Nguyễn Văn Trọng
Diễn từ nhận giải thưởng Sách Hay 2012
Tôi thật bất ngờ và vinh dự được Ban xét giải thưởng Sách Hay trao giải nghiên cứu năm 2012 cho tôi như người đã dịch tác phẩm Bàn về tự do của John Stuart Mill. Tôi xin chân thành cảm ơn về đánh giá khích lệ này cho công việc của tôi.
Tôi
vốn không phải là người được đào tạo bài bản về khoa học xã hội và nhân
văn, nhưng trong tư cách là một con người sống trong xã hội, tôi luôn
băn khoăn với một số câu hỏi nhân sinh; những câu hỏi ấy thôi thúc tôi
tìm lời giải đáp cho chính mình. Thế hệ chúng tôi lớn lên trong những
biến động lịch sử to lớn của dân tộc, dưới ảnh hưởng tinh thần của những
khẩu hiệu đến từ cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Tình anh em;
chúng tôi luôn được giáo dục phải dấn thân vì xã hội. Thực tiễn cuộc
sống cho tôi thấy rằng, tập thể đông người không phải lúc nào cũng có ý
kiến đúng đắn và thường có thái độ chuyên chế áp đặt đối với cá nhân
trong tất cả mọi chuyện.
Trong lòng tôi xuất hiện câu hỏi: có ranh giới chuẩn mực nào cho việc áp đặt ý kiến của số đông với cá nhân để cho việc áp đặt ấy là chính đáng.
Công việc nghề nghiệp và cuộc sống bề bộn đã không cho tôi có điều kiện
thư thả để tìm hiểu chuyện này. Mãi đến tuổi về hưu tôi mới được đọc
tuyệt tác Bàn về tự do của John Stuart Mill. Cuốn sách đã gây
ấn tượng rất mạnh cho tôi. Vào lúc đó trình độ tiếng Anh của tôi còn khá
thấp, nhưng tôi cũng bắt tay vào việc dịch những trích đoạn ấn tượng
nhất và giới thiệu với bạn bè. Một người bạn của tôi, ông Chu Hảo, là
người đã khích lệ tôi dịch toàn bộ tác phẩm. Sau khi ông Chu Hảo trở
thành Giám đốc NXB Tri Thức, ông cùng với các cộng sự của mình đã giúp
tôi hoàn tất bản dịch và cho xuất bản cuốn sách.
Tác phẩm Bàn về tự do đã đưa ra lời giải đáp khá thỏa đáng về ranh giới chính đáng cho sự áp đặt của xã hội lên tự do cá nhân: vì
sự an toàn cho xã hội, con người cá nhân phải giao nộp một phần tự do
của mình; thế nhưng con người cá nhân không thể giao nộp toàn bộ tự do
của mình vì như thế con người cá nhân tất yếu sẽ tha hóa, và xã hội sẽ
phải chịu tổn thất vì sự tha hóa của các thành viên của nó.
Tự do như thế của cá nhân trong quan hệ với xã hội thường được gọi là
tự do dân sự. Mặc dù vấn đề tự do dân sự đã được J.S. Mill làm sáng tỏ
từ trước đây một thế kỷ rưỡi, nhưng cho đến nay tự do dân sự vẫn chưa
thành hiện thực trong đại đa số các xã hội con người. Có những nguyên
nhân lịch sử khiến cho sự phát triển của các xã hội không đồng đều.
Người ta bàn luận rất nhiều về những nguyên nhân ngoại tại tác động
không thuận lợi cho sự phát triển con người cá nhân, khiến cho mức độ
phát triển tinh thần chung của xã hội phải thấp kém. Người ta nói nhiều
đến ảnh hưởng quyết định của môi trường xã hội đến con người cá nhân.
Những ảnh hưởng của môi trường xã hội đến thế giới tinh thần của con
người cá nhân không nhất thiết mang tính bạo lực và cưỡng bức, mà thường
là dưới dạng thức của những cám dỗ: cám dỗ vươn tới quyền lực và hùng
mạnh, cám dỗ đầy uy lực của đồng tiền, cám dỗ của danh tiếng… Trong lòng
tôi lại xuất hiện câu hỏi: liệu ảnh hưởng môi trường xã hội đến con
người cá nhân có thật là mang tính quyết định hay không? Nếu ảnh hưởng
ấy không mang tính quyết định, thì con người cá nhân có những khả năng
gì để chống trả lại những ảnh hưởng tiêu cực đến từ bên ngoài, đặng bảo
vệ phẩm giá con người của mình? Nhà tư tưởng Nga Herzen đã khẳng định: “Tính
độc lập về nhân cách của con người cũng là chân lý và thực tại hiển
nhiên, không khác gì sự phụ thuộc của con người vào môi trường, với sự
khác biệt là nó ở trong quan hệ ngược lại với môi trường: càng nhiều ý
thức thì tính độc đáo càng lớn; càng kém ý thức thì sự ràng buộc với môi
trường càng chặt chẽ hơn, môi trường càng nuốt mất bản ngã nhiều hơn”.
Vậy là ở đây đặt ra vấn đề con người cá nhân phải bảo vệ tự do của bản
ngã chống lại những cám dỗ ngoài xã hội để giữ được phẩm giá của mình.
Tự do ở đây không có ý nghĩa như một quyền cần phải giành lấy, mà lại có
ý nghĩa như một trách nhiệm trước bản thân mình, đòi hỏi con người cá
nhân phải có dũng khí nhận lấy trách nhiệm ấy. Cần phải có dũng khí bởi
vì tự do với cám dỗ thì rất khó khăn, còn chịu khuất phục làm nô lệ cho
cám dỗ thì dễ dàng hơn, ít đau đớn hơn nhiều. Ở đây tôi đang nói tới một
thứ tự do khác với tự do dân sự, tự do này được các triết gia tôn giáo
Nga đầu thế kỷ XX gọi là tự do lương tâm.
Tự do lương tâm có lẽ gắn với phong trào Phục hưng được thể hiện trong “Diễn từ về phẩm giá con người”
của triết gia Ý Pico della Mirandola (1463-1494) vốn được coi là tuyên
ngôn của chủ nghĩa nhân văn. Ông đã diễn giải ý nghĩa của việc Thượng đế
tạo ra con người như sau: “Ta đặt Mi giữa thế gian, để cho Mi có
thể tự do nhìn ra khắp mọi phía của thế giới và nhìn đi đâu tùy ý của
Mi. Ta tạo ra mi không phải trần tục, không phải thượng giới, không phải
loài có sinh có tử, không phải bất tử. Bởi vì Mi tự Bản thân mình, phù
hợp theo ý chí của Bản thân mình và theo danh dự, có thể là Đấng sáng
tạo và Người tạo tác của chính mình và từ vật liệu thích hợp cho Mi mà
hình thành nên Bản thân mình. Như vậy, Mi tự do trong việc đi xuống thấp
tới những thang bậc thấp kém nhất của thế giới thú vật, thế nhưng Mi
cũng có thể nâng cao Bản thân mình lên tới phạm vi cao cả nhất của Thần
thánh“.
Trong
tác phẩm Anh em nhà Caramazov, đại văn hào Nga Dostoevski đã dựng nên
câu chuyện Viên Đại pháp quan tôn giáo ra lệnh bắt giam Chúa Kitô khi
Ngài xuất hiện trở lại trên thế gian. Viên Đại pháp quan đã chất vấn
Chúa: Chúa đã hứa hẹn với người đời thứ tự do mà người đời chất phác và
bẩm tính càn rỡ không thể hiểu nổi… Con người quý trọng sự yên ổn và
thậm chí cả cái chết hơn là tự do lựa chọn trong sự nhận thức thiện ác.
Đối với con người không có gì hấp dẫn hơn tự do lương tâm, nhưng cũng
không có gì khổ ải hơn. Con người yếu đuối sẽ không kham nổi sức nặng
khủng khiếp của tự do lựa chọn, họ sẽ đi tìm ai đó có phép lạ để trút bỏ
gánh nặng tự do lựa chọn ấy mà làm nô lệ cho kẻ đó. Có thể có mấy chục
ngàn người theo Chúa vì bánh mì trời, nhưng còn có hàng chục triệu người
khác không đủ can đảm coi rẻ bánh mì trần thế; những người này sẽ mang
tự do của họ đặt dưới chân chúng tôi và nói: “Chẳng thà biến chúng tôi
thành nô lệ, nhưng cho chúng tôi ăn còn hơn”. Viên Đại pháp quan yêu cầu
Chúa đi khỏi thế gian, đừng gây phiền nhiễu nữa.
Triết gia Nga N. Berdyaev trong tác phẩm Bàn về nô lệ và tự do của con người đã diễn giải ẩn dụ trên của Dostoevsky như sau: “Hai
vấn đề nằm trong cơ sở của đời sống xã hội và không có gì khó khăn hơn
việc giải quyết chúng cho thật hài hòa – vấn đề tự do và vấn đề bánh mì.
Có thể giải quyết được vấn đề tự do bằng cách tước mất bánh mì của con
người. Một trong những quyến rũ mà đức Kitô bác bỏ ở sa mạc, là quyến rũ
biến những hòn đá thành bánh mì. Ở đây bánh mì biến thành sự nô dịch
con người. Tất cả ba quyến rũ mà đức Kitô bác bỏ, đều nô dịch con người.
Dostoevsky diễn đạt một cách thiên tài điều này trong Huyền thoại về
viên Đại pháp quan. Nhưng sẽ là trá ngụy nếu diễn giải huyền thoại ấy
như vấn đề bánh mì không có lời giải đáp tích cực và đành phải chỉ có
được tự do thôi mà không có bánh mì. Người ta nô dịch con người bằng
cách tước đoạt bánh mì của họ. Bánh mì là biểu tượng vĩ đại, và gắn với
nó là đề tài xã hội chủ nghĩa, đề tài mang tính toàn thế giới. Con người
không được trở thành kẻ nô lệ của “bánh mì”, không được vì “bánh mì” mà
giao nộp tự do của mình“. Ông còn nói: “Cuộc đấu tranh vì bản
diện cá nhân, sự khẳng định bản diện cá nhân là đầy đau đớn. Tự thực
hiện bản diện cá nhân giả định một sự kháng cự lại, đòi hỏi đấu tranh
chống lại quyền lực nô dịch của thế gian, đòi hỏi không chấp nhận thói
thụ động thích ứng theo. Việc từ bỏ bản diện cá nhân, việc chấp thuận
hòa tan vào thế giới xung quanh có thể làm giảm bớt nỗi đau và con người
dễ dàng đi theo lối đó. Chấp thuận làm nô lệ sẽ giảm bớt nỗi đau, không
chấp thuận sẽ gia tăng nỗi đau. Nỗi đau trong thế giới con người là sự
khai sinh của bản diện cá nhân, là sự khai sinh cuộc đấu tranh vì hình
tượng của nó. Ngay tính cá thể trong thế giới động vật đã biết đau đớn
rồi. Tự do sinh ra đau khổ. Có thể giảm bớt đau khổ bằng cách chối bỏ tự
do. Phẩm giá con người, tức là bản diện cá nhân, tức là tự do, đòi hỏi
chấp nhận đau đớn, đòi hỏi khả năng chịu đựng nỗi đau“.
Đến lúc này tôi mới hiểu được câu danh ngôn của Marx: “Tự do của mỗi người là điều kiện đảm bảo cho tự do của mọi người“.
Tôi xin kết thúc ở đây. Cảm ơn quý vị đã cho tôi cơ hội được nói ra những điều này.
N.V.T.
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét