-emperor) bất thần bị bệnh chết và
không có thừa kế. Sân khấu chính trị của
đế quốc La-mã chỉ còn lại hai đấu
thủ là Constantine và
Licinius. Năm 324, Constantine
kéo đại quân tấn công Licinius tại Milan,
truy kích và tiêu diệt đối thủ tại hải
cảng Bosporus (Hy-lạp). Từ năm
324, Constantine tự xưng
là Đại đế (Constantine the Great) nắm trọn
quyền kiểm soát toàn thể lãnh thổ của
Đế quốc La-mã rộng lớn.
Với
chủ trương xử dụng Ki-tô giáo làm dụng
cụ toàn cầu, ngay sau khi nắm trọn quyền cai
trị đế quốc, Constantine
đã lo thực hiện việc đầu tiên là triệu
tập hội nghị các giám mục trong toàn thể
đế quốc họp tại Nicea (Hy-lạp) năm 325
để thống nhất các giáo phái Ki-tô. Sau Công đồng Nicea năm 325, Ki-tô giáo mới thành
hình là một tôn giáo thống nhất về giáo lý.
Trước đó thật sự chưa có đạo Ki-tô
theo đúng nghĩa như ta hiểu hiện nay. Để
đánh giá đúng mức công trình kiến tạo Ki-tô giáo
của Constantine, chúng ta
cần tìm hiểu cái gọi là “Ki-tô giáo nguyên thủy” (The
Early Christianity) tức Ki-tô giáo trong 3 thế kỷ
đầu Công nguyên, hoặc còn gọi là “Ki-tô giáo
trước Thời đại Constantine”
(The Pre-Constantine Christianity)
như thế nào?
Ki-tô giáo trước
Thời đại Constantine
Trong thời
gian Constantine tiến quân
vào Rome năm 312 thì thành
phố này có khoảng một triệu dân, nhưng không có
một giáo hội Ki-tô nào có thể hoạt động công
khai tại đây. Từ thời Néron (54-68) nhiều ngàn tín
đồ Ki-tô bị ném vào giáo đấu trường cho
thú dữ ăn thịt. Bạo Chúa Trajan (98-117) cấm
đạo ác liệt trong 19 năm. Tiếp theo là vụ
quân La-mã tàn phá Jerusalem giết hại 850.000 dân Do-thái trong các
năm 132-135 khiến cho giáo hội Ki-tô Do-thái do James (em
ruột của Jesus) lập
nên bị hoàn toàn tiêu diệt.
Năm 160 xảy ra biền cố quân Hung-nô
chống lại La-mã. Do đó, các hoàng đế La-mã đã
áp dụng chính sách cấm đạo gay gắt kéo dài trên
một thế kỷ. Tín đồ Ki-tô bị sát hại
hàng loạt, các nhà thờ bị đốt phá, các sách kinh
bị hủy diệt.
Khởi đầu là hoàng đế Marcus
Aurelius (161-180), hoàng đế Didius Julianus (193) Valerian
(253-260) và hoàng đế Diocletan (284-305).
Các tín đồ sùng đạo phải
đọc kinh hoặc hành lễ trong các hang hầm bí
mật. Giáo hội Ki-tô bị phân tán và rút vào bóng tối
như những hội kín (secret society). Ngày nay, Vatican thường liệt kê danh sách
các giáo hoàng liên tục hoạt động ở Rome từ thời Phêrô cho
đến thời Constantine là một điều hoàn toàn ngụy tạo.
Trước hết, trong vòng 3 thế kỷ đầu Công
nguyên, Ki-tô giáo chưa thành hình là một tôn giáo thống
nhất nên không thể có giáo hoàng đứng đầu
toàn giáo hội. Sau nữa, trải qua nhiều đợt
cấm đạo gay gắt liên miên trong gần 3 thế
kỷ, mọi hoạt động công khai của giáo
hội cũng như mọi cơ cấu tổ chức
rộng lớn đều không thể thực hiện và
không thể tồn tại ở Rome.
Trong tác
phẩm “A History of Christianity” do St. martin
press, N.Y. xuất bản, tác giả Owen Chadwick đã
viết: “Trong 3 thế kỷ đầu Công gnuyên, Ki-tô giáo
luôn luôn bị coi là bất hợp pháp trong toàn đế
quốc La-mã. Do đó, Ki-tô giáo không có giáo hội công khai mà
chỉ có “Hội kín của những tín đồ Ki-tô” mà
thôi (... Secret society of the Christians, sách đd., trang 34). Trong
thế kỷ đầu Công nguyên, tên gọi Ki-tô giáo
cũng chưa có, mọi người trong đế quốc La-mã gọi đạo
của Jesus là “Phong trào Jesus” (The Jesus’s movement).
Tác phẩm “Eermans Hanbook of Christianity” là công
trình nghiên cứ Ki-tô giáo của trên một trăm giáo
sư Sử học và tôn-giáo-học thuộc các
trường Đại học Bắc Mỹ, Âu châu, Úc châu
và Nhật Bản. sách dày trên 700 trang khổ lớn,
xuất bản lần đầu 1977, tái bản 1987
với 750.000 cuốn. Mười trang sách (96-105) của tác
phẩm giá trị này cho chúng ta thấy Ki-tô giáo trong 3
thế kỷ đầu Công nguyên chưa thành hình là một
tôn giáo thuần nhất. Có ít nhất 4 nhóm Ki-tô giáo
đưa ra những “giáo lý” khác nhau. Nhóm này viết sách
đã kích nhóm kia và kết án lẫn nhau là dị giáo
hoặc rối đạo (heretic).
1. Nhóm Ki-tô giáo Do-thái (Jewish Christianity):
Nhóm này thoát
thai từ giáo hội Ki-tô đầu tiên do em ruột
của Jesus là James thành lập tại Jerusalem.
Nhóm này tôn vinh Jesus là đấng Messiah (Ki-tô) và nhấn
mạnh đến sự sống lại của Jesus vì theo
truyền thuyết của Cựu ước Do-thái thì
đấng Messiah không bao giờ chết. Nếu không
đề cao “sự sống lại” của Jesus thì ông ta không
thể được coi là Chúa Cứu thế!
Nhóm Ki-tô Do-thái cố gắng tìm mọi cách
để chứng minh Jesus là đấng Messiah đã
được Cựu Ước tiên tri. Họ dùng
những hình ảnh quen thuộc của Cựu Ước
Do-thái để gọi Jesus. Chẳng hạn như Jesus là
“Con chiên hy sinh trong ngày Lễ Vượt Qua” (The Passover
Lamb), Jesus là “Adam thứ hai” (The Second Adam) ...
Điều này cũng dễ hiểu vì Ki-tô
giáo xuất thân từ Do-thái giáo và các tín đồ Ki-tô
đầu tiên cũng đều là những người
Do-thái. Chính vì thế mà dân Do-thái đã gọi những tín
đồ Ki-tô giáo đầu tiên là “những tín đồ
Do-thái biến thể’ (The Judaisers). Nhóm Ki-tô Do-thái đòi
hỏi mọi người ngoại giáo muốn theo
đạo Ki-tô phải chịu phép cắt bì (cắt da
đầu dương vật) và phải tuân hành mọi
luật lệ của đạo Do-thái (nghỉ việc
ngày Sabbath).
Trong lúc
đó, Phao-lồ đang giảng dạy đạo Ki-tô cho
các ‘dân ngoại’ tại Hy-lạp và Rome
với chủ trương “theo đạo qua đức
tin mà thôi” (Conversion through faith only). Nghe tin Phê-rô và James
thực hiện việc truyền đạo Ki-tô với
những điều kiện ràng buộc vào đạo
Do-thái, Phao-lồ lo sợ họ sẽ phá hỏng cuộc
truyền đạo nên vội đến Jerusalem can gián
Phê-rô và James, James biết phục thiện và nghe lời
Phao-lồ. Phê-rô bướng bỉnh cãi lại nên hai
người đã trải qua một cuộc đấu
khẩu kịch liệt. James bị chính quyền Do-thái
xử tử tại Jerusalem
năm 62, sau đó nhóm Ki-tô Do-thái phải hoạt
động trong bóng tối hoặc phải chạy phân tán
ra nước ngoài.
2. Nhóm Ki-tô Ngộ Đạo (Gnosticism):
Đây là giáo
phái Ki-tô xuất hiện tại Tiểu Á và Bắc Phi vào
cuối thế kỷ 1, phát triển mạnh trong thế
kỷ 2 sau Công nguyên. Năm 1947, các nhà khảo cổ đã
tìm thấy nhiều tài liệu cổ ở vùng Biến
Chết (The Dead Sea Scrolls), trong đó có nhiều cuộn sách
bằng da lừa nói về giáo phái Ngộ Đạo. Giáo
phái này chủ trương mọi người
được cứu rỗi do sự hiểu biết
những bí mật của đạo. Danh xưng của
giáo phái do tiếng Hy-lạp Gnosis, có nghĩa là ‘hiểu
biết sự bí mật”
(Gnosis = a secret knowledge). Họ giải thích trái cấm
trong vườn Địa đàng chính là Trái của cây
Hiểu Biết (The Tree of Knowledge). Con rắn quyến
rũ Eva ăn trái cấm không phải là quỉ Sa-tăng
mà là một đại ân nhân của loài người vì Con
rắn là biểu tượng cho sự khôn ngoan. Con rắn
muốn giúp loài người trở nên sáng suốt
để tự giải thoát mọi đau khổ trầm
luân trên cõi đời này bằng cách ăn trái của cây
Hiểu Biết. Chính Thiên Chúa Jehovah trong Cựu Ước
mới là ác quỉ vì nó ra lệnh cấm tổ tiên loài
người không được ăn trái của Cây
Hiểu Biết. Nó muốn dìm con cháu Adam – Evà phải chìm
đắm trong sự u mê tăm tối để luôn luôn
phải tôn thờ và tuân phục nó. Loài người
phải đau khổ triền miên vì chưa thoát ra khỏi
sự ức chế của Ác Chúa Jehovah! Đưa ra lý luận trên, giáo
phái Ki-tô Ngộ Đạo chủ trương Ki-tô giáo
phải tách rời khỏi Do-thái giáo bằng cách hoàn toàn
phủ nhận các Kinh Thánh Cựu Ước Do-thái. Họ
thẳng thắn phê bình “Thiên Chúa” (Jehovah) của đạo
Do-thái là quá thấp kém, thậm chí họ còn gọi Jehovah là
thằng quỉ, chính vì thế những người Ki-tô
giáo không thể tôn thờ nó.
3. Giáo phái Ki-tô Marcionism:
Vào năm
160, Marcion là một tín đồ Ki-tô rất trí thức và
hùng biện thuyết giảng tại Rome ca ngợi Jesus là
đấng Ki-tô (Chúa Cứu thế) nhưng đồng
thời kịch liệt mạt sát Thiên Chúa của đạo
Do-thái. Ông nói: “Thiên Chúa của Cựu Ước Do-thái
thường gây những cuộc chiến tranh hoặc
những cuộc tàn sát do sự tức giận nên không
thể phù hợp với Đức Chúa Cha nhân lành của
Jesus trong Tân Ước được” (The
old testament God who ordered battles and slaughter and was driven by anger,
was incompatible with the merciful Father of Jesus Christ – Eerdmans Handbook
of Christianity, page 101). Marcion ca ngợi Thiên Chúa trong Phúc âm
Kitô giáo là Thiên Chúa của tình yêu. Tuy nhiên, Marcion cho rằng
Jesus đã không được sinh ra bởi một
người đàn bà nhưng đã bất thần xuất
hiện tại Capermaum năm 29 sau Công nguyên với hình vóc
của một người lớn, Marcion bác bỏ lý
thuyết cho rằng xác của mọi người chết
sẽ sống lại, bác bỏ hoàn toàn Cựu Ước
Do-thái và phần lớn các sách Tân Ước, chỉ
ngoại trừ Phúc âm của Luke và những bức thư
của Phao-lồ mà thôi.
Giáo phái Ki-tô Marcionism truyền đạo
khắp nước Ý trong thế kỷ 2. Tới thế
kỷ 4, giáo phái này trở nên thịnh hành tại Trung
Đông, Armenia
và Ai-cập. Họ có nhà thờ riêng, có hệ thống tu
sĩ riêng và có các nghi thức hành lễ riêng. Đến
cuối thế kỷ 4, giáo phái này bị đế
quốc La-mã tiêu diệt.
4. Giáo phái Ki-tô Hy-lạp:
Giáo phái này có
rất nhiều “học giả” nổi tiếng, thông
thạo triết học Hy-lạp và chịu ảnh
hưởng sâu đậm triết học duy tâm của
Plato và Socrates. Họ tin rằng Thiên Chúa của Plato chính là
Thiên Chúa của Kinh Thánh và họ gọi Socrates là “tín
đồ Ki-tô giáo trước Jesus” (sách đd, trang 110).
Các “học giả” này viết rất
nhiều sách để hoàn thành một hệ thống giáo
lý cho đạo Ki-tô. Họ chủ
trương vẫn tôn trọng các sách Kinh Thánh Cựu
Ước của đạo Do-thái, đồng thời
dùng triết học và thần thoại Hy-lạp để
biến Jesus thành Thiên Chúa. Họ đã thành công vì lý
thuyết của họ về một “Thiên Chúa Ba ngôi” đã
được Công đồng Nicea năm 325 chấp
nhận và trở thành Kinh Tin Kính của Ki-tô giáo. Những
học giả nổi tiếng nhất của giáo phái Ki-tô
Hy-lạp gồn có bốn người sau đây:
a. Justin Martyr
(100-165): Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa (Creator-God) theo
đúng quan điểm của đạo Do-thái, nhưng
Thiên Chúa cũng hóa thân thành người sống giữa
trần gian (incarnation) bởi vì Thiên Chúa là Ngôi Lời (Logos-Word). Theo thần thuyết
Hy-lạp thì Ngôi Lời là con của Thượng
đế có thể biến thành xương thịt như
con người (Word became flesh).
Các sách của Justin Martyr đều
được viết bằng tiếng Hy-lạp vào
khoảng giữa thế kỷ 2. Điều đặc
biệt đáng nhớ là Justin
đã sáng tác ra nghi lễ “Misa”. Khi các tu sĩ làm lễ
này phải có bánh và rượu để tượng
trưng cho thịt và máu của Jesus.
b. Giám mục
Irenaeus: Giám mục Irenaeus là tác giả chống lại
phe Ki-tô Ngộ Đạo (Gnostic) mạnh mẽ nhất và
cũng là người tuyên truyền mạnh nhất cho
thần thuyết Ngôi Lời (theory of the Logos) của
Hy-lạp. Danh từ Logos được xử dụng
đầu tiên bời một số triết gia theo chủ
nghĩa Platonism (thuộc thế kỷ 3 trước CN.)
để chỉ “Thượng đế hóa thân”. Các
“học giả” Ki-tô theo học thuyết Plato (Christian
Platonists) cố gắng gán ghép Jesus là Logos để tôn
thờ, đồng thời dựa vào đó để
lập ra thuyết “Thiên Chúa Ba ngôi”.
Irenaeus sinh trưởng tại Bắc Phi,
lớn lên trở thành tu sĩ tại Pháp và được
bầu chọn làm giám mục tại địa phận Lyon
vào giữa thế kỷ 2. Năm 185, Iraneus xuất bản
cuốn sách “Chống dị giáo” (Against the Heretics) kết
tội hai giáo phái Ki-tô Gnosticism và Marcionism. Ông đưa ra
một bản dự thảo “Đức tin của các Thánh
Tông đồ” (The Apostle’s creed). Bản dự thảo này
đã được Công đồng Nicea biểu quyết
chấp thuận năm 325 và trở thành kinh “Tin Kính”
của Ki-tô giáo.
c. Origen (185-254):
Origen là người Hy-lạp sinh trưởng tại
Ai-cập, du lịch rất nhiều nơi và viết
nhiều sách để quảng bá tư tưởng
của Plato (Platonic philosophical ideas). Ông viết sách “First
principles” để nêu ra thuyết Thiên Chúa Ba ngôi, gồm có
God (Thiên Chúa của Cựu Ước Do-thái). Christ/ Logos
(tức Jesus, ngôi thứ hai) và Holy Spririt (Chúa Thánh thần).
Origen là người đầu tiên hoàn thành “thần học
Ki-tô theo triết học và thần học Hy-lạp” (Greek
Christian Theology). Trong cuộc cấm đạo dưới
triều hoàng đế La-mã Dicius, Origen bị chém
đầu năm 254.
d. Tertullian: Ông
sinh trưởng tại Bắc Phi, chịu ảnh
hưởng của văn hóa Hy-lạp nhưng lại là
tác giả đầu tiên viết sách truyền đạo
Ki-tô bằng tiếng La-tinh. Người ta không rõ ông đã
sinh và mất năm nào, chỉ biết các sách của ông
đã được viết trong thời gian từ 196
đến 212 sau Công nguyên. Ông viết nhiều sách nhằm
đả phá các giáo phái Ki-tô đương thời (Against
marcion, Against Praxie, Exclusion of Heretics...) và rất nhiều
sách giảng thuyết về linh hồn, và phép rửa
tội, nhất là về thần quyền “Ngôi Lời”. Ngôi
lời là một danh từ khó hiểu, thực ra nó
đơn giản chỉ là lời nói (word). Tất cả
phát xuất từ thần thoại Hy-lạp cho rằng
“Thượng đế đã tạo dựng vũ trụ
bằng lời nói của Ngài” (God
made this universe by His word). Tertullian tán thêm: “Lời nói phát
sinh từ Thiên Chúa nên được gọi là Con của
Thiên Chúa và cùng bản chất với Thiên Chúa. Cho nên Con
của Thiên Chúa đã từ Thiên Chúa mà ra như tinh thần
bởi tinh thần, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi
ánh sáng” (This word was produced from
God and therefore is called the Son of God from the unity of substance with
God. For God is spririt, so from spirit comes spirit, God from God, as light is
from light – Eermands Hanbook of Christianity, page 111-113).
Lời bàn
“Mao Tôn Cương” nói trên của Tertullian không ngờ đã
trở thành nòng cốt cho “thần
học Ngôi Lời” của Ki-tô giáo trong 17 thế kỷ
qua. Tại các nhà thờ Công giáo ngày nay các giáo dân luôn luôn
đọc câu kinh trong các lễ Mi-sa để ca ngợi
Jesus: “....Chúa được sinh ra mà không phải tạo
thành, Chúa là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng...”
Tòa thánh
thấy câu văn của Tertullian viết hay quá nên đã
thưởng câu văn này biến nó thành câu kinh để
giáo dân tin rằng Jesus cũng là Thiên Chúa như “ánh sáng
bởi ánh sáng”, ngài là Ngôi Lời đã cùng với Thiên Chúa
tạo dựng nên vũ trụ này!
Đệ tử ruột của vua tán
nhảm Tertullian là Đức ông Philippe Lê xuân Thượng,
chánh xứ của họ đạo Việt Nam
mang tên “Giáo xứ Đức Ki Tô Ngôi Lời Nhập
Thể” (Christ the Incarnate Word Parish) – 8503
S.Kirwood Rd. Houston.
Số phôn: (282) 495-8133. Còn có
website có tên: gx-ngoiloi.tripod.com. Đức ông Thượng
đặt tên cho giáo xứ của ngài là “Đức Ki tô
Ngôi Lời Nhập Thể”, vậy chắc ngài rất thông
suốt về thần học Ngôi Lời. Tôi ghi địa
chỉ của Đức ông như trên để quí
độc giả có điều gì thắc mắc về
thần thoại Ngôi Lời xin cứ việc liên lạc
trực tiếp để được giải đáp
thỏa đáng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét