I - Tự do thuyết lý và tự do thực hữu, tự do tiêu cực và tự do tích cực.
Muốn thay đổi
- cơ chế ( hay tổ chức hành chánh : lập pháp, hành pháp, tý pháp) của một Quốc Gia,
- chúng ta cần thay đổi thể chế ( quan niệm và lý tưởng) ðịnh hướng ðể tổ chức cơ chế của Quốc Gia ðó.
Thỉnh thoảng đó đây, trên báo chí cũng như trên các Diển Ðàn Ðiện Toán, chúng ta thường nghe một vài ngýời ðề nghị Nhà Nýớc Cộng Sản Việt Nam bải bỏ ðiều 4 Hiến Pháp XHCN của họ, ðể ði ðến một tổ chức lý tưởng cho Việt Nam trong týõng lai.
Có thật, nếu Cộng Sản Việt Nam chịu bải bỏ ðiều 4 Hiến Pháp XHCN hiện hành ở Việt Nam, là chúng ta có thể tổ chức ðược cho Việt Nam cõ chế Quốc Gia lý tưởng cho ðồng bào chúng ta trong tương lai không?
A - Tự do thuyết lý và tự do thực hữu
Điều đó còn tùy chúng ta có thấy phần còn lại của Hiến Pháp 1992 của XHCNVN là thể chế lý tưởng ðể ðịnh hướng tổ chức Quốc Gia chúng ta trong tương lai không?
Nói cách khác, trong Hiến Pháp 1992 hiện hành của XHCNVN có những ðiều khoản Nhân Bản và Dân Chủ nhý lý tưởng mà chúng ta mong muốn cho tương lai ðất nước và có những ðiều khoản nào bảo ðảm thực thi những gì Hiến Pháp tuyên bố?
Tuyên bố suông bằng cách " sao y bản chánh" các điều khoản Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền LHQ, ai cũng làm được:
" Tự do cá nhân bất khả xâm phạm",
" Tự do gia cư bất khả xâm phâm",
" Tự do ngôn luận và tự do hội họp là những quyền bất khả xâm phạm",
" Mọi người ðều có quyền tự do di chuyển"...
Hõn nữa Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền LHQ chỉ nêu lên những quyền tối thiểu bất khả xâm phạm, mà bất cứ Quốc Gia thành viên nào cũng phải tuân giữ.
Nhưng những quyền ở mức tối thiểu ðó là những ðiều kiện sống Nhân Bản tối thiểu mà con người phải có, chớ chưa phải là lý tưởng mà một cá nhân mong ðạt ðến.
Và " sao y bản chính" ðể tuyên bố như vậy, ai cũng tuyên bố ðược, nhưng ðó chỉ là cách tuyên bố "tự do thuyết lý" (liberté formelle).
Ai chịu trách nhiệm đứng ra bảo đảm khi các quyền vừa kể không được tôn trọng và thực thi?
Tuyên bố và quy trách cho những ai sẽ chịu trách nhiệm trước Hiến Pháp trước tiên và trước luật pháp kế tiếp, mới là phương thức biến các quyền tự do ðược bảo ðảm thuyết lý thành " tự do thực hữu" ( liberté substantielle), có thật.
Sau khi xác nhận ở đoạn 1
- " Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm" ( Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức quy trách cho các cơ chế Quốc Gia phải chịu trách nhiệm thực thi những quyền mà Hiến Pháp đứng ra bảo đảm trước mọi người:
- " Những quyền căn bản được kể sau đây có tính cách bắt buộc đối với lập pháp, hành pháp và tư pháp, như là những quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp" ( Ðiều 1, ðoạn 3, id.).
Nếu nhân phẩm con người bị vi phạm và con người không thực sự hưởng các quyền cãn bản của mình, tổ chức Quốc Gia là chủ thể phải chịu trách nhiệm đầu tiên, bị Hiến Pháp quy trách cho có trách nhiệm trực tiếp, " …là những quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp".
Cũng vậy, sau khi tuyên bố người làm việc phải ðược bảo ðảm an sinh xã hội, những ngýời tàn tật và kém khuyết có quyền ðược nuôi sống và trợ cấp xã hội để có được một đời sống xứng đáng với nhân phẩm con người, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc quy trách:
- " Các bổn phận của Quốc Gia được kể trên đây sẽ được giao cho các tổ chức và cõ chế sẽ ðược thiết lập hay sẽ ðược chính tổ chức Quốc Gia bổ khuyết" ( Ðiều 38, ðoạn 4 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Hiến Pháp 1992 XHCNVN có những điều khoản tương tợ quy trách cho Nhà Nước hay Ðảng và Nhà Nước trách nhiệm bảo ðảm các quyền bất khả xâm phạm của con người không?
B - Tự do tiêu cực và tự do tích cực.
Chúng tôi chưa bàn ðến nội dung quan niệm về nhân phẩm con người thế nào trong Hiến Pháp 1992 XHCNVN, mà chỉ mới ðề cập ðến hình thức tuyên bố.
Lần đọc những điều khoản tuyên bố về quyền và tự do của người dân, chúng ta sẽ thấy rằng Hiến Pháp 1992 XHCNVN chỉ tuyên bố một loạt các quyền dưới hình thức tiêu cực, như những gì chúng tôi trích dẫn ở trên.
Tuyên bố " Tự do cá nhân bất khả xâm phạm" là hình thức tuyên bố tiêu cực, đồng nghĩa với phía bên kia, phía bên Chính Quyền hay cá nhân khác " không được xâm phạm, có bổn phận phải tôn trọng". Người dân được " tự do khỏi…, liberté de…, bị người khác xâm phạm".
Nhưng người dân trong một Quốc Gia
- không phải chỉ có mức sống luôn luôn phòng thủ tiêu cực " khỏi bị người khác xâm phạm " ,
- mà còn phải có cõ hội và ðiều kiện ðể tự do phát triển con người của mình và cộng tác phát triển đem lại thịnh vượng cho chính mình và cho đồng bào mình , " tự do tích cực, liberté à…).
Đó là những gì Hiến Pháp 1947 Ý Quốc nêu lên ở một trong những điều khoản đầu tiên của Hiến Pháp, đặt ở vị trí quan trọng:
- " Bổn phận của nền Cộng Hoà Dân Chủ là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là những chướng ngại, trong khi giới hạn thực sự tự do và bình đẳng của người dân, không cho phép họ triển nở hoàn hảo con người của mình và tham dự một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở" ( Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Hay " Mọi công dân đều có quyền tự do gia nhập thành chính đảng để cộng tác theo phương thức dân chủ định đoạt đường lối chính trị Quốc Gia" ( Điều 49 , id.)
Như vậy tổ chức cơ chế Quốc Gia
- không những " không được cấm đoán", " không được xâm phạm" các quyền tự do của người dân hay người dân có tự do khỏi bị Quốc Gia cấm đoán ( liberté de…) quyền tự do gia nhập hội ,
- mà chính tổ chức Quốc Gia còn tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích, " dẹp bỏ đi những chướng ngại vật…", để người dân có thể xử dụng quyền tự do của mình, hành động mưu ích cho mình và cho Cộng Đồng Quốc Gia , tự do tích cực để…, tự do để làm một việc gì … ( liberté à…):
"…tự do cộng tác theo phương thức dân chủ ðịnh ðoạt ðường lối chính trị quốc gia, "( Ðiều 49, id.).
Thể chế tốt ðẹp hơn cho tương lai Việt Nam
- không những cần phải có những ðiều khoản bảo ðảm dưới hình thức tiêu cực,
- mà con quy trách cho Quốc Gia tạo điều kiện vật chất và phương thế thích hợp, ðể khuyến khích người dân thãng tiến chính mình và cộng tác phát triển cho xứ sở đến văn minh và phú cường.
II - Thể chế Nhân Bản trong Hiến Pháp.
A - Thể chế ðộc tài là thể chế chống con người, trước khi chống thể chế dân chủ.
Ðọc các Hiến Pháp Tây Âu, nhứt là Hiến Pháp 1947 Ý Quốc và 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức, hai Hiến Pháp thoát xuất từ hai chế độ độc tài của Mussolini và Hitler, điều nổi bậc mà ai cũng thấy được, đó là tính cách Nhân Bản của ngýời dân Âu Châu.
Trong quan niệm thường nhật, chúng ta thường ðặt ðối ngược nhau quan niệm Quân Chủ và Dân Chủ, Ðộc Tài và Tự Do.
Dường như Quân Chủ hay Ðộc Tài là những phương thức tổ chức hành quyền chống Dân Chủ hơn là chống Con Người, ðàn áp và nô lệ hoá Con Người, ðê tiện hoá nhân phẩm Con Người, không tôn trọng Nhân Bản.
Quan niệm Ðộïc Tài, phương thức hành quyền chống Dân Chủ, là quan niệm không chính xác.
Bất cứ cách hành xử quyền bính Ðộc Tài nào cũng là cách thức lạm dụng quyền lực chống Con Người trước tiên, chống các quyền và tự do bất khả xâm phạm của Con Ngýời, trước khi chống lại "phương thức tổ chức quyền lực Quốc Gia dựa trên sự ðồng thuận của người dân hay " Dân Chủ".
Ðó là những gì được ghi trong hai Bản Tuyên Ngôn của hai cuộc Cách Mạng đưa đến tổ chức văn minh của nhân loại hiện nay, Cách Mạng Độc Lập Hoa Kỳ và Cách Mạng Pháp Quốc 1789:
- Tất cả mọi người ðều ðược dựng nên bình đẳng như nhau.
Tất cả đều được Đấng Tạo Hóa ban cho một số quyền bất khả nhượng.
Trong các quyền nầy, quyền được bảo toàn mạng sống, quyền tự do tìm kiếm hạnh phúc là các quyền thượng ðẳng" ( Tiền Ðề Tuyên Ngôn Ðộc Lập Hoa Kỳ 1776).
- "Các ðại diện ðồng thanh tuyên bố rằng: các quyền của con người do Thiên Phú, bất khả nhượng và cao qúy…" ( Tiền Ðề Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân Cách Mạng Pháp Quốc 1789).
Như vậy, lý do mà ngýời dân nổi lên làm Cách Mạng, chống Quân Chủ, chống Ðộc Tài là ðể bênh vực Con Ngýời bị chà ðạp, ðê tiện hóa và nô lệ hóa Con Ngýời, ðể bênh vực Nhân Bản của mình.
Thừa hýởng tinh thần Nhân Bản trên, các vị soạn thảo hai Hiến Pháp 1947 Ý Quốc và 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức ( CHLBĐ) khởi đầu viết Hiến Pháp bằng cách quan niệm Con Người phải được đặt ở địa vị trung tâm điểm và tối thýợng trong tổ chức cõ chế Quốc Gia, chống lại quan niệm coi con ngýời nhý thú vật, bị ðánh ðập, tra tấn và lùa vào các lò sát sinh hay hầm chôn tập thể dýới chế ðộ ðộc tài Hitler và Mussolini.
Nói cách khác,tổ chức Quốc Gia ðýợc thành lập ðể phục vụ con ngýời chớ không ngýợc lại.
Trong quan niệm ðó, Hiến Pháp 1949 CHLBÐ tuyên bố về con ngýời ngay ở ðiều khoản ðầu tiên của Hiến Pháp:
- " Nhân phẩm con ngýời bất khả xâm phạm " ( Ðiều 1, ðoạn 1 Hiến Pháp CHLBÐ).
Và liên tục tuyên bố về
- các quyền cãn bản bất khả xâm phạm của con ngýời,
- phýõng thức ðể bảo vệ liên tiếp trong 19 ðiều khoản kế tiếp,
- trýớc khi ðịnh nghĩa thể chế và kết cấu tổ chức Quốc Gia nhý là dụng cụ ðể bảo ðảm, thực thi và tạo ðiều kiện thích ứng ðể phát triển con ngýời từ ðiều 20 trở ði.
Hành xử nhý vậy, các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 CHLBÐ muốn ðặt vị trí nổi bậc của con ngýời trong tổ chức Quốc Gia.
Con ngýời ở ðịa vị tối thýợng và trung tâm ðiểm của tổ chức Quốc Gia.
Mục ðích hiện hữu của tổ chức Quốc Gia là phục vụ con ngýời, giúp cho con ngýời ðạt ðýợc những gì mà cuộc sống riêng tý của mỗi cá nhân không có ðiều kiện và phýõng tiện ðể thực hiện.
Cho ðến bao giờ, Quốc Gia chýa có ðýợc một thể chế ðịnh hýớng ðể tổ chức ðất nýớc ðặt trên nền tảng trên tôn trọng Nhân Phẩm, Quốc Gia ðó còn chất chứa tranh chấp, lýờng lọc, chia rẻ, lấn áp, trả thù phục hận, là ðịa ngục trần gian.
Bởi lẽ thể chế và cõ chế của Quốc Gia tổ chức chống lại Bản Tính con ngýời, chống lại các ýớc vọng tự nhiên tự do và bình đẳng, do chính bản tính con người đòi buộc.
Chế độ của Hitler và Mussolini đã minh chứng.
Đó là những gì Hiến Pháp Hiến Pháp 1949 CHLBĐ tuyên bố kế tiếp trong cùng một điều khoản đầu tiên của Hiến Pháp:
- " Nhý vậy dân tộc Ðức nhìn nhận các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhýợng của con ngýời nhý là nền tảng của mọi cộng ðồng nhân loại, của hòa bình và công chính trên thế giới" ( Điều 1, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Cũng vậy, Hiến Pháp 1947 Ý tuyên bố về con ngýời từ ðiều 2 ðến ðiều 54, sau khi ðịnh nghĩa thế chế Dân Chủ của ðất nýớc nhý là phýõng thức tổ chức ðể bảo ðảm thực thi lý týởng Nhân Bản mà các ðiều khoản kế tiếp của Hiến Pháp sẽ tuyên bố.
Ngay ở ðiều 2 của Hiến Pháp, ðịa vị con ngýời ðýợc ðặt trên một vị trí nổi bậc:
- " Nền Cộng Hoà nhận biết ( riconosce) và bảo vệ ( garantisce) các quyền bất khả xâm phạm của con ngýời, con ngýời nhý cá nhân hay con ngýời nhý thành phần xã hội, nõi con ngýời phát triển nhân cách của mình…" ( Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
( 2 )
B- Con người và ngýời công dân.
Các vị soạn thảo của hai Hiến Pháp 1947 Ý Quốc và 1949 CHLBĐ đã dùng chữ rất chính xác để nóilên tý týởng quan trọng mà các vị ðã đặt vào những dòng đầu của Hiến Pháp.
Các vị đã dùng từ ngữ " con ngýời”, thay vì " người công dân” ðể nói lên tý týởng nhân bản tối thượng mà mọi ngýời phải tôn trọng:
- “ Nhân phẩm con ngýời bất khả xâm phạm” ( Ðiều 1, ðoạn 1 Hiến Pháp CHLBÐ),
- “ Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con ngýời…” ( Ðiều 2, Hiến Pháp 1947
( 1 ) - Con Người.
Khi ðề cập ðến “con ngýời ” là chúng ta ðề cập ðến những ðặc tính ðýợc cấu tạo do chính Bản Tính con ngýời xác ðịnh.
“Con ngýời ” ðó bất cứ là ai, bất cứ ở ðâu và bất cứ lúc nào.
Hể ðã là ngýời, chúng ta ðều có nhân vị và nhu cầu nhý nhau, cần phải ðýợc kính trọng và thoả mãn, không phân biệt màu da, sắc tộc, ngôn ngữ, chính kiến, tôn giáo, địa vị cá nhân và xã hội:
- " Mọi ngýời ðều bình đẳng trước pháp luật.
Người nam và người nữ ðều nganh hàng nhau, ðối với các quyền của mình.
Không ai có thể bị thiệt thòi hay được ưu đãi do phái tính, sinh trưởng, giòng giống, ngôn ngữ, quốc gia hay nguồn gốc, tín ngýỡng, lòng tin tôn giáo hay chính kiến" (Điều 3, đoạn 1,2 và 3 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Tư tuởng trên cắt nghĩa tại sao ngýời Ðức không tuyên bố “ trên lãnh thổ Đức …” hay “đối với dân tộc Đức, nhân phẩm con người bất khả xâm phạm”, mà chỉ tuyên bố một câu ngắn ngủi nhý là một mệnh lệnh phải tôn trọng:
- “ Nhân phẩm con ngýời bất khả xâm phạm” ( Ðiều 1, ðoạn 1, id.).
Mệnh lệnh của dân tộc Ðức ðã quá rõ: " Nhân phẩm con ngýời bất khả xâm phạm”, bất cứ con ngýời ðó là ai và “ bất khả xâm phạm ” ðối với bất cứ ai, bất cứ ở ðâu, bất cứ lúc nào, nếu những ngýời ðó muốn có một cuộc sống hòa bình và thân hữu đối với dân tộc Đức, vì đó
- “…là nền tảng của mọi cộng đồng nhân loại, của hòa bình và công chính trên thế giới" (Điều 1, đoạn 2, id.).
Nói cách khác, những thể chế và những ai hành xử theo những thể chế không tôn trọng nhân phẩm con ngýời là những ý thức hệ và con ngýời không thể nào có một cuộc sống cộng tác hòa bình và thân hữu với dân tộc Đức.
Bởi lẽ nếu họ không tôn trọng nhân phẩm con người, là họ miệt thị những giá trị mà dân tộc Đức đặt lên hàng đầu trong cuộc sống của mình.
( 2 ) - Người Công Dân.
Nhý trên ðã nói, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc và Hiến Pháp 1949 CHLBĐ dùng danh từ " con ngýời ” thay vì " ngýời công dân”, ðể nói lên tính cách phổ quát của lý týởng nhân bản mà bất cứ ai cũng phải ðýợc tôn trọng và ðối với bất cứ ai.
Trong chính trị học, khi ðề cập ðến “ ngýời công dân” là chúng ta nói ðến ngýời dân liên hệ với một tổ chức Quốc Gia cá biệt, có thể chế, luật lệ và cõ chế ðặc thù. Khi nói ðến ngýời công dân Ý chẳng hạn, là chúng ta đề cập đến người dân vừa kể liên quan đến tổ chức Quốc Gia Ý.
Quyền và nhiệm vụ của ngýời dân do ðó tùy theo luật pháp Quốc Gia Ý quy định.
Chúng ta đã thấy rằng Hiến Pháp 1947 Ý Quốc đề cập đến địa vị và các quyền căn bản bất khả xâm phạm của con người từ điều 2- 54 và Hiến Pháp 1949 CHLBĐ, từ điều 1-19, trước khi định nghĩa thể chế chính trị và phýõng thức tổ chức cõ chế quyền lực Quốc Gia từ ðiều 20 trở ði.
Trái lại Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết chỉ ðề cập ðến “ ngýời công dân” của họ từ ðiều 33 trở ði, sau khi ðã bàn thảo về thể chế chính trị ( điều 1-9), hệ thống kinh tế ( 10-18), phát triển xã hội và văn hóa ( 19-27), chính sách ngoại giao ( 28-30) và chính sách bảo vệ Quốc Gia và Chủ Nghĩa Xã Hội ( 31-33).
Điều đó cho thấy người dân được ý thức hệ Cộng Sản ban cho một chỗ đứng nào trong quan niệm tổ chức quốc Gia của họ.
Còn nữa, nếu Hiến Pháp 1947 Ý Quốc và 1949 CHLBĐ cũng như các Hiến Pháp Tây Âu đề cập đến “ con người ”, thì Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết chỉ đề cập đến “ người công dân”.
Và nếu Hiến Pháp 1947 Ý Quốc tuyên bố " nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người…” ( Điều 2), vì là những quyền
- " …được Đấng Tạo Hoá ban cho…” (Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776)
- hay “ là những quyền của con người do Thiên Phú bất khả nhýợng và cao qúy” ( Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân Cách Mạng Pháp 1789),
thì đây là những gì Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết ban cho " ngýời công dân” của họ:
- “ Nhân dân Sô Viết ( hay Ðảng Cộng Sản Sô Viết cũng vậy) ðýợc hýớng dẫn bằng tý týởng Cộng Sản Chủ Nghĩa khoa học và trung thành với các truyền thống Cách Mạng…xác ðịnh nền tảng của chế ðộ xã hội và chính trị của Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết, thiết định các quyền, tự do và bổn phận bắt buộc đối với người công dân, các nguyên tắc tổ chức và mục đích cho Quốc Gia Xã Hội Chủ Nghĩa của toàn dân" ( Tiền Đề, đoạn XIV Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết".
Nhý chúng ta vừa nói, khi ðề cập ðến “ ngýời công dân”, là chúng ta ðề cập ðến ngýời dân có liên hệ với tổ chức Quốc Gia. Quyền và bổn phận của ngýời dân tùy thuộc vào sự quyết ðịnh của thể chế và cõ chế Quốc Gia. Ðó là ðiều mà Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết tuyên bố:
- “ Nhân dân Sô Viết ( hay Ðảng CS SôViết) …thiết ðịnh quyền, tự do và bổn phận bắt buộc ðối với ngýời công dân”.
Ðiều ðó chứng tỏ rằng con ngýời sống dýới chế ðộ Cộng Sản chỉ là ngýời công dân liên hệ với tổ chức Quốc Gia Cộng Sản. Các quyền và tự do cũng nhý bổn phận phải do Ðảng Cộng Sản “ thiết ðịnh” cho mới có.
Và vì Đảng Cộng Sản có quyền “ thiết định” các quyền và tự do của ngýời dân họ, nên ai sống ngoài tổ chức của Cộng Sản, những ai không chấp nhận thể chế và cõ chế Cộng Sản, là ngýời không ðýợc thể chế luật pháp Cộng Sản “ thiết ðịnh”.
Ðiều ðó có nghĩa là những ai chống lại thể chế và cõ chế Cộng Sản, những nhà ly khai chẳng hạn, là những ngýời không có ðýợc một quyền và tự do nào: Cộng Sản có thể tiêu diệt họ.
Ngoài ra nếu giới hành quyền Cộng Sản có quyền “ thiết ðịnh” quyền và tự do của ngýời dân, thì họ cũng có quyền " không thiết định”, hay “thiết định nhiều hay ít và lúc nào tùy hỷ" : họ có thể giãm bớt hay truất hữu quyền làm ngýời của những ai sống dýới chế ðộ Cộng Sản.
Hay nói nhý Linh Mục Tiến Sĩ Hortz S.J.:
- “ Trong thể chế Cộng Sản không có con ngýời” ( Hortz S.J., La Nuova Costituzione Sovietica, in Civiltà Cattolica, 1978, 40).
Các vị soạn thảo Hiến Pháp 1947 Ý Quốc đã dùng từ ngữ rất chính xác, khi các vị xác nhận
- "…nhận biết và bảo đảm” các quyền bất khả xâm phạm của con người ”.
Ngoài ra tý týởng phổ quát về bản tính nhân loại của con ngýời mà ai cũng phải tôn trọng, nhý tý týởng của Hiến Pháp 1949 CHLBÐ vừa ðýợc ðề cập, các vị soạn thảo Hiến Pháp 1947 Ý Quốc dùng động từ “ nhận biết” và " bảo đảm”.
a) Nhận biết.
Trước hết dùng động từ “ nhận biết” hay “nhận ra” ( riconosce), các vị muốn nói lên ý nghĩa con ngýời với nhân phẩm cao cả và các quyền cãn bản bất khả xâm phạm của mình là những gì liên hệ đến Bản Tính con người.
Điều đó cho thấy con người, nhân phẩm và các quyền bất khả xâm phạm liên hệ với chính Bản Tính của mình, được “ Đấng Tạo Hoá ban cho…” hay “ …do Thiên Phú, bất khả nhýợng và cao qúy”.
Nói cách khác, con ngýời với nhân vị và các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhýợng của mình có trýớc tổ chức Quốc Gia, khi con ngýời ðýợc sinh ra.
Tổ chức Quốc Gia ðýợc thành lập, khi nhiều “ con ngýời” tập họp lại, suy nghĩ và cùng nhau ðồng thuận quyết ðịnh thành lập tổ chức Quốc Gia ðể mýu ích cho mỗi cá nhân và cho công ích của cuộc sống tập thể. Tổ chức Quốc Gia ðýợc khai sinh khi tập thể con ngýời với nhân vị và các quyền bất khả xâm phạm của họ ðồng thuận ðồng thuận ðứng ra tổ chức.
Quốc Gia sinh sau ðẻ muộn ðối với con ngýời và do chính con ngýời với ðịa vị và quyền bất khả xâm phạm của mình đứng ra thành lập.
Do đó khi được mở mắt chào đời, tổ chức Quốc Gia phải “ nhận biết” hay “nhận ra” chính con người đã sinh ra mình với nhân vị và các quyền bất khả xâm phạm " được Đấng Tạo Hoá ban cho” hay “ …do Thiên Phú, bất khả nhýợng và cao qúy”.
Ðó cũng chính là tý týởng của Linh Mục Luigi Sturzo, vị sáng lập Ðảng Ðại Chúng Ý (Partito Popolare Italiano) và một trong những lý thuyết gia ảnh hýởng ðến ðịnh hýớng nhân bản Hiến Pháp 1947 Ý Quốc:
- " Đối với chúng tôi, Quốc Gia là một tổ chức xã hội được tổ chức theo đường lối chính trị để đạt được những mục tiêu đặc biệt.
Quốc Gia không bóp nghẽn, không tiêu hũy, không tác tạo ra các quyền của con ngýời, của gia ðình, của xã ấp, của đoàn thể, của tôn giáo.
Quốc Gia chỉ nhận biết và bảo đảm, phối hợp các quyền đó trong giới hạn hoạt động của mình.
Đối với chúng tôi, Quốc Gia không phải là tự do. Quốc Gia cũng không ở trên tự do. Quốc Gia chỉ nhận biết và phối hợp, định chế các giới hạn để người dân xử dụng tự do không làm băng hoại thành giấy phép…" ( Don Luigi Sturzo, Il Partito Popolare, vol II: Popolarismo e Fascismo ( 1924), Zanichelli, Bologna 1956, 107).
" Nhận ra" ai là ngýời ðã khai sinh ra mình và địa vị và các quyền bất khả nhýợng của chủ thể ðã sinh ra mình, Quốc Gia đồng thời cũng nhận biết đâu là mục đích của các hoạt động của mình và lý do tồn tại của mình.
b) Bảo Đảm
Mục đích v
- “ Nền Cộng Hoà " nhận biết và bảo đảm” các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần xã hội, nõi con ngýời phát triển nhân cách của mình…" ( Điều 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
( a ) - Bảo đảm tiêu cực.
Phýõng pháp “bảo ðảm” trýớc tiên ai trong chúng ta cũng biết ðó là tuyên bố các ðiều khoản cấm ðoán bắt buộc dýới hình thức tiêu cực:
- " Tự do cá nhân bất khả xâm phạm".
Điều đó có nghĩa “ phía bên kia hay mọi ngýời khác không ðýợc xâm phạm, mọi ngýời khác có bổn phận phải tôn trọng…”.
- Mọi ngýời khác ðó là ai?
- Bất cứ ai, kể cả chính quyền và nhứt là chính quyền. Bởi vì các tổ chức Quốc Gia, nhứt là chính quyền, là những tổ chức hay vi phạm các quyền căn bản của con người hơn ai hết.
Đó là những gì Giáo Sý Giovanni Sartori viết lên khi nêu lên ðặc tính của Hiến Pháp:
- “ Hiến Pháp là một vãn bản bảo chứng ( garantismo). Ở Tây Âu, ngýời dân ðòi buộc phải có Hiến Pháp, nếu muốn thiết lập Quốc Gia. Hiến Pháp đối với họ là một văn bản luật pháp nền tảng hay một loạt các nguyên tắc căn bản, thể hiện thể chế Quốc Gia, nhằm giới hạn mọi các xử dụng quyền hành tự tung tự tác và bảo đảm một chính quyền có giới hạn” (G. Sartori, Elementi di teoria politica, II ed., Bologna, Il Mulino 1995, 18).
Và rồi nhý chúng ta ðã có dịp bàn đến, tuyên bố dýới hình thức tiêu cực hay chép lại " sao y bản chính " các điều về nhân quyền của Tuyên Ngôn Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, ai cũng làm được.
Các Hiến Pháp XHCN Cộng Sản Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết và Việt Nam " sao y bản chính" không sót một điều nào.
Nhýng việc quan trọng là sau khi “ copy” kỹ lýỡng cần phải tiền liệu các ðiều khoản ðể thực hiện. Nhân bản hay không, dân chủ hay không, không phải là tuyên bố “ sao y bản chính”, mà là ðịnh trýớc các ðiều khoản luật ðể biến những lời tuyên bố thuyết lý thành thực hữu và biến các điều khoản trên thành luật lệ thực định ( lois positives).
* - Hiến Pháp cứng rắn.
Đọc các Hiến Pháp nhân bản Tây Âu, đặc tính đầu tiên ai trong chúng ta cũng thấy được, đó là đặc tính cứng rắn ( rigide) của Hiến Pháp.
Điều đó có nghĩa là muốn tu chính , sửa đổi một hay nhiều điều khoản của Hiến Pháp, chúng ta cần hội đủ những điều kiện gia trọng mà Hiến Pháp đã tiền liệu.
Sở dĩ đặt ra những điều kiện gia trọng là để cho ai muốn sửa đổi, cắt bỏ hoặc thêm bớt vào Hiến Pháp sẽ gặp phải những điều kiện khó khăn. Điều đó khiến cho Hiến Pháp khó sửa đổi và nhý vậy Hiến Pháp ðýợc bền vững, ðể bảo ðảm những gì Hiến Pháp xác tín nhý là lý týởng và không muốn bị cắt xén, sửa ðổi, thêm bớt.
Ðiều kiện gia trọng vừa kể ðể có thể sửa ðổi ðýợc Hiến Pháp 1949 CHLBÐ tuyên bố:
Con số tỷ lệ vừa kể, chúng tôi nghĩ rằng không phải là con số dễ thực hiện.
Chúng ta thử so sánh với ðiều kiện chỉ cần ða số tuyệt ðối ( 50%+1 phiếu) là Hạ Viện có ðủ túc số chọn vị Thủ Týớng ( Kanzler) mới, ðể thành lập Tân Nội Các và ðiều khiển Hành Pháp, không cần có sự ðồng thuận của Thýợng Viện:
- “ Ðược tuyển chọn Thủ Týớng ai có khả nãng quy tựu về phía mình số phiếu của đa số thành viên Hạ Viện" ( Điều 63, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Và trong trýờng hợp bất khả kháng, ngay cả ai chỉ thu ðýợc ða số týõng ðối của Hạ Viện, trong vòng 7 ngày sau cũng có thể được Tổng Thống Liên Bang bổ nhiệm Thủ Tướng:
* - Các điều khoản bất di dịch.
Ngoài ra tính cách cứng rắn vừa kể của Hiến Pháp, các vị soạn thảo cũng tiền liệu tính cách bất di dịch của một số điều khoản mà các vị cho là cột trụ của toà nhà Quốc Gia. Xoá bỏ đi những nguyên tắc cắn bản cột trụ đó, toà nhà Cộng Hoà Liên Bang Đức sẽ không còn nữa và nhý vậy lý týởng Nhân Bản mà dân tộc Ðức muốn bảo vệ cũng không còn nơi nương tựa.
Do ðó tính cách bất di dịch, không ai có thể sửa ðổi, với bất cứ ðiều kiện nào, ðýợc Hiến Pháp tuyên bố:
- “ Không thể chấp nhận bất cứ sự thay ðổi nào ðối với Hiến Pháp nầy, liên hệ ðến sự týõng quan giữa Cộng Hoà Liên Bang ( Bund) và các Tiểu Bang ( Laender), nhứt là liên quan ðến việc tham gia của các Tiểu Bang vào quyền lập pháp hoặc liên hệ ðến các nguyên tắc ðýợc tuyên bố nõi các ðiều 1 và 20” ( Ðiều 79, ðoạn 3 Hiến Pháp 1949 CHLBÐ).
Và nhý chúng ta ðều biết, ðiều 1 của Hiến Pháp 1949 ðề cập ðến nhân phẩm bất khả xâm phạm và ðiều 20 là ðiều ðịnh nghĩa thể chế chính trị của Quốc Gia Ðức:
Như vậy hai nguyên tắc nền tảng về địa vị bất khả xâm phạm của con người và thể chế liên bang, dân chủ và xã hội của Quốc Gia Đức là những nguyên tắc bất di dịch của toà nhà Quốc Gia Đức.
* - “Hạn chế quyền quyết định đối với luật pháp” ( riserva di legge).
Vì Hiến Pháp là văn bản nền tảng của mọi luật pháp Quốc Gia, nên Hiến Pháp không thể nào dự đoán được tất cả mọi điều khoản luật pháp cần thiết điều hành cuộc sống Quốc Gia sau nầy.
Ðó là ðiều chúng ta thýờng ðọc thấy qua các thành ngữ “ …do luật lệ ấn ðịnh”, “ …theo luật lệ hiện hành”:
- “ Mọi người ðều có quyền hội họp tự do và không võ trang, không cần báo trýớc và cũng không cần xin phép.
Ðối với các cuộc hội họp ở những nõi công cộng, quyền tự do hội họp có thể bị luật pháp giới hạn hoặc phải tuân theo luật lệ hiện hành” ( Ðiều 8, ðoạn 1-2 Hiến Pháp 1949 CHLBÐ).
Nói vậy chớ không phải vậy.
Mặc dầu các vị soạn thảo Hiến Pháp ủy thác cho “ do luật lệ ấn ðịnh”, “theo luật lệ hiện hành”, nhýng các vị vẫn chýa ngủ yên, với cõn ác mộng của các bóng ma ðộc tài Benito Mussolini và Rudolf Hitler lúc nào cũng có thể tái xuất hiện.
Do ðó các vị tăng cường thêm một kỹ thuật thứ hai, ðó là hạn chế quyền quyết ðịnh tăng cường ðối với luật pháp ( riserva rinforzata di legge).
Ðành rằng ðối với cuộc sống thiết thực thýờng nhật, mọi việc ðều “… do luật lệ ấn ðịnh” , “theo luật lệ hiện hành”.
Nhýng pháp luật không thể “ ấn ðịnh” và “ hiện hành” thế nào tùy hỷ.
Mussolini và Hitler cũng ðã tùy hỷ " ấn định ” và " hiện hành" quá nhiều, với hàng triệu ngýời bị thảm sát trong các lò sát sinh hoặc dýới các mồ chôn tập thể.
Bởi ðó qúy vị soạn thảo Hiến Pháp phải ðứng ra tiên liệu “ ấn ðịnh” và “ hiện hành” thế nào, trong giới mức nào, pháp luật trong týõng lai phải “ ấn ðịnh”:
- “ Luật pháp phải có giá trị phổ quát, chớ không riêng cho từng trýờng hợp cá biệt.
- Luật pháp phải ðề cập rõ ràng đến quyền căn bản và trích dẫn điều khoản của Hiến Pháp liên hệ.
- Không thể có trýờng hợp giới hạn nào, trong ðó một quyền cãn bản bị vi phạm ðến nội dung thiết yếu của mình" ( Điều 19, đoạn 1.2 và 3 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Các vị “ ấn định” cho luật pháp “phải ấn định” khi một cá nhân bị tình nghi bắt giữ:
- " Tự do cá nhân chỉ có thể bị giới hạn do một điều luật phổ quát quy định và luôn tuân theo thể thức được ghi trong điều luật đó.
- Người bị bắt giữ không thể bị ngược đãi về tinh thần cũng nhý thể xác.
- Tính cách có thể chấp nhận ðýợc và thời gian kéo dài của việc truất hữu quyền tự do chỉ có vị thẩm phán có quyền ðịnh ðoạt. Trong trýờng hợp quyền tự do bị truất hữu không do tý pháp ra lệnh, cần phải cấp bách yêu cầu quyết ðịnh của tý pháp. Cảnh sát tự mình không có quyền bắt giữ ai quá ngày hôm sau khi bị bắt.Các chi tiếc sẽ được luật pháp quy định.
- Bất cứ ai bị cầm giữ, vì nghi ngờ phạm pháp, có cùng lắm là ngày hôm sau khi bị bắt, phải được dẫn đến trước thẩm phán. Vị thẩm phán phải báo cho đương sự biết lý do bị buộc tội, nghe bị cáo trình bày các lý do của mình. Thẩm phán sau khi nghe týờng trình, phải ra trác tống giam hoặc trả tự do tức khắc" ( Điều 104, đoạn 1-2-3 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Và khi cá nhân bị bắt giữ, các vị cũng " ấn định” để luật lệ “phải ấn định” nhân sự và phýõng thức xét xử:
- “ Không thể chấp nhận các tòa án đặc biệt. Không ai có thể bị thuyên chuyển ra khỏi thẩm quyền xét xử của vị thẩm phán được luật pháp tiên liệu.
- Toà án dành riêng cho các vấn đề đặc biệt chỉ có thể được thiết lập do luật lệ định sẳn” ( Điều 101, đoạn 1-2, id.).
Cũng vậy:
- “ Các thẩm phán được độc lập và chỉ phải tuân theo luật pháp.
- Các thẩm phán đã nhập ngạch vĩnh viễn và các thẩm phán chuyên nghiệp chỉ có thể bị giải nhiệm trýớc ðịnh kỳ, hoặc bị cấm hành nghề vĩnh viễn hay tạm thời, thuyên chuyển ði nõi khác hoặc cho về hýu trái với ý muốn của họ, do cõ quan tư pháp quyết ðịnh và vì những lý do được luật pháp định trước” ( Điều 97, đoạn 1-2, id.).
Và sau cùng khi con ngýời bị kết án, mặc dầu trở thành phạm nhân con người vẫn còn là con người, nên:
- “ Hình phạt không thể nào gồm những phương thức ðối xử vô nhân ðạo và phải nhằm cải hoá ngýời bị kết án” ( Ðiều 27, ðoạn 3 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
( b) Bảo đảm tích cực.
Muốn cho con người được hưởng các quyền bất khả xâm phạm của mình, Quốc Gia không những chỉ có bổn phận bênh vực con ngýời dýới hình thức tiêu cực, tuyên bố luật lệ và tiền liệu những phương thức ðể không ai ðýợc lạm dụng, áp chế con người, như những ðiều khoản vừa kể.
Hiến Pháp còn có bổn phận tạo điều kiện thuận lợi và tiền liệu các phương tiện ðể con người không những ðýợc hýởng quyền và tự do của mình ở mức tối thiểu mà còn hưởng trọn vẹn và phát triển các quyền và tự do ðó cho cá nhân mình và góp sức xây dựng cuộc sống khang trang thịnh výợng cho ðồng bào mình:
- " Bổn phận của Nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là những chướng ngại, trong khi giới hạn thực sự tự do và bình đẳng của người dân, không cho phép họ triển nở hoàn hảo con ngýời của mình và tham dự thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở" ( Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
“ …dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội…", tạo điều kiện thuận tiện cho con người, không còn phải bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất, để con người được tự do triển nở và có khả năng góp sức tạo thịnh vượng phú cường cho đồng bào mình.
Đó là lời tuyên bố tích cực bổn phận cao cả mà Quốc Gia được thể chế Nhân Bản giao phó cho, như những gì Hiến Pháp 1949 CHLBĐ tuyên bố dýới hình thức tiêu cực:
- " Các quyền sẽ được liệt kê sau đây có hiệu lực đối với lập pháp, hành pháp và tư pháp, như là những quyền ðòi buộc trực tiếp" ( Điều 1, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Áp dụng tiến trình đó vào cuộc sống của mỗi cá nhân, chúng ta sẽ thấy rằng Hiến Pháp không những luôn luôn bảo vệ chống lại mọi biện pháp áp bức, " không ai được…”,
mà còn bảo đảm cho con người có đủ điều kiện để phát triển,
- “ Bổn phận của nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội…".
1 ) Hiến Pháp bảo đảm cho con người có điều kiện thuận lợi để được sinh ra:
“ Nền Công Hoà dành mọi điều kiện dễ dàng về kinh tế và những phương tiện tiền liệu xã hội khác để gia đình được thành lập, và để gia đình chu toàn các bổn phận liên hệ, nhứt là đối với những gia đình đông con” ( Điều 31, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
- “ Nền Cộng Hoà bảo vệ quyền làm mẹ, trẻ thơ và tuổi trẻ, bằng cách thiết lập các tổ chức liên hệ cho mục ðích vừa kể ” ( Ðiều 31, ðoạn 2, id.).
3 ) Và tuyên bố không phải chỉ ðể tuyên bố, Hiến Pháp quy trách rỏ rệt cho cha mẹ phải lo liệu bổn phận giáo dục và giúp ðở con cái:
- “ Cha mẹ có quyền và bổn phận nuôi dýỡng, dạy dỗ và giáo dục con cái, ngay cả ðối với những ðứa con ngoại hôn cũng vậy”( Ðiều 30, ðoạn 1, id.).
Khi cha mẹ không có khả năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái,
- " Trong trýờng hợp cha mẹ không có khả nãng, luật pháp tiền liệu các phương thức ðể họ chu toàn nhiệm vụ của họ” ( Ðiều 30, ðoạn 2, id.).
4 ) Lúc chú bé lớn lên:
- “ Học ðường ðược mở ra cho tất cả mọi người.
Nền giáo dục ở cấp thấp ðýợc huấn dạy ít nhứt là tám nãm ( 12 năm với tu chính án mới), miễn phí và bắt buộc.
Ðối với những ai có khả nãng và ðáng ðýợc týởng thýởng, dẩu cho thiếu phương tiện, cũng có quyền ðạt ðến những cấp bực cao nhứt của học vấn.
Nền Cộng Hoà biến biến quyền học vấn nầy thành thực hữu bằng học bổng, phụ cấp gia ðình và các phýõng thức tiền liệu khác , ðược cấp phát qua cuộc thi tuyển” ( Ðiều 34, id.).
5 ) Dĩ nhiên không những Quốc Gia chỉ chãm nom các công dân lành mạnh.
- “ Những ai tật nguyền và khiếm khuyết cũng có quyền ðýợc giáo dục và ðýợc giáo huấn hýớng dẫn ðể khởi công nghề nghiệp” ( Ðiều 38, ðoạn 3, id.).
6 ) Quốc Gia cũng ðứng ra bênh vực những thành phần yếu thế:
- “ Ngýời phụ nữ làm việc có mọi quyền và, với việc làm nhý nhau, ðýợc thù lao nhý ngýời công nhân nam giới. Các ðiều kiện làm việc phải ðýợc thiết ðịnh thế nào ðể ngýời phụ nữ làm việc có thể chu toàn bổ phận thiết yếu ðối với gia ðình, bảo vệ cho ngýời mẹ và ðứa trẻ bằng một sự bảo vệ ðặc biệt” ( Ðiều 37, ðoạn 1, id.).
7) Quốc Gia bảo vệ người làm việc không bị bốc lột:
- “ Ngýời làm việc có quyền ðýợc thù lao tương xứng với số lượng và phẩm chất việc làm của mình. Dù sao đi nữa, lương bỗng cũng đầy đủ để bảo đảm cho chính mình và gia đình mình một cuộc sống tự do và xứng đáng với nhân phẩm”. ( Điều 36, đoạn 1, id.).
- Quyền tư hữu là quyền được luật pháp nhìn nhận và bảo đảm. Pháp luật xác định các phương thức để chiếm hữu, hưởng thụ và các giới hạn để bảo đảm tính cách xã hội của của cải và để mọi người đều có thể có của được” ( Điều 42, đoạn 2, id.).
- “ Người làm việc có quyền được tiền liệu và bảo đảm các phương tiện thỏa đáng để đáp ứng lại các nhu cầu của cuộc sống, trong trường hợp bị tai nạn, bệnh hoạn, tàn tật , già nua và thất nghiệp ngoài ý muốn" ( Điều 38, đoạn 2, id.).
Và trong khoản cuộc đời làm việc, Quốc Gia có bổn phận
Điều đó cho thấy rằng việc gián chức, xuống hạng đối với những ai đang làm việc là cách hành xử hạ nhục nhâm phẩm. Quốc Gia và cả giới chủ nhân là những chủ thể có bổn phận trực tiếp được Hiến Pháp quy trách phải tổ chức các lớp đào tạo và thăng tiến chức nghiệp để người làm việc luôn được tiến lên trên giai cấp chức nghiệp của mình.
8 ) Trong trường hợp ðau ốm:
- “ Nền Cộng Hòa bảo vệ sức khoẻ nhý là quyền cãn bản của cá nhân và lợi ích của cộng ðồng xã hội, và bảo đảm chữa trị miễn phí cho những ai thiếu phương tiện” (Điều 32, id.).
Quyền được bảo vệ sức khoẻ không những là quyền được chữa trị khi đau ốm, mà là quyền được tiền liệu để bảo đảm trong cuộc sống thường nhật, môi sinh, thức ăn, nước uống, nhà ở hợp vệ sinh; được chữa trị khi đau ốm và hồi phục khả năng sau thời gian lành bệnh.
Nói tóm lại, trong thể chế Nhân Bản thực hữu,
- con ngýời không chỉ ðýợc bảo vệ bằng các nguyên tắc tuyên bố suông, mà còn bằng các điều khoản Hiến Pháp và luật pháp quy trách và bắt buộc thực hiện đối với cơ chế Quốc Gia có trách nhiệm;
- con người không những được bảo vệ dưới hình thức tiêu cực, tự do con người ðược bảo vệ khỏi bị doạ nạt, vi phạm, ðàn áp, chống lại mọi phýõng thức hành xử lạm quyền, bất cứ từ ðâu ðến hay “tự do khỏi ” ( liberté de…),
- mà còn được bảo đảm bằng việc Quốc Gia có bổn phận tạo các điều kiện thuận tiện và cõ chế thích hợp ðể con ngýời có thể phát triển chính mình và cộng tác đem lại phú cường, tiến bộ cho đất nước. Nói cách khác con người được tự do tiến đến thành đạt nhờ cơ chế Quốc Gia ( liberté par moyen de…).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét