Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013
Cách “ăn điểm" bài văn nghị luận
06:42
Hoàng Phong Nhã
No comments
(VTC
News) – Bài văn nghị luận chiếm số điểm khá cao trong bài thi môn văn.
Vậy làm thế nào để làm tốt loại bài này? Mách nước sau giúp bạn điều đó.
Người viết tiểu luận văn học, người học sinh khi làm bài cần hiểu đúng thế nào là bài nghị luận văn học.
Căn
cứ vào đề tài, đối tượng nghị luận mà có hai kiểu bài chủ yếu: nghị
luận xã hội và nghị luận văn học. Nếu như đề tài, đối tượng của bài văn
nghị luận xã hội là một vấn đề chính trị, tư tưởng, đạo lí, một hiện
tượng xã hội thì đối với bài văn nghị luận văn học lại là tác phẩm, hiện
tượng văn học hay những ý kiến, nhận định về văn học. Đây là kiểu bài
văn phổ biến, quen thuộc nhất đối với học sinh các cấp nhà trường hiện
nay.
Trong
chương trình Tập làm văn mới hiện hành, không còn sự phân chia các kiểu
bài nghị luận văn học như trước đây nữa (giải thích, chứng minh, phân
tích, bình luận, bình giảng). Sự thay đổi này nhằm phản ánh đúng hơn bản
chất của một bài văn, qui trình làm một bài văn nghị luận văn học.
Thực
tế, hiếm có bài văn nào từ đầu đến cuối chỉ hoàn toàn tuân theo một yêu
cầu, chỉ vận dụng một thao tác ấy. Đó là các phép lập luận, các thao
tác, phương pháp thường được kết hợp vận dụng khi giải quyết một vấn đề
nghị luận. Thật ra, trong một bài nghị luận văn học, người viết thường
sử dụng nhiều thao tác, kĩ năng và nhiều khi khó tách bạch một cách rạch
ròi giải thích, chứng minh, phân tích, bình giảng, bình luận. Nói vậy
cũng có nghĩa nghị luận văn học là kiểu bài đòi hỏi tính tổng hợp của
tri thức, của kĩ năng. Muốn làm được một bài nghị luận văn học hay, cùng
với kiến thức, năng lực cảm thụ, người viết cần có kĩ năng kết hợp đồng
thời, linh hoạt nhiều phép lập luận để làm sáng tỏ vấn đề, để trình bày
một cách thuyết phục, hấp dẫn ý kiến, nhận định của mình.
Cách
hiểu kiểu bài nghị luận văn học như thế đã bao hàm đòi hỏi tính tích
cực, năng lực, bản sắc cá nhân của người làm bài. Một tư tưởng lớn, một
phương châm quan trọng trong dạy – học hiện nay mà hầu như ai cũng biết
là phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh. Cần chống lối học vẹt,
nói theo từ cách nghĩ đến cách học, cách làm bài. Phân môn làm văn đặc
biệt cần góp phần tích cực vào việc thực hiện tư tưởng, phương châm ấy
từ cách ra đề đến cách đánh giá. Nghị luận về một vấn đề, phương diện
nào đó của tác phẩm truyện, nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần xác
định một lập trường, từ một góc độ nào đó để phân tích, lí giải, đánh
giá, để bộc lộ chủ kiến của mình.
Ngay
chữ “phân tích” trong yêu cầu của một đề văn nghị luận cũng cần hiểu
cho đúng, cho toàn diện. Nó không chỉ là một thao tác, một phép lập
luận. Nó không chỉ phân chia vấn đề, đối tượng ra từng bộ phận, từng
khía cạnh để miêu tả, tìm hiểu đặc điểm. “Phân tích” ở đây bao hàm cả sự
nhận xét, đánh giá, lí giải… về vấn đề, đối tượng ấy bằng tư tưởng,
tình cảm của mình. Chẳng hạn trước đề văn nghị luận “Phân tích nhân vật
anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa
của Nguyễn Thành Long”. Một bài làm văn tốt sẽ không chỉ nêu rồi chứng
minh từng vẻ đẹp, phẩm chất của nhân vật anh thanh niên (như lòng yêu
nghề, lặng lẽ cống hiến, như lòng hiếu khách đến nồng nhiệt rồi đức tính
khiêm tốn…).
Đồng
thời với quá trình phân tích từng vẻ đẹp, trình bày từng luận điểm ấy,
người viết cần thể hiện sự cảm thụ các chi tiết nghệ thuật sinh động
trong tác phẩm, thể hiện thái độ, tình cảm của mình, cần nhận xét, đánh
giá về cách miêu tả, xây dựng nhân vật của nhà văn, cần rút ra, khái
quát về ý nghĩa của hình tượng nhân vật… Nói vậy nghĩa là bài nghị luận
văn học đòi hỏi cảm thụ, ấn tượng riêng, đề cao tính chất cá nhân, cá
thể của người viết. Tất nhiên, từ ý thức được về lí thuyết đến thực hành
đúng, thực hiện cho có hiệu quả thật sự không hề đơn giản. Muốn làm
được điều này cả thầy và trò phải phấn đấu dần dần ra khỏi quán tính, từ
bỏ thói quen ăn sâu một thời, còn làm sao vượt khỏi áp chế đè nặng của
bao thứ sách tham khảo, bài mẫu này nọ trên thị trường sách đa tạp hiện
nay. Quả thực, với kiểu ra đề văn hạn hẹp, đơn điệu lâu nay, trước thực
tế các tác phẩm, vấn đề đã được cày xới kĩ, người làm bài không dễ có và
xen vào được ý kiến, cảm thụ riêng của mình.
Từ
đặc điểm của kiểu bài nghị luận văn học nêu trên, chúng ta xác định cụ
thể hơn những yêu cầu cơ bản mà một bài nghị luận văn học cần đạt tới.
1. Căn
cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vào ý đồ sáng tác của nhà văn mà phân
tích, làm sáng tỏ các tầng lớp nội dung, ý nghĩa trong ngôn từ, trong
hình ảnh nơi văn bản
Mọi nhận xét, đánh giá về tác phẩm chỉ thực sự có ý nghĩa khi xuất phát từ sự
hiểu đúng, hiểu sâu nó. Bài nghị luận văn học tối kị lối phát biểu ý
kiến một cách chung chung hoặc chỉ “diễn nôm “nội dung. Muốn bình đúng,
bình hay trước tiên phải phân tích đúng, giảng sâu. Giảng có nghĩa là
khám phá, giảng giải nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, là giải thích,
khẳng định nghĩa lí của văn bản. Nó có nhiệm vụ chỉ ra các tầng lớp nội
dung và chứng minh một cách thuyết phục rằng nội dung ấy tất phải được
thể hiện qua hình thức nghệ thuật ấy, rằng hình thức nghệ thuật ấy “hợp
lẽ thuận tình”, có tính độc đáo hơn cả trong việc thể hiện nội dung.
Trong
quá trình phân tích, chứng minh tính độc đáo của sự thống nhất giữa nội
dung và hình thức ở văn bản tác phẩm, người nghị luận cần tìm trúng
những chỗ hay, chỗ lạ của các phương thức, thủ pháp thể hiện và khẳng
định được rằng hình thức nghệ thuật ấy là “phương án tối ưu” để thể hiện
sinh động nội dung, rằng bất kì sự đổi thay nào đó (dù rất nhỏ) cũng có
thể phá vỡ nghĩa lí, phá vỡ tính chỉnh thể của tác phẩm. Chẳng hạn, khi
bình giảng khổ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, ta không thể không chú ý đến chữ mướt trong câu “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Chỉ chữ mướt
ấy mới diễn tả đúng và hết sức gợi cảm màu xanh non, xanh mỡ màng đang
lấp lánh phản chiếu ánh nắng ban mai của “vườn ai” nơi thôn Vĩ. Vào thời
điểm sương đêm còn đẫm trên các ngọn cây, lá cây và ánh mặt trời mới
dậy đang chiếu rọi thì mới có mướt. Không thể thay vào đó một chữ bất kì nào khác để đúng, hay được như thế.
2. Cùng
với việc giảng giải, phân tích, cần đánh giá, bàn luận về những “lời
hay ý đẹp” nơi văn bản, về giá trị của tác phẩm, ý nghĩa của vấn đề
Để
khẳng định tính độc đáo, các giá trị của tác phẩm, bài nghị luận phải
đào sâu vào các tầng lớp ý nghĩa, vào sự thống nhất cao giữa nội dung và
hình thức, đồng thời cần liên hệ mở rộng xung quanh chính các vấn đề
ấy, cần tổng hợp, nâng cao bằng năng lực khái quát. Ở đây rất cần thao
tác so sánh cũng như khả năng cảm thụ văn chương tinh tế cùng với vốn
tri thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực. Phân tích các bài thơ viết về người
chiến sĩ Vệ quốc như Tây Tiến của Quang Dũng, Đồng chí
của Chính Hữu, ta không thể không đặt chúng vào hoàn cảnh đất nước
thiếu thốn, gian khổ ở những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, vào các thành công lẫn hạn chế của dòng thơ viết về anh bộ đội lúc
bấy giờ.
Mặt
khác, ta cũng rất cần sự hiểu biết về đặc điểm phong cách từng nhà thơ,
bút pháp của từng bài thơ để làm sáng tỏ cái hay riêng ở từng tác phẩm.
Phân tích nhân vật Chí Phèo, ta cần nhận xét về tính chất điển hình của
hình tượng này, cần đánh giá về chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc cùng nghệ
thuật điển hình hóa sắc sảo của Nam Cao. Nhìn chung, phần lớn bài văn
nghị luận của học sinh hiện nay còn thiên về miêu tả cụ thể (thậm chí kể
lể) mà yếu về năng lực khái quát, cô đúc luận điểm và đáng giá. Tại sao lại thế? Ý nghĩa của vấn đề ở chỗ nào? Đó là các câu hỏi nên luôn tự đặt ra khi phân tích cụ thể một vấn đề.
3. Bài văn nghị luận cần có hệ thống luận điểm rõ ràng, mạch lạc, những luận cứ đúng đắn, sinh động và lập luận thuyết phục
Tôi
thường nói đùa với các em học sinh rằng bài văn nghị luận phải như một
nắm xôi: từng hại dẻo, khô nhưng lại vắt được thành nắm. Nó khác với
chảo cơm rang: từng hạt săn đét, rời rạc. Các ý trong bài văn cần rõ
ràng nhưng lại được liên kết thành một hệ thống.
Một
bài văn nghị luận hay thường có hệ thống luận điểm rõ ràng được kết
dính một cách tự nhiên, liền mạch, ý nọ gọi ý kia. Đòi hỏi hệ thống luận
điểm mạch lạc, màu sắc cá nhân của các nhận xét, đánh giá, mặt khác,
bài văn nghị luận cũng yêu cầu tính cụ thể, thuyết phục của những luận
cứ. Nếu cứ sa đà vào dẫn chứng, phân tích cụ thể mà không nâng lên được
tầm khái quát, không đúc kết được thành các nhận định, bài văn sẽ nhạt
tính tư tưởng, khó gây ấn tượng. Mặt khác, nếu cứ nêu nhận định, ca ngợi
hay phê phán một cách chung chung mà không qua các căn cứ cụ thể, dẫn
chứng sinh động thì bài văn cũng yếu sức thuyết phục, dễ trở nên sáo
rỗng. Kết hợp linh hoạt, tự nhiên giữa phân tích, chứng minh cụ thể với
nhận xét, đánh giá khái quát vừa là phương pháp tư duy, vừa là kĩ năng
làm bài mà người viết văn nghị luận cần rèn luyện. Chẳng hạn, khi nghị
luận về một tác phẩm truyện, những nhận xét, đánh giá phải xuất phát từ
chủ đề, ý nghĩa của cốt truyện, từ tính cách, số phận của nhân vật, từ
đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm. Khi nghị luận về một nhân vật cần phân
tích, đánh giá từng phương diện cơ bản của nhân vật được nhà văn phản
ánh gắn liền với những chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Chẳng hạn, khi nghị
luận về một đoạn thơ, bài thơ, cần làm sáng tỏ nội dung cảm xúc được thể
hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu. Bài nghị luận cần phân tích các
yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ thể, xác đáng. Trước đề bài
“Cảm nhận của em về tình đồng chí trong bài thơ Đồng chí
của Chính Hữu” không ít học sinh lúng túng khi xác định yêu cầu và tổ
chức bài làm.Tình đồng chí trong bài thơ này được diễn tả qua các nhân
vật nào, ở thời gian, hoàn cảnh nào của lịch sử dân tộc? Đâu là các chi
tiết đặc sắc (ngôn từ, hình ảnh, câu thơ…) chứng tỏ vẻ đẹp đặc biệt của
tình đồng chí ấy? Bản thân mình tâm đắc nhất với chi tiết nào? Giá trị
nhận thức, ý nghĩa tư tưởng của bài thơ Đồng chí
là gì? Từ việc trả lời đúng các câu hỏi này, lại cần xác định rõ trình
bày cảm nhận theo yêu cầu của đề văn sẽ bao gồm những gì, nên kết hợp ra
sao các thao tác, các phép lập luận…
Như
vậy, một bài văn nghị luận hay vừa đòi hỏi sự thâm nhập, thẩm bình sâu
tác phẩm vừa yêu cầu kĩ năng tổng hợp, khái quát thành nhận định, đánh
giá riêng.
4. Lời văn của một bài nghị luận cần chuẩn xác, trong sáng, thể hiện rung cảm chân thành, tự nhiên của người viết
Khi
viết một bài văn, một tiểu luận, hơn nhau không chỉ ở chỗ viết cái gì
mà quan trọng còn là viết như thế nào, bằng thái độ, tình cảm ra sao.
Cần cân nhắc từ cách dùng từ đến cách ngắt câu. Ngôn từ phải làm sao
diễn tả sát, trúng bản chất của đối tượng, điều mình muốn nói. Giọng văn
làm sao phải hợp với vấn đề, với nội dung, nhiều khi như có hình có
khối, giàu nhịp điệu. Viết văn cũng như giao tiếp trong đời sống, không
nên hài hước khi cần trữ tình cảm thương và ngược lại. Giọng điệu lời
văn khi phân tích thân phận tủi nhục cùng sức sống tiềm tàng của nhân
vật Mị (Vợ chồng A Phủ) tất nhiên cần khác với khi phân tích Số đỏ chẳng hạn. Phân tích câu thơ cuối của bài Đây thôn Vĩ Dạ, tôi rất tâm đắc khi viết rằng đó là một lời hỏi khắc khoải (Ai biết tình ai có đậm đà?).
Trong chữ khắc khoải này có ước mong tha thiết nhưng ngậm ngùi, khẩn
thiết mà đau đớn đúng với cảnh ngộ Hàn Mặc Tử khi ấy. Nhân đây, chúng
tôi thấy cần lưu ý các em học sinh một điều: không nên lầm rung cảm nơi
lời văn qua các câu cảm thán, qua những lời “hô to gọi giật” kiểu “chao
ôi…”, “đẹp làm sao…”, “hay biết bao nhiêu…”. Nếu lạm dụng một cách ngây
thơ, nếu “ngụy trang” cho tâm hồn nghèo nàn của mình theo kiểu ấy, bài
văn sẽ trở nên sáo rỗng, lắm lúc buồn cười. Rung cảm phải thật sự xuất
phát tự đáy lòng, từ sự “vỡ lẽ” của chính mình. Khi ấy, nó tự toát lên
trong ý tứ, trong giọng điệu bài văn mà người đọc không khó nhận ra.
Trở
lên trên, chúng tôi đã trình bày ngắn gọn các yêu cầu cơ bản của một
bài văn nghị luận văn học. Tùy theo vấn đề, đối tượng nghị luận, đặc
biệt thể loại tác phẩm, mà mỗi dạng bài lại có các yêu cầu, đòi hỏi các
phương pháp riêng.
Để hiểu rõ hơn về Kiểu bài nghị luận văn học, mời các bạn tìm đọc thêm những chuyên đề cùng tác giả sau đây trên Cổng Giáo dục trực tuyến GoEdu: http://edu.go.vn
PGS.TS.Lê Quang Hưng, Chủ nhiệm Khoa Việt Nam học
Trường ĐH Sư phạm Hà Nội
0 nhận xét:
Đăng nhận xét