Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013
Vấn đề Đảng trong Hiến pháp Liên Xô
15:59
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phần lớn các nước tự nhận là dân chủ đều do một (hoặc một liên minh vài
đảng) cầm quyền. Nhưng Hiến pháp hầu hết các nước đều không nói gì về
đảng cầm quyền, trừ một số nước xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc nói Điều 4 Hiến pháp Việt
Nam là học theo Điều 6 Hiến pháp Liên Xô. Vậy Hiến pháp Liên Xô nói về
vấn đề đảng cầm quyền như thế nào ?
Liên Xô trong
thời gian tồn tại 1917-1991 chỉ có một chính đảng duy nhất là Đảng Cộng
sản và đã sử dụng 4 bản Hiến pháp, trong đó hai bản Hiến pháp đầu không
đề cập tới Đảng Cộng sản Liên Xô, dù Đảng đã lãnh đạo nhà nước ngay từ
sau Cách mạng Tháng Mười.
1- Hiến pháp 1918 (còn gọi là Hiến pháp Lê-nin) có tên là Hiến pháp (Luật cơ bản) nước cộng hòa XHCN Liên bang Nga.[1]
Hiến pháp 1918 do Đại hội Xô Viết toàn Nga lần thứ 5 thông qua ngày
10-7-1918, là bộ Hiến pháp XHCN đầu tiên trên thế giới, gồm Lời Nói Đầu
(rất ngắn, không thuộc chính văn) và 6 phần, cộng 17 chương, 90 điều.
« Phần Một : Tuyên ngôn quyền lợi của nhân dân lao động bị bóc lột » do
Lê-nin tự tay soạn thảo, gồm 4 chương.
Toàn bộ chính văn Hiến pháp 1918 không thấy chỗ nào nói tới từ « đảng cộng sản »
2- Hiến pháp 1924 (Lê-nin có chỉ đạo soạn thảo) có tên là Hiến pháp (Luật cơ bản) Liên bang Cộng hòa XHCN Xô Viết, được thông qua ngày 31-1-1924 [2].
Hiến pháp gồm hai phần. Phần Một là Tuyên ngôn thành lập Liên bang các nước cộng hòa XHCN Xô Viết. Phần Hai
là Hiệp ước thành lập Liên bang, gồm 11 chương, cộng 72 điều. Hiến pháp
này không có các quy định về chế độ xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của
công dân ; những nội dung đó do Hiến pháp của từng nước cộng hòa quy
định riêng.
Toàn bộ chính văn Hiến pháp 1924 không có từ « đảng cộng sản »
3- Hiến pháp 1936,
còn gọi là Hiến pháp Xta-lin [3], giữ tên gọi như cũ, gồm 13 chương,
cộng 146 điều, được Đại hội đại biểu bất thường lần thứ VIII của Xô Viết
Liên Xô thông qua ngày 5-12-1936. Tại đại hội này Xta-lin tuyên
bố Liên Xô đã xây dựng xong chế độ XHCN, hiện tượng người bóc lột người
đã bị tiêu diệt. Điều đáng quý là Hiến pháp có quy định « Các Thẩm phán
viên được độc lập, chỉ phục tùng pháp luật » ; « Các cơ quan kiểm sát
độc lập hành xử quyền hạn ».
Đây là bộ Hiến pháp tồn tại lâu nhất (41 năm) và lần đầu tiên nói tới vấn đề vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô.
Đáng chú ý là vấn đề này không nói tại các chương trình bày về cơ cấu
xã hội và nhà nước, mà chỉ nói một cách sơ lược, không có tính chất quy
định pháp lý chặt chẽ tại một phần trong Điều 126 thuộc « Chương X —
Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân ».
Điều 126 viết : « Để
phù hợp với lợi ích của người lao động và nhằm phát huy tính tự lập về
tổ chức và tính tích cực về chính trị của quần chúng nhân dân, công dân
Liên Xô được đảm bảo có quyền tập hợp trong các tổ chức xã hội như :
công đoàn, hợp tác xã, đoàn thanh niên, các tổ chức thể thao và quốc
phòng, các hội văn hóa, khoa học và kỹ thuật ; và những công dân tích
cực và giác ngộ nhất trong hàng ngũ giai cấp công nhân, nông dân lao
động và trí thức lao động tự nguyện tập hợp lại trong Đảng Cộng sản Liên
Xô, là đội ngũ tiên tiến của nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh
nhằm xây dựng xã hội cộng sản và là hạt nhân lãnh đạo của tất cả các tổ
chức của nhân dân lao động, gồm các tổ chức xã hội cũng như các tổ chức
nhà nước. »
[ARTICLE 126. In conformity with the interests of the working people,
and in order to develop the organizational initiative and political
activity of the masses of the people, citizens of the U.S.S.R. are
ensured the right to unite in public organizations--trade unions,
cooperative associations, youth organizations,' sport and defense
organizations, cultural, technical and scientific societies; and the
most active and politically most conscious citizens in the ranks of the
working class and other sections of the working people unite in the
Communist Party of the Soviet Union (Bolsheviks), which is the vanguard
of the working people in their struggle to strengthen and develop the
socialist system and is the leading core of all organizations of the
working people, both public and state.]
Như vậy Điều 126 không nói Đảng Cộng sản là đảng lãnh đạo nhà nước
mà chỉ là một tổ chức đoàn thể có tính chất là hạt nhân lãnh đạo tất cả
các tổ chức đoàn thể khác của người lao động, gồm các tổ chức đoàn thể
xã hội (như các hội nghề nghiệp, câu lạc bộ…) và các tổ chức đoàn thể do
nhà nước lập ra (như công đoàn, đoàn thanh niên v.v…).
4- Hiến pháp 1977 còn
gọi là Hiến pháp Brê-giơ-nep [4], gồm 9 phần, 21 chương, cộng 174 điều,
được thông qua ngày 7-10-1977. Nó thừa kế các tư tưởng và nguyên tắc cơ
bản của 3 bộ Hiến pháp trước, nhưng có một số phát triển và thay đổi,
chủ yếu là : 1) Tuyên bố Liên Xô là Nhà nước XHCN toàn dân, Đảng Cộng sản Liên Xô là lực lượng lãnh đạo và dẫn dắt xã hội Liên Xô. 2) Quy định cơ sở chế độ kinh tế Liên Xô là chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất, gồm hai hình thức : nhà nước (toàn dân) và tập thể.
Hiến pháp 1977 làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô bằng Điều 6 ở « Chương I — Chế độ chính trị » :
« Đảng
Cộng sản Liên Xô là lực lượng lãnh đạo và dẫn dắt xã hội Xô viết, là
hạt nhân của hệ thống chính trị, của nhà nước và các tổ chức xã hội.
Đảng Cộng sản Liên Xô tồn tại vì nhân dân và phục vụ nhân dân. Đảng Cộng
sản Liên Xô được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin quyết định chính
sách đối ngoại, đối nội của Liên Xô, lãnh đạo các hoạt động sáng tạo vĩ
đại của nhân dân Liên Xô, làm cho cuộc đấu tranh giành thắng lợi cho chủ
nghĩa cộng sản có đặc điểm là có kế hoạch, có căn cứ khoa học. Mọi tổ chức đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp Liên Xô. »
Quy định này có tính pháp lý rõ rệt, khác với Điều 126 Hiến pháp 1936.122
Hiến pháp 1977 ra đời khi Đảng Cộng sản Liên Xô, từ sau ngày Xta-lin
mất, đang trượt dài trên con đường suy thoái biến chất, uy tín Đảng giảm
sút, tình trạng dân không nghe Đảng tăng dần. Có lẽ vì thấy tình trạng
bất lợi này mà Brê-giơ-nep chủ trương dùng Hiến pháp để buộc mọi tổ chức
nhà nước và xã hội phải tuân theo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhưng ý
định bảo vệ đặc quyền ấy lại gây phản tác dụng. Một số đảng viên đã lợi
dụng Điều 6 làm phương tiện tìm kiếm đặc quyền đặc lợi cho mình, làm
giàu bất chính. Chính con trai và con rể Brê-giơ-nep đều thăng tiến
nhanh, con gái ông trở thành triệu phú đô-la.
Báo Thời Nay
viết : Tầng lớp đặc quyền trong Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ từng bước
hình thành sau khi Brê-giơ-nep nắm quyền, nhất là vào giai đoạn cuối.
Dưới thời Brê-giơ-nep, tình trạng tham nhũng tại Mat-xcơ-va và các nước
cộng hòa ngày càng nghiêm trọng. Đặc quyền còn trở thành “lá bùa hộ
mệnh” để cán bộ lãnh đạo mặc sức tham nhũng mà không bị cản trở. Đối với
tầng lớp đặc quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đi từ chỗ ít ngăn chặn đến
không tấn công, rồi bao che, thậm chí dung túng, khiến cho khối u ác
tính này phát triển và lây lan nhanh chóng trên chính cơ thể của mình.
Hậu quả làm Đảng càng biến chất, suy thoái, tham nhũng nặng, nảy sinh
bè phái, những kẻ nịnh bợ Brê-giơ-nep thăng tiến nhanh. En-xin Bí thư
Thành ủy Mat-xcơ-va đã lợi dụng việc phê phán tình trạng đó để tạo uy
tín cá nhân, khuynh đảo dư luận, góp phần đẩy nhanh sự sụp đổ của Đảng
Cộng sản.
Chủ trương hạn chế tự do ngôn luận đã gây phản tác dụng. Trong khi
truyền thông chính thống lớn tiếng ca tụng Brê-giơ-nep và Đảng Cộng sản
thì nhân dân ngày càng ớn ghét tình trạng tham nhũng trong Đảng, nhưng
họ bị bịt miệng không được nói, vì thế Brê-giơ-nep không nắm được lòng
dân. Mãi cho tới trước khi Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ không lâu, qua
một cuộc thăm dò dân ý về chủ đề « Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho
ai ? » người ta mới biết có tới 85% số người được hỏi cho rằng Đảng đại
diện cho quan chức, cán bộ và nhân viên nhà nước. [5] Nghĩa là Đảng Cộng
sản đã xa rời lợi ích của nhân dân. Và cái gì phải đến ắt sẽ đến.
Tháng 3-1990, Đại hội Đại biểu nhân dân Liên Xô thông qua quyết định
sửa đổi Hiến pháp, hủy bỏ quy định về địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Liên Xô, tuyên bố tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả các chính đảng tham
gia xây dựng và quản lý nhà nước, xã hội. Sau sự kiện 19-8-1991, Đảng
Cộng sản Liên Xô tự giải thể.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận định rất đúng: Liên Xô tan rã « có
một nguyên nhân rất cơ bản chính là vì Đảng Cộng sản lúc đó đã suy
thoái, biến chất do quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi… » [6].
Đặc quyền sẽ tạo ra đặc lợi. Khi có đặc quyền, những đảng viên
phẩm chất kém lập tức sử dụng nó để kiếm đặc lợi cho mình, khiến cho
tham nhũng tràn lan như một bệnh dịch, làm hư hỏng cả một đảng cách mạng
vĩ đại. Điều 6 Hiến pháp tạo ra đặc quyền cho nên làm hại Đảng. Ý định
của Brê-giơ-nep rốt cuộc chẳng những không bảo vệ được vai trò lãnh đạo
của Đảng mà còn góp phần làm Đảng nhanh chóng suy thoái, trượt dài tới
chỗ cuối cùng Đảng Cộng sản tan rã, nhà nước XHCN hùng mạnh nhất thế
giới sụp đổ trong sự thờ ơ của 280 triệu công dân Liên Xô, trong đó có
21 triệu đảng viên. Hậu quả vô cùng đau xót : người bị thiệt hại nhất
chính là nhân dân Liên Xô chứ không phải những kẻ đã vơ vét đầy túi nhờ
đặc quyền đặc lợi.
Tổng Bí thư Brê-giơ-nep đã quên mất một chân lý : lòng dân mạnh hơn mọi
thứ, kể cả Hiến pháp ; được lòng dân thì mới giữ được vai trò lãnh đạo
của Đảng ; mất lòng dân thì mất tất cả.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét