Có một câu chuyện hài hước về các nhà kinh tế học như thế này: có ba nhà
kinh tế học đi săn vịt, người thứ nhất bắn từ phía trước con vịt, cách
nó 20 mét, người thứ hai bắn từ phía sau con vịt, cách nó 20 mét, còn
người thứ ba thì nói rằng "Tuyệt thật, thế là chúng ta đã có vịt để
ăn".
Giờ thì hãy gác chuyện hài này sang một bên, và thừa nhận một thực tế
rằng có rất nhiều nhà kinh tế học đã làm được những điều không ai tin
nổi, cũng có một số người đã có những đóng góp to lớn cho lịch sử ngành
tài chính cũng như mang lại những giá trị lớn lao cho xã hội. Trong bài
viết này xin được giới thiệu đôi nét về 5 nhà kinh tế học vĩ đại, và
những cống hiến to lớn của họ cho lịch sử.
Ông là một nhà triết học và là một nhà kinh tế chính trị học người Scotlen. Ông nổi tiếng bởi cuốn sách "Nguồn gốc của cải của các quốc gia" - The wealth of nation (1776)
đây là một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất và nổi tiếng nhất về
thương mại và công nghiệp, được công nhận là có đóng góp to lớn cho các
nguyên lý kinh tế học hiện đại.
Adam Smith kịch liệt phản đối chủ nghĩa trọng thương và ủng hộ cho tự do
thương mại, và chính điều này là một thách thức đối với những hàng rào
thuế quan bảo hộ đương thời. Adam Smith đôi khi còn được coi là cha đẻ
của thương mại hiện đại trong nền kinh tế toàn cầu. Hãy thử tưởng tượng
xem cuộc sống này sẽ tẻ nhạt và nhịp sống này sẽ chậm rãi biết bao nhiêu
nếu hoạt động ngoại thương bị ngăn cấm. Vào giai đoạn cuối đời, phần
lớn các bản thảo của Smith đã bị hủy, chỉ còn lại một số tác phẩm, vì
thế chúng ta đã không có cơ hội để chạm đến các tác phẩm cuối cùng của
ông.
Những đóng góp của Ricardo cho lịch sử kinh tế học có lẽ mang tính thực
tiễn nhiều hơn Smith. Ngay từ năm 14 tuổi, Ricardo đã theo cha lên làm
việc trên sàn chứng khoán London (London Stock Exchange), và nhanh chóng
trở thành một bậc thầy trong đầu cơ chứng khoán và bất động sản.
Ông là người con thứ 3 trong một gia đình Bồ Đào Nha gốc Do Thái có 17
người con. Có lẽ chính gia đình ông là nguồn động lực rất mạnh mẽ thúc
đẩy ông trên con đường sự nghiệp. Sau khi đọc cuốn sách của Adam Smith
có tựa đề "Nguồn gốc của cải của các quốc gia" vào năm 1799, Ricardo
ngay lập tức cảm thấy yêu thích kinh tế học, mặc dù đến tận 10 năm sau
đó bài báo đầu tiên về kinh tế của ông mới được đăng tải. Ricardo được
cả thế giới biết tới bởi quan điểm cho rằng các quốc gia trên thế giới
nên tiến hành chuyên môn hóa để đạt được lợi ích lớn hơn. Ông cũng đồng
thời đưa ra những lập luận phản đối chủ nghĩa bảo hộ, tuy nhiên những
quan điểm giá trị nhất của Ricardo là về các khoản thuế, thuê nhà đất,
lương bổng và lợi nhuận bằng cách chỉ ra rằng các chủ đất đã cướp không
của cải của người lao động, và tô thuế thì nói chung chẳng ích gì cho xã
hội.

Năm
1819 Ricardo trở thành thành viên của nghị viện Anh, đại biểu cho một
thành phố của Ireland. Một thiệt thòi đối với Ricardo cũng như cả thế
giới đó là ông đã sống một cuộc đời quá ngắn ngủi. Tác phẩm vĩ đại của
ông mang tên "Bàn luận về ảnh hưởng của giá cả thấp tới lợi nhuận chứng
khóan" (Essay on the Influence of a Low Price of Corn on the Profits of
Stock - 1815) là tiếng nói đấu tranh yêu cầu chính phủ Anh bãi bỏ các
điều luật hạn chế sự phát triển và thịnh vượng của quốc gia.
3. Alfred Marshall (1842 to 1924)
Marshall sinh
tại London, và mặc dù ước muốn ban đầu của ông là trở thành một thầy tu,
nhưng những thành công của ông tại trường đại học Cambridge đã đưa ông
đến với con đường nghiên cứu và học thuật. Marshall có thể là một trong
những nhà kinh tế ít được biết tới nhất trong số các nhà kinh tế học vĩ
đại bởi ông không phải là tác giả của bất cứ một lý thuyết kinh
tế
kinh điển nào, tuy nhiên ông rất đáng được vinh danh bởi những nỗ lực
nhằm áp dụng phương pháp toán học vào kinh tế, biến kinh tế học thành
một môn khoa học thực sự chứ không chỉ mang tính triết học đơn thuần.
Mặc dù chú trọng vào toán học, Marshall vẫn cố gắng để đưa các tác phẩm
của mình tới được với những người bình thường. Cuốn sách có tựa đề
"Economics of Industry" xuất bản năm 1879 sau đó đã được giảng dạy nhiều
tại các trường đại học của Anh và trở thành một trong các môn học chính
thống. Sau đó Marshall đã phải mất gần 10 năm để hoàn tất tác phẩm
"Nguyên lý kinh tế học" - 1890 và được công nhận là một trong những tác
phẩm quan trọng nhất của ông, trong đó những mô hình đường cung, đường
cầu, chi phí biên, lợi nhuận biên....đã được tập hợp và biểu diễn một
cách hệ thống và logic, làm nền tảng cho các mô hình kinh tế sau này.
4. John Maynard Keynes (1883 to 1946)Mọi
người đôi khi gọi ông là gã khổng lồ không chỉ bởi thân hình cao lớn
của ông mà còn bởi những đóng góp lớn lao của ông cho lịch sử kinh tế
tài chính. Keynes đã nhận chức vụ giảng viên tại trường đại học
Cambridge mà vị trí này lại được chính Alfred Marshall tài trợ. Ông còn
được biết tới vì đã ủng hộ chính phủ can thiệp vào chính sách tiền tệ để
giảm thiểu những tác động tiêu cực của suy thoái, khủng hoảng cũng như
bùng nổ kinh tế. Trong suốt cuộc chiến
tranh
thế giới thứ I, ông làm việc dưới sự bảo trợ của quân đội anh và quân
đồng minh, sau đó là đại diện tại hiệp ước hòa bình ký kết tại
Versailles.
Keynes đã gần như bị trắng tay sau cuộc đại khủng hoảng năm 1929, nhưng
sau đó ông lại tìm được cơ may cho chính mình. Năm 1936 ông cho xuất bản
cuốn sách "General Theory of Employment, Interest and Money" (Lý thuyết
chung về lao động, lãi suất và tiền tệ) như là một lời đáp trả đối với
cuộc đại suy thoái, khuyến khích chính phủ chi tiêu nhiều hơn nữa để
thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư. Đây cũng được coi là bước khởi đầu của lý
thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
5. Milton Friedman (1912 - 2006)
Milton Friedman là người con thứ 4 trong gia đình Do Thái nhập
cư từ Austria-Hungary. Sau khi lấy được bằng cử nhân nghệ thuật tại
Rutgers và bằng thạc sĩ tại đại học Chicago, ông làm việc cho New Deal -
một loạt các dự án do tổng thống Franklin D. Roosevelt đề ra để tăng
cường niềm tin của dân chúng đối với sự hồi phục kinh tế sau cuộc đại
suy thoái. Mặc dù thu được nhiều lợi ích từ New Deal song Friedman lại
phản đối lại các chương trình cũng như biện pháp kiểm soát giá cả của
nhà nước.
Milton Friedman ủng hộ việc giảm thiểu vai trò của nhà nước trong một thị trường tự do, tạo ra
sự
thông thoáng trong môi trường chính trị và xã hội. Ý tưởng này đã được
thể hiện rõ thông qua cuốn sách "Capitalism and Freedom" (Chủ nghĩa tư
bản và tự do) xuất bản năm 1962. Có lẽ điều làm cho người ta nhớ đến ông
nhiều nhất đó là những nỗ lực của ông trong việc thúc đẩy việc hình
thành một thị trường tự do và thị trường tiền tệ hiện đại. Năm 1976
Friedman đoạt giải Nobel về khoa học kinh tế, năm 1988 ông có bài phát
biểu trước các sinh viên và học giả Trung Quốc tại San Francisco và đây
được coi là một phần trong quá trình cải cách kinh tế của Trung Quốc.
Milton Friedman đã đóng ba vai trò trong đời sống tri thức thế kỷ 20.
Một Friedman nhà kinh tế của các nhà kinh tế, người đã viết những phân
tích mang tính kỹ thuật và ít nhiều không mang tính chính trị về hành vi
của người tiêu dùng và lạm phát. Một Friedman người rao bán chính sách,
người đã tham gia vận động cho chính sách trọng tiền trong nhiều thập
kỷ - cuối cùng cũng chứng kiến Cục dự trữ Liên bang và Ngân hàng Trung
ương Anh đã làm theo học thuyết của ông vào cuối thập niên 70, rồi từ bỏ
một vài năm sau đó vì nó không thể vận hành trơn tru. Cuối cùng, là một
Friedman nhà tư tưởng, người truyền bá vĩ đại học thuyết về thị trường
tự do.

Tất cả những nhà kinh tế học trên đây đã có những ảnh hưởng vô cùng
sâu sắc đối với thế giới nhưng chỉ có thời gian mới có thể cho chúng ta
biết họ đã ảnh hưởng tới những nhà kinh tế học đương đại như thế nào,
ảnh hưởng và góp phần hình thành nên thế giới của chúng ta ra sao. Có
rất nhiều các nhà kinh tế học đang từng ngày từng giờ làm việc cật lực
để đưa ra những ý tưởng, những nguyên lý kinh tế mà họ thấy sẽ có ích
cho xã hội. Có những người đã được vinh danh và tên tuổi cũng như công
trình của họ còn mãi, có những người tên tuổi bị lãng quên dần theo thời
gian. Tuy nhiên, những nỗ lực nhằm tạo ra một xã hội tốt đẹp cho tất cả
mọi người thì bao giờ cũng sống mãi.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét