Hầu hết là loại “vị doanh nghiệp” tức là nhằm thúc đẩy lợi ích của các công ty đang tồn tại, chứ không “vị thị trường”, tức là thúc đẩy cạnh tranh công khai và thực sự tự do. Các lực lượng cạnh tranh công khai đã lập nên các công ty nhằm chứng tỏ khả năng của mình; các tác nhân thị trường thành đạt thường dùng sức mạnh để hạn chế sự cạnh tranh này, và củng cố vị trí của mình. Kết quả là những căng thẳng nghiêm trọng nổi lên giữa mục đích vị thị trường với mục đích vị doanh nghiệp, dù chủ nghĩa tư bản Mỹ luôn điều tiết căng thẳng này tốt hơn bất cứ nước nào khác.
Ngay trước khi sự bùng nổ internet tạo ra nhiều tỷ phú trẻ, năm 1996, một trong bốn tỷ phú ở Mỹ được mô tả là “tự thân vận động” – so với con số chỉ 1/10 ở Đức. Và những tỷ phú tự lập ở Mỹ giàu có nhất – từ Bill Gates và Michael Dell đến Warren Buffett và Mark Zuckerberg – đều làm giàu thông qua cạnh tranh kinh doanh, mà không hề nhận hoặc nhận rất ít ưu đãi hay trợ giúp của chính phủ.
Để bảo vệ mình, họ chủ ý xây dựng một hệ thống không trong sạch, trong đó các mối quan hệ ở địa phương là rất quan trọng, vì nó tạo cho họ một lợi thế cố hữu. Các cấu trúc này đã được khẳng định trong nhiều thập kỷ sau đó: Một khi các hệ thống kinh tế và chính trị được thiết lập nhằm thưởng cho các quan hệ thay vì dựa vào tính hiệu quả, rất khó cải cách chúng, bởi những người nắm quyền là những người mất nhiều nhất nếu xảy ra thay đổi.
Người Mỹ đã từ lâu cảm thấy sự lạm dụng đó. Trong khi chúng ta tránh các xu hướng chống tư bản nói chung, người Mỹ đã ủng hộ một xu hướng phi tài chính dân túy. Xu hướng này dẫn tới nhiều quyết định chính trị trong lịch sử Mỹ không có hiệu quả nếu xét trên phương diện kinh tế, nhưng lại giúp duy trì sức mạnh lâu dài của chủ nghĩa tư bản dân chủ Mỹ.
Cuối những năm 1830, Tổng thống Andrew Jackson đã không công nhận ngân hàng lớn thứ hai của Mỹ - động thái gây ra cuộc khủng hoảng năm 1837 – vì ông thấy ngân hàng này là một công cụ của tham nhũng chính trị và đe dọa các quyền tự do của người Mỹ. Một cuộc điều tra do ông mở đã xoay quanh câu hỏi “phải chăng thể chế đầy quyền lực và to lớn này có liên quan đến âm mưu của các quan chức dùng tiền để gây ảnh hưởng đến cuộc bầu cử”.
Trong phần lớn lịch sử Mỹ, sự điều tiết của ngân hàng trung ương xuất phát từ lo ngại về quyền lực của các ngân hàng ở New York đối với phần còn lại của đất nước, và nguy cơ các ngân hàng lớn rút các khoản tiền gửi của nông dân để gửi lại vào các ngân hàng ở thành phố. Để chấm dứt những lo ngại này, nhiều bang đã đưa ra một loạt các hạn chế: từ việc các ngân hàng chỉ được có một trụ sở giao dịch đến các hạn chế đối với việc mở chi nhánh tiểu bang (ngân hàng ở bang Illinois Bắc không thể mở chi nhánh ở Illinois Nam), hay các hạn chế về mở chi nhánh giữa các tiểu bang (các ngân hàng ở New York không được mở chi nhánh ở các bang khác).
Xét trên quan điểm thuần túy kinh tế, tất cả các hạn chế này đều là điên rồ. Chúng hạn chế việc tái đầu tư tiền gửi trong cùng một khu vực, từ đó làm méo mó thậm tệ việc phân phối vốn. Và bằng cách cấm các ngân hàng mở rộng, các quy định này đã làm cho các ngân hàng không đa dạng hóa, từ đó càng dễ thất bại. Tuy nhiên, các chính sách này cũng có một tác động tích cực: chúng chia nhỏ lĩnh vực ngân hàng, giảm thiểu quyền lực chính trị của ngân hàng, nhờ đó tạo ra các điều kiện tiên quyết cho một thị trường chứng khoán sôi động.
Ngay cả sự phân biệt giữa ngân hàng đầu tư với ngân hàng thương mại trong đạo luật Glass-Steagall của nhóm New Deal cũng là một sản phẩm của truyền thống lâu đời này của Mỹ. Không giống như nhiều cách điều tiết ngân hàng khác, Luật Glass-Steagall bắt nguồn từ một lý do kinh tế: để các ngân hàng thương mại không khai thác những người gửi tiền cho mình bằng việc bán phá giá cho họ các trái phiếu của doanh nghiệp mà ngân hàng này cho vay tiền và không trả được nợ. Hậu quả lớn nhất của Luật Glass-Steagall là sự chia nhỏ ngành công nghiệp ngân hàng, góp phần giảm tập trung trong ngành này, và giảm quyền lực chính trị của nó bằng cách tạo ra các mức lãi suất khác nhau ở những nơi khác nhau trong lĩnh vực tài chính.
Ba thập kỷ vừa qua, các thỏa thuận này đã hoàn toàn bị đảo ngược, bắt đầu từ sự phi điều tiết liên tục đối với lĩnh vực ngân hàng. Các hạn chế mà các điều tiết của nhà nước đặt ra đã không thể thực hiện, và nhiều năm tiến bộ về kỹ thuật và tài chính đã khiến chúng không thể duy trì.
Ích gì khi hạn chế các ngân hàng mở chi nhánh trong khi các ngân hàng có thể đặt máy ATM trên cả nước? Hiệu quả ở đâu khi một lệnh cấm mở chi nhánh giữa các tiểu bang đang cản trở sự phân phối tiền gửi? Và khi nào các ngân hàng không hội nhập có thể phân phối các khoản tiền gửi này thông qua thị trường liên ngân hàng?
Từ cuối những năm 1970, điều tiết của ngân hàng trung ương đã giảm bớt, giúp tăng tính hiệu quả của lĩnh vực ngân hàng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng thay đổi này cũng làm tăng tính tập trung. Năm 1980, có khoảng 14.434 ngân hàng ở Mỹ, tương đương với con số của năm 1934. Năm 1990, con số này đã giảm xuống còn 12.347, và đến năm 2000 chỉ còn 8.315 ngân hàng. Năm 2009, con số này chỉ dưới 7.100. Quan trọng hơn, sự tập trung các khoản tiền gửi và vay gia tăng đáng kể. Năm 1984, 5 ngân hàng lớn nhất của Mỹ chỉ kiểm soát 9% tổng tiền gửi trong lĩnh vực ngân hàng. Đến năm 2001, tỷ lệ này tăng 21% và đến cuối năm 2008, đạt gần 40%.
Đỉnh điểm của quá trình này là việc thông qua đạo luật Gramm-Leach-Bliley năm 1999, hủy bỏ các hạn chế mà Luật Glass-Steagall đã đặt ra. Luật mới bị cho là đóng vai trò chính trong việc gây ra cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay, nhưng không phải vậy. Trên thực tế, văn bản này chẳng liên quan gì đến cuộc khủng hoảng.
Các thể chế tài chính lớn phá sản hoặc phải bảo lãnh trong hai năm qua là các ngân hàng đầu tư thuần túy – như Lehman Brothers, Bear Stearns, và Merrill Lynch – vốn là những ngân hàng không được hưởng lợi từ việc hủy Luật Glass-Steagall, hoặc là những ngân hàng thương mại thuần túy như Wachovia và Washington Mutual. Chỉ có một ngoại lệ là Citigroup, ngân hàng đã trộn lẫn các giao dịch thương mại và đầu tư ngay trước khi Luật Gramm-Leach-Bliley ra đời, nhờ được ưu đãi đặc biệt về thuế.
Tác động thực sự của Luật Gramm-Leach-Bliley là về chính trị, chứ không trực tiếp về kinh tế. Trước luật này, các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và các công ty bảo hiểm có mục đích khác nhau, và vì vậy các hoạt động lobby của họ có xu hướng bù trừ cho nhau. Nhưng sau khi các hạn chế được dỡ bỏ, lãi suất của các ngân hàng chính bắt đầu liên kết với nhau, tạo ra cho lĩnh vực công nghiệp ngân hàng quyền lực lớn trong việc định hướng mục tiêu chính trị. Sự tập trung trong ngành công nghiệp ngân hàng chỉ càng giúp gia tăng quyền lực này.
Nguồn cơn chính yếu nhất và gần nhất tạo ra quyền lực ngày càng lớn của ngành công nghiệp ngân hàng chính là lãi suất, ít nhất là trên sách vở. Những năm 1960, tỷ trọng của lĩnh vực ngân hàng trên GDP vào khoảng hơn 3%. Đến giữa năm 2000, con số này đã lên tới hơn 8%. Sự mở rộng này là nhờ sự gia tăng chóng mặt không chỉ về lợi nhuận mà cả tiền lương.
Năm 1980, lương trung bình của một nhân viên làm việc trong lĩnh vực tài chính gần tương đương với lương của các công nhân trình độ tương đương trong các lĩnh vực khác. Nhưng đến năm 2007, người làm trong lĩnh vực tài chính đã kiếm được nhiều hơn 70% so với các lĩnh vực khác. Nhiều người cố giải thích sự chênh lệch này là do khác biệt về năng lực, hay nhu cầu lao động... Song, đơn giản là những người làm về tài chính dễ kiếm tiền hơn bất cứ ai khác.
Sự ưu đãi lớn này cho phép ngành công nghiệp ngân hàng chi tiêu những khoản tiền quá lớn để lobby hệ thống chính trị. Trong 20 năm qua, ngành công nghiệp tài chính đã đóng góp 2,2 tỷ USD cho chính trị, nhiều hơn bất cứ ngành công nghiệp nào khác. Và trong 10 năm trở lại đây, ngành ngân hàng đứng đầu bảng danh sách chi tiêu cho lobby, với con số 3,5 tỷ USD.
Sự bùng nổ lương và lợi nhuận trong ngành tài chính cũng thu hút những người giỏi nhất. 30 năm gần đây, số sinh viên tốt nghiệp loại giỏi xin làm việc trong các ngành khoa học, công nghệ, luật pháp và kinh doanh; nhưng 20 năm trở lại đây, họ đổ xô vào ngành tài chính. Cống hiến cho lĩnh vực này, cuối cùng các cá nhân tài giỏi này sẽ cố gia tăng lợi ích của ngành ngân hàng: một người chuyên về thị trường phái sinh sẽ rất quan tâm tới giá trị của các sản phẩm phái sinh, giống như một kỹ sư hạt nhân nghĩ rằng năng lượng hạt nhân có thể giải quyết mọi vấn đề thế giới.
Và nếu hầu hết giới ưu tú chính trị đều xuất thân từ các kỹ sư hạt nhân, hoàn toàn tự nhiên khi đất nước sẽ sớm xây dựng được các nhà máy hạt nhân. Trên thực tế, chúng ta đã có một ví dụ về kịch bản này ở Pháp, nơi vì những lý do văn hóa phức tạp một tỷ lệ lớn bất thường các nhân vật ưu tú chính trị từng học ngành kỹ sư ở Trường đại học Bách khoa – và Pháp sử dụng năng lượng hạt nhân nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác.
Một tác động tương tự cũng rất rõ ràng với ngành tài chính ở Mỹ. Tỷ lệ những người được học và có kinh nghiệm làm trong lĩnh vực tài chính ở cấp cao nhất trong chính quyền tổng thống mới đây tăng cao một cách đặc biệt. Bốn trong sáu Bộ trưởng Ngân khố Mỹ có lý lịch như vậy.
Thực tế, cả bốn người này đều liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến một công ty là ngân hàng Goldman Sachs. Đây gần như là một tiêu chuẩn mang tính lịch sử; trong số sáu Bộ trưởng Ngân khố trước, chỉ một người có bằng về tài chính. Số nhân viên chính phủ đã học qua ngành tài chính nhiều không chỉ ở Bộ Ngân khố mà có mặt ở cả nhiều vị trí trong Nhà Trắng và các vị trí quan trọng trong nhiều Bộ khác. Người phụ trách nhân sự của Tổng thống Barack Obama, ông Rahm Emanuel, cũng từng làm việc cho một ngân hàng đầu tư, và người tiền nhiệm của ông dưới thời Tổng thống George Bush, ông Joshua Bolten cũng vậy.
Việc này chẳng có gì quá tệ hại. Thực tế là hoàn toàn bình thường khi một chính phủ tìm kiếm những người xuất chúng và tìm thấy họ trong lĩnh vực ngân hàng, bởi đây là nơi mà những sinh viên giỏi nhất đã len vào. Vấn đề là những người đã dành nhiều thời gian cho ngành tài chính có xu hướng nghĩ rằng lợi ích của ngành họ và lợi ích quốc gia luôn song hành.
Khi Bộ trưởng Ngân khố Henry Paulson lập luận trước Quốc hội mùa Thu năm ngoái rằng thế giới mà chúng ta đã biết sẽ kết thúc nếu Quốc hội không thông qua khoản trợ giúp trị giá 700 tỷ USD, ông đã nghiêm túc và nói một cách chân thành. Và trong một chừng mực nào đó, ông đã đúng: Thế giới “của ông” – thế giới mà ông sống và làm việc – sẽ kết thúc nếu không có gói kích thích. Golman Sachs sẽ phá sản và ảnh hưởng đến bất cứ ai ông biết sẽ là rất lớn.
Nhưng thế giới của Henry Paulson không phải là thế giới mà hầu hết người Mỹ sống trong đó – càng không phải là thế giới trong đó nền kinh tế của chúng ta tồn tại bình an. Việc liệu thế giới đó có thể chấm dứt hay không nếu thiếu sự trợ giúp của Quốc hội là một đề xuất có thể tranh luận sâu hơn, nhưng thật đáng tiếc là cuộc tranh luận đó đã không thể xảy ra.
Vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi các thành viên chính phủ có xu hướng dựa vào mạng lưới bạn bè đáng tin cậy của mình để thu thập thông tin “từ bên ngoài”. Nếu mọi người trong các mạng lưới này đều xuất phát từ một nơi, thông tin và các ý tưởng mà các nhà hoạch định chính sách làm theo sẽ bị hạn chế nghiêm trọng.
Có một giai thoại từ một quan chức Bộ Ngân khố dưới thời ông Bush như thế này. Giữa lúc cuộc khủng hoảng tài chính đang lên đến cao trào, có một cú phôn mang số hiệu 212 từ Manhattan với tin nhắn là “Hãy mua các tài sản độc hại”! Sự không thống nhất trong những lời cố vấn cũng khiến cả những nhà hoạch định chính sách thông minh nhất hoặc có thiện ý nhất khó đưa ra những quyết định đúng đắn.
Vòng luẩn quẩn
Sự tập trung quyền lực chính trị ngày càng lớn trong lĩnh vực tài chính đã hủy hoại nhận thức truyền thống của người Mỹ về sự khác biệt giữa các thị trường tự do và các công ty lớn. Điều này không chỉ đồng nghĩa với việc các lợi ích tài chính giờ đây đang choán hết cách hiểu về kinh tế của các nhà hoạch định chính sách, mà quan trọng hơn, nó còn đồng nghĩa với cách cảm nhận của công chúng rằng tính hợp pháp của hệ thống tài chính đang bị đe dọa.
Nếu hệ thống thị trường tự do trở nên bấp bênh về tài chính, bộ phận bấp bênh nhất của nó chắc chắn là ngành công nghiệp tài chính vì bộ phần này gắn kết hoàn toàn với những ràng buộc bất khả xâm phạm của các hợp đồng và quy định của luật pháp. Trong khi đó, những ràng buộc này không thể tồn tại nếu thiếu sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng.
Khi mọi người bắt đầu nổi giận đến mức đe dọa tính mạng của các chủ ngân hàng; khi đa số người Mỹ đề nghị sự can thiệp của chính phủ không chỉ điều tiết ngành công nghiệp tài chính mà còn kiểm soát cách thức các công ty vận hành; và khi cử tri mất niềm tin vào hệ thống kinh tế vì nhận thấy nó bị tham nhũng từ bên trong, thì các ràng buộc của sở hữu tư nhân cũng sẽ bị đe dọa. Và khi quyền sở hữu không được bảo vệ thì sự sống còn của một lĩnh vực tài chính hiệu quả, nhờ đó một nền kinh tế thịnh vượng, sẽ là khó tin.
Sự can thiệp của chính phủ vào lĩnh vực tài chính trong cơn khủng hoảng, đặc biệt là các gói hỗ trợ cho các ngân hàng lớn và các thể chế khác, đã làm cho vấn đề này nghiêm trọng hơn. Việc công chúng không còn tín nhiệm chính phủ, cộng thêm sự mất tín nhiệm đối với các chủ ngân hàng, và những lo ngại về việc lãng phí những đồng tiền của người đóng thuế ở Mỹ, đã làm dấy lên lo ngại rằng thưởng tiền cho những người đã gây ra tình trạng rối loạn ở Phố Wall.
Đáp lại, các chính trị gia đã cố tự bảo vệ mình bằng việc trả thù lĩnh vực ngân hàng. Việc Hạ viện thông qua một đề nghị hoàn trả 90% tiền thưởng được nhận từ các thể chế tài chính đã nhận tiền TARP cho thấy mức độ nguy hiểm của sự cộng hưởng của phản ứng dữ dội này và chính sách mị dân gây ra.
Thật may mắn, đề nghị quái lạ trên đã không trở thành luật. Nhưng không khí chống ngành tài chính mà đề nghị trên tạo ra đã góp phần lớn dẫn tới sự sung công của chủ nợ thế chấp Chrysler mùa Xuân vừa qua. Bằng việc chọn kết án những chủ nợ Chrysler đề nghị quyền hợp đồng của họ được tôn trọng, Tổng thống Obama trên thực tế đã khai thác sự oán giận của dân chúng để giảm phần chi của chính phủ cho việc cứu Chrysler. Nhưng việc cắt tiền này đã đụng đến cả các chi phí của các nhà đầu tư hiện nay, và gửi một tín hiệu đến toàn bộ các nhà đầu tư tiềm năng trong tương lai.
Trong khi cách giải quyết của ông Obama phù hợp trong ngắn hạn, nó có thể gây hại đối với hệ thống thị trường về lâu dài: việc bảo hộ cho các chủ nợ thế chấp mang tính sống còn trong việc làm cho các tín dụng này trở nên có ích đối với các công ty đang thiếu tài chính. Sự kiện Chrysler sẽ phá hủy khả năng tiếp cận tới một nguồn tài chính như vậy trong tương lai, đặc biệt là đối với các công ty đang rất cần chúng, và làm tăng sức ép đòi chính phủ can thiệp mạnh hơn nữa.
Vì mô hình được đưa ra trong bối cảnh khủng hoảng tài chính nên có nguy cơ tạo ra một cái vòng luẩn quẩn. Nhằm tránh bị công chúng liên hệ với các công ty đang nỗ lực để được trợ giúp, các chính trị gia đã vào cuộc và khuyến khích tấn công ngành tài chính; điều này đã làm các nhà đầu tư hợp pháp phải e ngại, không ai trong số họ còn có thể dựa vào các hợp đồng và quy định của pháp luật được nữa. Và đến lượt mình, họ lại phải cầu viện tới các công ty có trục trặc nhưng là để tìm kiếm sự hỗ trợ của chính phủ.
Không hề ngẫu nhiên khi chỉ ít lâu sau cú đánh vào giới lãnh đạo Phố Wall vì tham lam, chính quyền đã thiết lập một dạng bảo hộ hào phóng chưa từng có dành cho Phố Wall. Chương trình đầu tư công-tư (Public-Private Investment Program), được Bộ trưởng Ngân khố Timothy Geithner tuyên bố hồi tháng Ba, đã cung cấp 84 USD tiền cho vay hỗ trợ của chính phủ và 7 USD vốn cổ phiếu chính phủ cho mỗi 7 USD tương ứng mà tư nhân đầu tư để mua một tài sản độc hại. Khoản tiền này quá hào phóng, đến nỗi các nhà đầu tư tư nhân nhận được một khoản hỗ trợ 2 USD cho mỗi USD mà họ đổ vào thị trường tài chính.
Khoản tiền này đã làm nghiêm trọng thêm các điều kiện gây ra bùng nổ bong bóng - nó khẳng định cảm nhận rằng chính phủ và những tác nhân lớn trên thị trường đã đồng lõa với nhau để tiêu tiền của người đóng thuế và các nhà đầu tư nhỏ. Nếu “Chương trình Đầu tư nhà nước và tư nhân” hoạt động tốt, những người gây ra vấn đề này tiếp tục làm giàu tưởng tượng nhờ trợ giúp của chính phủ - điều chắc chắn sẽ gây ra tác động không tốt trong cảm nhận của công chúng đối với chủ nghĩa tư bản Mỹ.
Đây thực sự là cái vòng luẩn quẩn có hại mà chủ nghĩa tư bản ở hầu hết các nước trên thế giới đã mắc kẹt trong đó. Một mặt, các chủ doanh nghiệp và các nhà tư bản tài chính cảm thấy bị đe dọa bởi thái độ chống đối của công chúng, từ đó họ tìm kiếm các ưu đãi đặc biệt của chính phủ. Mặt khác, các công dân bình thường cảm thấy bị xúc phạm bởi các ưu đãi mà các chủ doanh nghiệp và các nhà tư bản tài chính được nhận, từ đó châm ngòi cho sự tức giận.
Tương lai của chủ nghĩa tư bản Mỹ
Như vậy, chủ nghĩa tư bản Mỹ đang đứng giữa ngã ba đường. Một ngả sẽ dẫn tới cơn thịnh nộ của dân chúng đối với sự hỗ trợ chính trị cho một vài cuộc cải cách thực sự vì thị trường, ngay cả khi chúng không phục vụ cho lợi ích của các công ty tài chính lớn. Bằng việc chống lại điểm tốt nhất của truyền thống dân túy, chúng ta có thể đưa ra các giới hạn cho quyền lực của ngành công nghiệp ngân hàng – hoặc bất cứ công ty nào khác – và lập lại các nguyên tắc căn bản vốn tạo quy mô đạo đức cho chủ nghĩa tư bản bao gồm tự do, đãi ngộ nhân tài, quan hệ trực tiếp giữa mức thưởng và sự cố gắng, cũng như đảm bảo rằng những người thu lời cũng phải chịu một số mất mát.
Điều này có thể đồng nghĩa với việc từ bỏ khái niệm cho rằng bất cứ công ty nào cũng là quá lớn nên không thể phá sản, đồng thời đặt ra các quy định hiện hành, tránh trường hợp các công ty tài chính lớn thao túng các quan hệ với chính phủ để gây thiệt hại cho các thị trường. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc thông qua một cách tiếp cận kinh tế vị thị trường chứ không vị doanh nghiệp.
Ngả khác là làm dịu cơn giận dữ của dư luận bằng các giải pháp như giới hạn các khoản tiền thưởng trong khi bảo vệ quan điểm của các tác nhân tài chính lớn nhất, làm cho họ phụ thuộc vào chính phủ và làm cho nền kinh tế trên quy mô lớn hơn phải phụ thuộc vào họ. Những biện pháp như vậy được lòng dân chúng hiện nay nhưng lại đe dọa hệ thống tài chính và danh tiếng của chủ nghĩa tư bản Mỹ về lâu dài. Chúng cũng củng cố các thói quen từng gây ra khủng hoảng. Đây là con đường dẫn tới chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp lớn: một con đường che lấp sự phân biệt giữa các chính sách vị thị trường và các chính sách vị doanh nghiệp, và làm giảm sự tín nhiệm của người Mỹ đối với uy tín của chủ nghĩa tư bản dân chủ.
Thật không may, hiện giờ dường như chính quyền của Tổng thống Obama đã chọn con đường thứ hai này. Đây là một lựa chọn có nguy cơ đẩy chúng ta vào một vòng luẩn quẩn của sự oán giận lớn hơn của công chúng và chủ nghĩa tư bản thân tín nghiệp đoàn vốn quá quen thuộc trên thế giới, từ đó đạp đổ những tiến bộ của chủ nghĩa ngoại lệ kinh tế vốn rất quan trọng đối với sự thịnh vượng của Mỹ. Sau khủng hoảng, điều này có thể trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết và làm trầm trọng hơn hậu quả của khủng hoảng tài chính đối với chủ nghĩa tư bản Mỹ.
QUỐC THÁI (TUẦN VIỆT NAM) / NATIONALAFFAIRS.COM
0 nhận xét:
Đăng nhận xét