Một
người già, một phật tử đã quy y hiện đang bị bệnh điều trị trong bệnh
viện đã trả lời phỏng vấn nhà báo Minh Võ về nhiều tình tiết bí mật gai
góc của lịch sử Việt Nam cận đại. Với tất cả sự hiểu biết của tôi về
quê hương, về dòng họ Cao Xuân ở Phủ Diễn - Nghệ An và những gì tôi đọc
được, thì thấy rằng cuộc phỏng vấn này thật súc tích, cụ thể và trung
thực. Những câu hỏi và trả lời đầy trách nhiệm với lịch sử. Những ai
quan tâm đến Việt Minh, cộng sản, về chế độ Việt Nam Cộng hòa, đặc biệt
là về hai anh em: Tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu có thể
đọc kỹ cuộc phỏng vấn sau đây để tham khảo.
Ông Cao
Xuân Vỹ, sau ba lần vào cấp cứu và điều trị tại bệnh viện, đã vui lòng dành cho
chúng tôi một cuộc phỏng vấn để cống hiến bạn đọc một số hồi ức và kỷ niệm của
ông trong thời gian đi theo Việt Minh kháng chiến rồi về hợp tác với chính phủ
Ngô Đình Diệm với tư cách là người phụ tá thân cận của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ
và là cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
1. Hỏi: Thưa ông, nghe nói ông cùng quê
Nghệ An với ông Hồ Chí Minh?
Đáp: Phải.
Tôi người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu ở về phía biển, còn ông Hồ ở xã Kim Liên
huyện Nam Đàn về phía núi.
2. Hỏi: Ông có thể cho biết gia đình ông có liên hệ gì với gia đình ông Hồ
không?
Đáp: Tôi
được biết ông cố tôi là cụ Cao Xuân Dục, thượng thư bộ học thuộc triều đình Huế
có giúp đỡ thân phụ ông Hồ là Nguyễn Sinh Sắc về tài chính và khuyến khích,
giúp đỡ ông ấy nhiều trong việc học hành để có thể đi thi và đậu phó bảng. Một
phần vì ông Nguyễn Sinh Sắc là bạn học với ông nội tôi là Cao Xuân Tiếu. Đây là
hình căn nhà ông nội tôi cho ông cử Sắc. (Ông Vỹ đưa xem hình căn nhà.)
3. Hỏi: Có tài liệu của phía Cộng Sản,
như của Sơn Tùng và Nguyễn Đắc Xuân nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi
hỏng khoa Ất Mùi, (năm 1895), ông Cao Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn Sinh Sắc
được vào Huế, để có phương tiện và đủ sách vở hầu tiếp tục việc học và có thể
thành đạt. Điều này có đúng không?
Đáp: Đúng. Ông cố tôi còn can thiệp để cho ông Nguyễn Sinh Sắc, dù không phải
là con quan cũng được vào học ở Quốc Tử Giám. Đến khoa thi năm Tân Sửu (1901)
chánh chủ khảo Cao Xuân Dục thấy khóa sinh Sắc không trúng tuyển đã cho lệnh
xét lại bài thi của 4 thí sinh để rồi xin vua Thành Thái cho ông ta đậu phó
bảng. Khóa ấy có 9 tiến sĩ, 13 phó bảng. Ông Sắc đậu phó bảng thứ 11.
4. Hỏi: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt
động của Cộng sản ở quê nhà và có chứng kiến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản
thường được gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không?
Đáp: Có.
Phong trào này mạnh nhất ở hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương. Nhiều người bị
chết oan. Cộng Sản đã giết hai tri phủ. Vì thế phản ứng của chính quyền bảo hộ
cũng rất quyết liệt. Pháp đem bom thả cũng giết nhiều người, trong số ấy có cả
Cộng Sản lẫn thường dân. Cha tôi có kể lại rằng để đối phó với phong trào này,
ông Nguyễn Hữu Bài, thượng thư bộ Lại của Triều Đình Huế, (tương đương với chức
thủ tướng thời nay), đã cho áp dụng một kế hoạch chiêu dụ Cộng Sản khá thành
công. Lúc ấy ông cố tôi cùng ở trong nội các Nguyễn Hữu Bài.
5. Hỏi: Khi Việt Minh cướp chính quyền
ông ở đâu? và có ủng hộ họ không?
Đáp: Lúc
ấy tôi đang học ở Hà Nội. Tôi nhớ là mấy tháng trước khi Việt Minh cướp chính
quyền, thanh niên sinh viên Hà Nội chúng tôi rất hăng hái ủng hộ chính phủ Trần
Trọng Kim, vì là chính phủ của Việt Nam độc lập đầu tiên, dù phải nhờ có người
Nhật lật đổ người Pháp. Nhưng chúng tôi rất phấn khởi và đã ủng hộ hết mình.
Tiếc rằng bỗng nhiên chính phủ này từ chức ngày 7 tháng 8 (1945). Thật khó
hiểu. Tuy từ chức nhưng chính phủ Trần Trọng Kim vẫn xử lý theo lệnh nhà vua.
Khi mà Việt Minh tới trám vào chỗ trống chính trị này thì chúng tôi đã đi theo
Việt Minh. Chúng tôi không biết Việt Minh là Cộng Sản. Thực ra lúc ấy chả mấy
người biết Việt Minh là Cộng Sản.
6. Hỏi: Ông có gặp ông Hồ bao giờ không?
Đáp: Có.
Hồi ấy tôi ở trong phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu. Chúng tôi được
hai ông Hoàng Minh Giám và Phan Mỹ giới thiệu để gặp ông Hồ ở Bắc Bộ Phủ. Lúc
ấy ông ấy có cái vẻ bề ngoài rất ân cần và dễ mến. Về sau tôi mới hiểu tại sao
ông ấy đã chiêu dụ được nhiều người đi theo ủng hộ Việt Minh. Cho đến giờ này
tôi vẫn nghĩ ông ta thật là thông minh và xảo quyệt. Lại được tay Võ Nguyên
Giáp cũng rất thông minh trợ tá đắc lực. Tôi học với Võ Nguyễn Giáp 4 năm, Tôi
biết ông ta rất rõ. Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã tỏ ra sắc sảo và
quả đoán… Rất “độc tài”. Nhưng dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với
Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu.
7. Hỏi: Rồi tại sao ông lại bỏ Việt Minh?
Đáp: Vì
chúng tôi kết án ông Hồ đã ký thỏa ước mồng 6 tháng 3, nhượng bộ Pháp quá
nhiều. Hơn nữa họ đã hãm hại nhiều người yêu nước bất đồng chính kiến. Chúng
tôi chạy sang phía Việt Cách của các ông Nguyễn Hải Thần và Nghiêm Kế Tổ…
8. Hỏi:
Khi nào thì các ông rời Hà Nội?
Đáp: Liền
khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19-12-46. Lúc ấy ông Hồ và
đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến. Thì chúng tôi gồm 36 nhà
trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, gồm Thanh Nghê
Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi Cộng Sản
chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu
Tư lúc ấy như là một khu tự trị.
9. Hỏi:
Ông có thể cho biết tên một số trong 36 nhà trí thức mà ông bảo đã rời Hà Nội
vào Liên Khu Tư sau kháng chiến bùng nổ không?
Đáp: Tôi
còn nhớ chẳng hạn có Luật Sư Trần Chánh Thành, các ông Trần Hữu Dương, Hồ Đắc
Điềm, Phạm Thành Vinh, sau này trở thành rể của ông Hồ Đắc Điềm, ông Nguyễn Duy
Quang, người của ông Bảo Đại, ông Phan Huy Xương, anh của bác sĩ Phan Huy Đán
tức Phan Quang Đán, ông Tôn Thất Trạch v.v… Các ông này về sau đã hợp tác với
thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ông Trần Chánh Thành từng là bộ trưởng phủ thủ tướng,
với ông Tôn Thất Trạch là đổng lý văn phòng. Ngoài ra, về phía thường dân tôi
nhớ còn có bà Hòa Tường là một thương gia giầu có ở phố Hàng Đào cũng đi theo.Tôi
xin nói thêm ông biết điều này, là những vị này và tôi hồi đầu theo Việt Minh.
Nhưng tất cả đều không phải Cộng Sản. Và ngay từ 1930 thì đã có hai phe cùng
chống Pháp một bên là Đảng Cộng Sản, lúc ấy chưa có Việt Minh. Một bên là các
nhân vật và tổ chức quốc gia phi Cộng Sản trong đó ngoài những người như ông
Ngô Đình Diệm đã bắt đầu hoạt động từ đó, còn có các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân
Đảng, mà đảng trưởng là Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí đã bị Pháp xử bắn.
10. Hỏi:
Khi nào ông rời Liên Khu Tư vào Sài Gòn và gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Chúng
tôi rời Liên Khu Tư ra Hà Nội. Chứ chưa vào Sài Gòn. Lúc ấy là vào khoảng đầu
năm 1953. Ông Hồ Chí Minh theo lệnh Stalin và Mao Trạch Đông khỉ sự chuẩn bị mở
chiến dịch Giảm Tô và cải cách ruộng đất. Có người thân trong Việt Minh cho
chúng tôi biết. Nên tìm đường chạy trước. Về sau trong họ tôi có nhiều người có
chút tư điền bị đem ra đấu tố. Chị ruột tôi cũng bị giết. Tôi “dinh Tề” qua ngả
Phúc Nhạc, Phát Diệm là khu an toàn tự trị dưới quyền trông coi của giám mục Lê
Hữu Từ. Khó khăn lắm mới tới được Hà Nội. Hà Nội lúc ấy đang sống an bình dưới
chính quyền Bảo Đại. Tôi đi thoát được là nhờ có người chú họ ở trong tổ chức
Việt Minh cấp cho một giấy thông hành. Ở Hà Nội tôi gặp lại các ông Đặng Văn
Sung, Phan Huy Quát từng hoạt động chung với chúng tôi thời 1945.
Trong thời gian còn ở Liên Khu Tư chúng tôi nghe biết cán bộ Cộng Sản trong tổ
chức Việt Minh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cán bộ Trung Cộng. Sau khi Mao Trạch
Đông chiếm trọn lục địa vào cuối năm 1949, ông ta đã bắt Hồ Chí Minh gửi một số
lớn cán bộ Việt Cộng sang Tầu để tẩy não, cải tạo tư tưởng, bắt học tập chủ
nghĩa Mao-ít. Vì cái chủ nghĩa này mà các chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng
đất đã đẫm máu với những vụ con tố cha, vợ tố chồng và nông dân tàn sát lẫn
nhau thật rùng rợn. Làng tôi có ông hàn Lương biết mình sắp bị đưa ra đấu tố đã
nhảy xuống giếng tự tử, vậy mà đội cải cách đã lôi xác ông lên để đấu cái thây
ma. Chúng đánh nát bấy cái thây ấy. Tôi mong có người thâu thập những tin tức
khắp nước về cuộc Cải Cách Ruộng Đất thời gian đó để cho mọi người biết Cộng
Sản dã man chừng nào.
11. Hỏi: Khi nào thì ông gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Cuối
năm 1953. Tôi vào Sài Gòn thì gặp lại ông Trần Chánh Thành. Ông Thành giới
thiệu tôi với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần
lớn trong số 36 nhà trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng
bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại tôi thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã
Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du…
12. Hỏi: Theo chỗ chúng tôi biết thì ông
Ngô Đình Nhu từng có 5 nhiệm vụ quan trọng: một là dân biểu Quốc Hội, hai
là Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống, ba là thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, bốn là
Tổng Bí Thư đảng Cần Lao Nhân Vị, và sau hết vào năm cuối cùng ông còn là chủ
tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược. Vậy ông ấy có một lực lượng nhân sự nào
đáng kể để giúp thi hành chừng ấy nhiệm vụ không? Ví dụ ông ấy có mấy văn
phòng? Có bao nhiêu nhân viên được ăn lương?
Đáp: Ông
ấy chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi
là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên,
hầu hết tự túc. Không có ngân khoản nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải nói thực
khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay
quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách
là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy
thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức.
Còn về thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông chỉ thị cho chúng tôi, phải tự
túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên
cũng chẳng có quyền lợi gì.
Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc
Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn,
hay vấn đề “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v.. thì ông
mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Tôi thật
phục sức làm việc của ông Nhu.
13. Hỏi: Thế còn chức chủ tịch ủy ban
liên bộ về Ấp Chiến Lược thì sao? Có văn thư nào quy định không?
Đáp: Chức
này thì có. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ,
để việc ông chủ tọa các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận.
Ông Nhu quan niệm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và
chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược để đối phó với sự xâm nhập và
khủng bố của Cộng Sản mà thôi. Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân
quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và
tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không
bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang.
Ông để rất
nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành
cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa
những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình
dân dễ hiểu. Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy
đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con
người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người
thành những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu Cộng Sản.
Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng.
Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì
việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lược được an toàn trước sự phá
hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì Cộng
Sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất.
14. Hỏi: Về đảng Cần Lao Nhân Vị, nó thành hình ra
sao, và ai là những đồng chí cốt cán nhất của ông Nhu?
Đáp: Hai
người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc
Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Nhưng ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà
gọi là đảng Công Nông. Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của
Cộng Sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới
thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh
nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông
Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh
Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có
người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale. Ông
Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như
Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là
cố tình xuyên tạc để hạ uy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm
mà anh em ông Diệm rất quý trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống
Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký.
Văn phòng
Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến,
kiêm nhiệm.
15. Hỏi: Ông Ngô Đình Diệm có giữ vai trò gì trong
đảng Cần Lao không?
Đáp:
Không. Ông ấy hoàn toàn ở ngoài và trên đảng Cần Lao. Với ông Diệm chỉ có Tổ
Quốc và Quốc Dân. Tôi còn nhớ khoảng năm 1956, Tổng Thống gọi tôi vào bảo tôi
lên cao nguyên đèo heo hút gió để quan sát nghiên cứu tìm ra những địa điểm
thích hợp để lập các khu dinh điền, hòng đưa người kinh lên trấn giữ địa điểm
mà ông bảo là vô cùng quan trọng về mặt chiến lước. Tôi thấy mình đi thì ông
Nhu thiếu một trợ lý. Lại cũng hơi ngán cảnh cô đơn ở nơi xa lạ. Tôi bèn thưa
với Tổng Thống: Công tác đoàn thể của ông Cố Vấn đang thiếu người. Tổng Thống
nói: Đoàn thể gì. Dẹp. Tuy nhiên rồi ông cũng đấu dịu. Cứ đi đi. Thỉnh thoảng
tôi sẽ lên với anh… Cũng cần thêm rằng ông Diệm rất quan tâm đến vùng cao
nguyên. Ông thường nói: giữ được cao nguyên thì giữ được miền Nam. Và ông tìm
cách đưa nhiều cán bộ và những người dân có kinh nghiệm với Cộng Sản lên đó lập
nghiệp.
16. Hỏi: Ông nghĩ gì về việc chính phủ
Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý truất phế ông Bảo Đại?
Đáp: Nhiều
người chê ông Diệm, là nhà Nho mà bất trung, không giữ lời thề trung thành với
cựu hoàng. Nhưng tôi thấy không đúng. Trước hết chính cựu hoàng bảo ông Diệm
chỉ thề trước Thánh Giá trung thành với Tổ Quốc. Thứ nữa, khi cựu hoàng triệu ông
sang Pháp, ông Diệm đã sẵn sàng lên đường, dù biết sang đó sẽ mất chức thủ
tướng.
Nhưng chính nhóm liên khu Tư chúng tôi đã thuyết phục ông, gần như làm áp lực
với ông, để ông bỏ ý định sang Cannes . Chúng tôi xúm vào yêu cầu ông ở lại lấy
cớ tình hình không cho phép vắng mặt. Chúng tôi phải nói với thủ tướng rằng nếu
Cụ bỏ chúng tôi lại mà đi một mình thì sinh mệnh chúng tôi ai sẽ lo? Chúng tôi
đã bỏ tất cả vào đây là vì cụ, vì tin cụ sẽ bảo vệ phần đất tự do còn lại này,
bảo vệ chúng tôi. Nay cụ nỡ lòng nào bỏ chúng tôi, bỏ đất nước này cho Thực
dân, Cộng Sản? Rồi nhiều đoàn thể họp nhau lại đặt ông Diệm trước sự việc đã
rồi là tự ý hạ bệ ông Bảo Đại. Cuộc trưng cầu dân ý của chính phủ Ngô Đình Diệm
tổ chức sau đó chỉ là để hợp pháp hóa hành động của chúng tôi.
17. Hỏi: Có sử gia Mỹ bảo ngày 22 tháng 8 năm 1963,
Thanh Niên Cộng Hòa đã tấn công chùa Xá Lợi cùng với Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc
Biệt. Điều này có đúng không?
Đáp: Hoàn
toàn bịa đặt. Tổ chức này không phải để dùng vào những việc như vậy. Nó là tổ
chức phi vũ trang mà.
18. Hỏi: Sử gia Mark Mayor viết trong tác phẩm
Triumph Forsaken rằng gần ngày đảo chính, tỉnh trưởng Định Tường báo cáo
với ông Nhu rằng đại tá Có là phụ tá của tướng Đính rủ ông ta làm đảo chính.
Ông Nhu hỏi lại tướng Đính, thì tướng Đính xin đi chém đầu Có. Ông có biết vụ
này không?
Đáp: Không
cần tỉnh trưởng Định Tường báo cáo thì ông Nhu đã biết rồi. Nhưng ông muốn cứ
để vậy để theo dõi.
19. Hỏi: Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm
Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không?
Đáp: Lúc
ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một vùng do
Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông
Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm
Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những
gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng
đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía
họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình Ấp Chiến Lược. Họ
yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm gì? Ông Nhu trả lời:
đó chỉ là một chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của
người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo
cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ
các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp…
Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6
giai đoạn:
- Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao
đổi thư tín tự do.
- Rồi cho dân qua lại tự do
- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư
sang bên kia nếu muốn
- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá
của miền Bắc chẳng hạn.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp
thương.
- Và sau cùng là tổng tuyển cử.
Có lần ông
Nhu tính với chúng tôi: Ông dự đoán rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi định cư,
thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ của miền
Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người dân sẽ dần dần vào định cư ở miền Nam.
Vì vậy “mình” phải chuẩn bị đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số miền
Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3
triệu dân Bắc vào định cư ở miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự
do, với sự giám sát của Quốc Tế thì chắc mình sẽ thắng.
20. Hỏi: Lần ông tháp tùng ông Nhu đi dự lễ đăng
quang của quốc vương Ma-rốc năm 1962, ông có cho biết là sau đó các ông
đến Paris gặp ông Pinay, đại diện Tổng Thống Charles De Gaulle, bàn chuyện hiệp
thương với ông Hồ. Lúc ấy có mặt giáo sư Bửu Hội không?
Đáp: Dĩ
nhiên là có. Vì Giáo sư Bửu Hội là đại sứ của VNCH ở Ma-rốc, và là bạn học với
ông Nhu ở bên Pháp. Ông Bửu Hội lại từng là cố vấn cho Hồ Chí Minh. Nên trong
việc này, có thể nói vai trò của ông Bửu Hội cũng quan trọng không kém ông Nhu.
Ông Nhu và chúng tôi ở khách sạn Grillon cả tháng. Cuộc tiếp xúc xảy ra nhiều
lần mà hầu như lần nào cũng có sự hiện diện của giáo sư Bửu Hội. Ông Nhu cho
biết lúc ấy ông Hồ Chí Minh đã nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle
giúp. Ông Hồ biết là ông De Gaulle đang có chủ trương trung lập Đông Dương, lại
hận Mỹ đã “hất cẳng” Pháp. Ông Hồ nhờ Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle can
thiệp để tiếp xúc với Sài Gòn. Tổng Thống Pháp rất sốt sắng trong việc này. Sau
chuyến đi này ít tháng thì xảy ra vụ ông Nhu “đi săn cọp” ở Tánh Linh.
21. Hỏi: Gần ngày đảo chính đại sứ Cabot
Lodge có điện đàm với Tổng Thống Diệm. Lúc đó ông có ở bên cạnh Tổng Thống
không?
Đáp:
Không.
22. Hỏi: Trong cuốn Nhớ Lại Những Ngày ở
Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cựu đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết rằng ông ta
xin phép Tổng Thống đem xe tăng thiết giáp lên bộ tổng Tham Mưu để bắt các
tướng và dẹp đảo chính. Nhưng Tổng Thống không cho. Ông có biết chuyện này
không?
Đáp: Lúc
ấy tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Chính tôi nghe
điện thoại của ông Duệ và trình lên Tổng Thống.
Tổng Thống la tôi: Các anh muốn gì? Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao? Dân
Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Đem quân đội chống quân đội là cách bảo vệ
tổ quốc hả?
Tôi thưa: Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng Thống. Chẳng
lẽ để phải chết sao?
Ông quát lên: Chết thì đã sao.
Đúng, đối với ông chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết của ông
là cái chết dần của miền Nam. Ông còn nói quân đội là để bảo vệ tổ quốc chứ
không phải để bảo vệ cá nhân Tổng Thống.
Ông bảo tôi liên lạc với ông Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc Hội yêu cầu cho
triệu tập Quốc Hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu.
Nhưng tôi gọi ông Lễ 4 lần không được.Lúc ấy không phải chỉ có Lữ Đoàn xin lên
tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính. Mà còn có cả một đại đội biệt kích
thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đi hành quân ở Tây Ninh vừa về đến Sài Gòn cũng báo
cáo là lực lượng phòng vệ của các tướng đảo chính ở Tổng Tham Mưu rất yếu, đại
đội biệt kích xin phối hợp với 2 tiểu đoàn của Lữ Đoàn Phòng Vệ phủ Tổng Thống
để đột kích vào bắt hết các tướng đảo chính. Tướng Nguyễn Văn Phú, lúc ấy còn
là Thiếu Tá đã tiếp xúc với tôi về việc này. Nhưng như vừa nói. Tổng Thống
không chấp thuận.
Viên đại úy đại đội trưởng Biệt Kích đề nghị cho lực lượng của Lữ Đoàn Phòng Vệ
Phủ Tổng Thống có xe bọc thép dẫn đầu tiến tới bao vây bộ Tổng Tham Mưu, còn
đại đội của anh ta sẽ đột kích bọc hậu từ phía sân vận động vào bắt sống các
tướng. Tôi rất buồn bực và lấy làm khó hiểu tại sao ông cụ lại không cho đánh.
Ông Nhu ngồi cạnh đó cũng chẳng nói gì.
23. Hỏi:
Theo ông trong số các tướng lãnh lúc ấy ai có khả năng nhất?
Đáp: Tôi
hầu như không tiếp xúc với các tướng. Ngay cả Phó Tổng Thống cũng vậy. Hầu như
chẳng bao giờ gặp. Nhưng tôi có nghe ông Nhu nói ông Nguyễn Văn Thiệu, lúc ấy
mang lon đại tá, là một tư lệnh (sư đoàn 5) giỏi nhất. Ông Nhu có nhận xét đó
sau khi nghe ông Thiệu thuyết trình ở hội trường Suối Lồ Ồ.
Còn các tướng thì rất sợ Tổng Thống Diệm mỗi khi phải thuyết trình cho ông về
tình hình an ninh. Bởi vì ông nắm vững tình hình và nhất là địa hình địa vật…
địa lý của từng vùng. Kiến thức về quân sự của ông cũng rất uyên bác. Tôi được
biết, khi mới về nước làm thủ tướng, ông đã yêu cầu tổng lãnh sự ở Hồng Kông
mua cho ông tất cả tác phẩm của Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài
để đọc và bắt ông Nhu phân tích nghiên cứu trình lên.
24. Hỏi: Nghe nói ông bà Nhu có một biệt thự đẹp lắm
ở Đà Lạt. Ông có tới đó bao giờ không?
Đáp: Ông
nói đến cái biệt thự này, tôi lại nhớ tới cái ông luật sư Trương Phú Thứ ở
Seattle . Ông ấy muốn tìm cách phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu mà không sao được.
Chẳng rõ tại sao ông ta biết nhà tôi, tìm đến xin tôi giới thiệu với bà Nhu.
Tôi biết đã từ lâu bà ấy ẩn dật không muốn báo chí nhắc tới. Nhưng tôi biết bà
ấy hãy còn quyến luyến ngôi nhà hai phòng ngủ của một người Pháp, bỏ hoang đã
lâu mà anh em chúng tôi hùn tiền mua cho ông bà ấy vào khoảng năm 1960, mà
không đủ tiền sửa chữa, cho nên đến khi ông Nhu bị sát hại và bà Nhu sống lưu
vong, cũng mới chỉ sửa được phần nửa.
Tôi bảo ông Thứ hãy về Việt Nam, lên Đà Lạt chụp ảnh ngôi nhà ấy rồi mang theo sang
Pháp, tìm cách đưa tấm hình đó tận tay bà Nhu thì may ra bà ấy cho gặp. Thì quả
thật chắc ông đã biết, ông Thứ đã viết một bài cho tờ Văn Nghệ Tiền Phong nói
về bà Nhu ở tuổi gần bát tuần sống như một nhà tu ở Paris. Tôi mong ông Thứ có
dịp phổ biến tấm hình này để độc giả thấy cái “ngôi biệt thự xinh đẹp” của ông
bà Nhu.
25. Hỏi: Thống tướng Maxwell Taylor, Đại sứ
Frederick Nolting và nữ ký giả Marguerite Higgins đều nói được Tổng Thống Diệm
tiếp hơn kém khoảng 5 giờ đồng hồ. Ông có biết điều đó và có ý kiến gì
không?Đáp: Lúc ấy nhiều người nói tổng thống tiếp khách lâu quá. Tôi có trình
ông, bảo người ta phê bình tổng thống độc thoại!
Ông cười. Ông bảo: Người Mỹ họ ít hiểu về dân tôc mình về lịch sử của nước
mình. Mình phải lợi dụng lúc họ chịu nghe để nói cho họ hiểu chứ. Mấy người này
đều chăm chú nghe tôi và đặt nhiều câu hỏi. tôi phải trả lời cho họ chứ.
26. Hỏi: Gần ngày đảo chính Tổng Thống có mời ông bà
Đại Sứ Mỹ lên Đà Lạt nghỉ tại biệt điện của Tổng Thống và dự dạ tiệc thân mật.
Ông có biết họ thảo luận về việc gì không?
Đáp: Tôi
có biết và nhớ là Tổng Thống đề nghị chính phủ Mỹ thông cảm những khó khăn của
miền Nam và đừng ép ông phải cải cách gấp rút. Ông cũng hứa sẽ xem xét những đề
nghị của chính phủ Mỹ một cách nghiêm chỉnh. Nhưng cần phải có thời gian. Phía
ông Lodge thì nằng nặc đòi Tổng Thống phải đưa ngay ông Nhu ra ngoại quốc.
Nhưng dĩ nhiên không bao giờ Tổng Thống nhượng bộ điều này được.
27. Hỏi:
Xin ông tha lỗi, ông là Phật tử chứ ạ? Và trong vụ Phật Giáo có ai nhờ ông làm
trung gian để thương lượng giàn xếp giữa chính quyền và bên Phật Giáo đấu tranh
không?
Đáp: Phải,
tôi là Phật tử đã quy y… – Ông vào phòng lấy ra một cuộn giấy mở cho tôi thấy
tờ PHÁI QUY Y rồi nói tiếp – Tôi quy y với thầy Thích Minh Châu. Khi vụ Phật
Giáo xảy ra tôi có ra Huế gặp thầy Thích Trí Thủ để nhờ thầy can thiệp với
Thượng Tọa Thích Trí Quang… nhưng Hòa Thượng Trí Thủ nói bây giờ các thầy trẻ
học thức nhiều, họ có đường lối riêng, các sư già chúng tôi nói họ không nghe.
Nên không kết quả. Nhiều người khác cũng can thiệp nhiều ngả khác, cũng không
hơn gì. Hồi ấy còn cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều Phật tử đứng đầu là
phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng bên Phật Giáo tranh đấu
chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách nào
làm được. Tôi rất ân hận là không giúp gì được với tư cách là một Phật tử.
28. Hỏi: Theo ông thì ai cố ý giết hai ông?
Đáp: Theo
tôi thì người ra lệnh trực tiếp là tướng Dương Văn Minh. Còn ông Minh có nhận
lệnh ở trên nào không thì không biết. Sở dĩ tôi dám quả quyết ông Minh, là vì
chính ông Minh sai cận vệ của ông ta là đại úy Nguyễn Văn Nhung cùng đi với
tướng Mai Hữu Xuân, để “thi hành nhiệm vụ”(!). Và Nhung đã leo lên xe bọc thép
trong đó có hai anh em Tổng Thống. Nhung là một tay giết người không gớm tay, y
còn khắc dấu vào cán dao găm mỗi lần giết được một người. Ngay tối mồng hai y
còn khoe “con dao lịch sử” của y với con của tướng Đôn cơ mà. Đó là theo chính
lời của tướng Đôn thuật lại trong Việt Nam Nhân Chứng. Còn tướng Xuân thì khi
“đi đón ông cụ” về và ông cụ đã chết rồi, đã tới trước Dương Văn Minh giơ tay
làm dấu, miệng nói: “Mission accomplie” (Nhiệm vụ hoàn thành). Cứ theo những
lời trên của tướng Đôn, thì không nghi ngờ gì người chủ trương và ra lệnh giết
hai ông là tướng Big Minh.
29. Hỏi: Thời gian quấy rầy ông đã quá dài. Nhất là
trong lúc ông còn bịnh nhiều. Xin cám ơn ông đã mất công trả lời những câu hỏi
của chúng tôi. Và nếu có thể được xin ông cho một cảm tưởng chung về Tổng Thống
Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu.
Đáp: Tôi
cũng xin cám ơn ông đã tốn công đi từ xa đến để cho tôi được có dịp nói lên vài
điều trong số những gì mình còn nhớ được về thời gian dài phục vụ Đất Nước bên
cạnh hai nhân vật lịch sử mà tôi hằng kính mến. Cứ mỗi lần nhớ đến hai cụ, tôi
đều ngậm ngùi xót xa. Nhất là đối với cụ Diệm. Ông quá ngay thẳng, quá quân tử,
quá rộng lượng, lúc nào cũng nghĩ tới làm cho dân được ấm no hơn. Vậy mà người
ta nỡ hãm hại ông. Không phải chỉ có những ngày giỗ hai ông tôi mới khóc.
Cụ Vỹ dằn cơn xúc động bắt tay tôi khi
tôi từ biệt ra về…
Theo Minh Võ ở San Diego
Thủ lãnh Đảng Cần
lao Nhân vị, Cố Vấn
Chính trị VNCH
Ngô Đình
Nhu
tháng 2 năm 1963 bí mật gặp gở
Ủy viên Bộ Chính trị Cộng Sản
Bắc Việt
Phạm Hùng
____________ _________ _________ ________
Trích trong " Việt Nam Nhân
Chứng "
Hồi ký
của
Trung Tướng Trần Văn Đôn
Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng
QĐVNCH / 1963
Tổng Tư Lệnh QĐVNCH kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng / 1963-1964
Thượng Nghị Sĩ VHCH / 1967
Phó Thủ Tướng
kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng
Chính Quyền
VNCH 1974 /1975. ( trang 183=>184 )
............ ......... ......... ......... ......... ......... .........
......... ......... ......... ......... ......... ....
Chính trong phiên họp giải thích phiếu thỉnh cầu, ông Ngô
Dình Nhu hãnh diện cho biết Hà Nội chỉ muốn nói chuyện với ông ta mà
thôi. Họ đã gởi một cán bộ cao cấp văn phòng chính trị vào Nam gặp
ông ta.
Về sau tôi tìm hiểu và biết rõ sự việc như sau :
Đầu tháng 2 năm 1963, Trung tá Bường lúc ấy làm Tỉnh trưởng Bình Tuy,
dùng xe Dodge 4x4 chở ông Ngô Đình Nhu và ông C. đi săn. Trời đã trở
lạnh và lại có mưa mà ông Cố Vấn đi săn Nhưng đâu có ai biết được đó
chỉ là lối ngụy trang. Sự thật các ông ấy không đi săn mà đi thẳng tới
một căn nhà lá trong rừng thuộc địa hạt quận Tánh Linh thuộc tỉnh Bình
Tuy. Quận Tánh Linh xưa kia là một nơi rừng thiêng nước độc. Cũng như
Bình Tuy, quận Tánh Linh trước thuộc tỉnh Bình Thuận, hai quận này giáp
giới Nam phần.
Về sau ông Diệm cắt hai quận này cộng thêm một phần đất của Nam phần lập
thành tỉnh Bình Tuy. Vì rừng rập địa thế tiện lợi cho Việt Cộng nên họ
đặt cơ sở ở vùng Tánh Linh. Vì vậy rừng lá là nơi Việt Cộng thường ngăn
chặn lưu thông trên Quốc lộ 1.
Trung Tá Bường lái xe đưa ông Ngô Đình Nhu đến chỗ hẹn. Đến nơi, Trung
Tá Bường và ông C. chờ ngoài xe, lo an ninh. Chỉ có ông Nhu vô. Hai
người ngồi ngoài lắng nghe những lời đối thoại ở bên trong lúc nhỏ lúc
to. Người đang nói chuyện với ông Nhu là
Phạm Hùng, có hai
người nữa ngồi bên cạnh.
Trong lúc nói
chuyện, họ bàn vấn đề cho thân nhân đang ở hai miền được liên lạc với
nhau, sẽ tái lập đường xe lửa từ Sài Gòn đến Hà Nội để hai bên gia đình
đi lại thăm nhau và giao thương với nhau. Ông Nhu hứa với Phạm Hùng khi
nối xong đường xe lửa thì bà Nhu và Ngô Đình Lệ Thủy sẽ đi chuyến xe
thống nhất đầu tiên ra Hà Nội. Ngoài ra còn một điều họ nói đến nhiều
nhất là Ấp Chiến Lược. Ấp Chiến Lược đã gây nhiều khó khăn cho cán bộ
của họ. Ông Nhu thỏa thuận sẽ cứu cán bộ Việt Cộng bằng cách dùng chính
sách Chiêu hồi để khỏi giết cán bộ của họ như lời yêu cầu. Khi nào cán
bộ Việt Cộng bị kẹt thìxin chiêu hồi. Trong câu chuyện, Phạm Hùng cũng
trách sao giao những căn cứ quân sự cho Mỹ sử dụng. Ông Nhu nói Mỹ là
đồng minh của miền Nam, Mỹ đến miền Nam và dĩ nhiên sử dụng những nơi đó
chứ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không có giao nhượng cho Mỹ những phần
đất nào, vì đã tranh đấu lại của Pháp cho Việt Nam chứ không phải lấy
lại để đưa cho Mỹ.
Họp xong, khi ra về ông Nhu nói thêm với chúng tôi là ông rất hãnh diện
vì quốc sách Ấp Chiến Lược đã làm cho đối phương lo ngại.
Ngày 23.10. 1963, Ngô Đình Nhu biết chánh phủ Kennedy yêu cầu ông Diệm
đưa mình ra khỏi Việt Nam nên ông nói với con trai là Ngô Đình Trác lúc
đó khoảng 15 tuổi :
- Con là con trai lớn, phải ráng giữ
vai trò lãnh đạo gia đình nếu có chuyện gì xảy ra.
Thật ra ông Diệm cần ông Nhu hơn là ông Nhu cần ông Diệm. Ông Diệm không
có khả năng làm việc lớn, nếu tách ông Nhu ra, ông Diệm khó làm việc
được.
Posted in: Ngô Đình Diệm
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét