Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Năm, 3 tháng 10, 2013

Sửa Hiến pháp đừng bít lối vào TPP



KỲ 1: CÁC NƯỚC CHE ĐẬY, VIỆT NAM LẠI...TRƯNG RA

TS. Võ Trí Hảo
Nguồn: Tuần Việt Nam,
đăng ngày 26/9/2013,
truy cập đường link gốc tại đây

Các quốc gia thành viên WTO đã khôn khéo phân biệt đối xử với DN ngoại quốc bằng các hàng rào thuế quan tinh vi. Trong khi đó, Việt Nam lại trưng bày "vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước" ra vị trí mặt tiền, rồi ra sức thuyết phục họ công nhận mình là nền kinh tế thị trường.

Gia nhập WTO là một cột mốc quan trọng của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên sau 7 năm, dường như chúng ta chưa khai thác được hết các lợi ích mà tư cách thành viên WTO mang lại. Bởi hầu hết các nước của WTO, bao gồm cả G7, chưa công nhận VN là nền kinh tế thị trường, bất chấp nỗ lực thuyết phục của lãnh đạo cấp cao của VN trong các cuộc tiếp xúc song phương[1] .


Để kết luận một nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường không, các quốc gia phân tích nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế vận hành, mà đầu tiên là Hiến pháp.

Chỉ cần nhìn vào Điều 15 Hiến pháp 1992 hiện hành (và Điều 51 Khoản 1 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992), sẽ thấy VN phân loại về mặt pháp lý các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế ngay từ trong Hiến pháp và tuyên bố "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo". Như vậy, ai giữ vai trò chủ đạo, ai thắng trong cuộc chơi không còn được quyết định bởi quy luật cạnh tranh tự do của thị trường nữa, mà quyết định bởi nhà nước.






Để "tuân thủ" Hiến pháp, nhà nước phải có nghĩa vụ bảo đảm vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Muốn vậy, nhà nước không còn cách nào khác là phải ưu tiên, ưu đãi các DNNN. Nếu không, ai thắng ai thua trong cuộc cạnh tranh sẽ do thị trường quyết định.

Thị trường thì khách quan, vô cảm, nên DNNN có thể thắng, có thể thua, có thể chủ đạo hoặc không chủ đạo. Nếu DNNN và thành phần kinh tế nhà nước, vào một lúc nào đó, không giữ được vai trò chủ đạo thì nhà nước đã... vi phạm Hiến pháp.

Bởi vậy, mặc dù không còn duy trì một đạo luật riêng cho DNNN mà thành phần này được điều chỉnh chung trong Luật doanh nghiệp 2005, nhưng ưu tiên ưu đãi vẫn có vô vàn cách. Chẳng hạn, bảo lãnh vay vốn, ưu đãi đất đai, luân chuyển công chức cao cấp giữ các chức vụ quản lý trong DNNN thông qua đó loby chính sách cho các DN này. Rồi bắt buộc các hội thảo sử dụng ngân sách nhà nước phải mua vé máy bay của Vietnam Airlines cho đại biểu tham gia, v.v...

Điều đặc biệt, dường như DNNN không được phép phá sản theo quy luật thị trường, bởi phá sản thì cơ quan chủ quản có thể bị kỷ luật, nên họ phải cứu bằng mọi cách.

Vậy có thể dùng Hiến pháp ra lệnh cho quy luật kinh tế? Và quy luật kinh tế có phải là đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp?

Ông trời đâu có vâng lệnh người; các quy luật kinh tế khách quan đâu có phải là đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp và cũng không biết "giữ thể diện" cho nhà nước với những scandal như Vinashines, Vinalines...

Lùi xa hơn một chút, từ Hiến pháp 1980 đến Hiến pháp 1992, luôn khẳng định "vai trò chủ đạo" của thành phần kinh tế tập thể, nhưng nó đã teo tóp từ lâu. Trong thời kỳ bao cấp, cả dân tộc dành 100% nguồn lực cho kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, nhưng hai thành phần kinh tế này có giữ vai trò chủ đạo được không?

Hãy nhìn vào khả năng bảo toàn vốn, tìm kiếm lợi nhuận, đóng góp cho GPD, góp phần cho tình trạng tham nhũng, khả năng tạo công ăn việc làm giữa hai khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân, sẽ dự đoán được quy luật kinh tế đang vận động theo hướng nào.



Bảng: Đóng góp của kinh tế nhà nước tại TPHCM giảm dần đều theo thời gian



Thành phần2006-2010201120122013
Kinh tế nhà nước26,6%18,7%18,0%17,3%
Kinh tế ngoài nhà nước50,6%58,3%58,5%58,9%
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài22,8%23,0%23,5%23,8%

(Nguồn: Cục Thống kê TPHCM, dẫn theo Văn Nam, Đóng góp kinh tế nhà nước giảm dần, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 22/9/2013).



Đáng tiếc, tư duy dùng Hiến pháp ra lệnh cho quy luật kinh tế vẫn được tiếp tục duy trì, lựa chọn làm Phương án 1 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Điều 51 Khoản 1 viết: "Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo" (khái niệm "kinh tế tập thể" đã biến mất - VTH).

Quyền lập hiến thuộc về Quốc hội Việt Nam, nhưng quyền công nhận nền kinh tế thị trường thuộc về các quốc gia khác. Mỗi chủ thể đều có ý chí riêng của mình.

Tuy nhiên, điều đáng bàn ở đây, là nghệ thuật che đậy sự phân biệt đối xử. Các quốc gia thành viên WTO đã khôn khéo phân biệt đối xử với DN ngoại quốc bằng các hàng rào thuế quan tinh vi. Trong khi đó, Việt Nam lại trưng bày "vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước" ra vị trí mặt tiền, rồi ra sức thuyết phục họ công nhận mình là nền kinh tế thị trường.

Đặc biệt, hiện nay Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập TPP, thì việc trưng bày "vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước" trong Hiến pháp, sẽ làm cho Việt Nam gặp không ít bất lợi.

(Còn tiếp)



TS. Võ Trí Hảo (Khoa Luật, Đại học Kinh tế TP.HCM)



[1] Hiện nay chỉ có ASEAN và Ucraina, Nga, Trung Quốc, Venezuela, Nam Phi công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, các thành viên chủ chốt của WTO vẫn chưa công nhận.





------------------------

 Sửa Hiến pháp đừng bít lối vào TPP:

KỲ 2: "Ai cho tiền thì bảo vệ người ấy"


TS. Võ Trí Hảo

Nguồn: Tuần Việt Nam,

đăng ngày 26/9/2013,

truy cập đường link gốc tại đây








Còn chức năng đứng về người lao động lại càng khó tròn vai, bởi "ăn cây nào rào cây ấy", ai cho tiền hoạt động thì bảo vệ người ấy; Công đoàn thời kỳ Đổi mới chưa bao giờ đứng ra tổ chức đình công để đấu tranh quyết liệt quyền lợi cho công nhân.



BTA có rồi, nhưng Quy chế ưu đãi phổ cập (GSP)[1] không thành hiện thực có căn nguyên từ Hiến pháp.

1. Một lý do được chỉ ra là quyền tự do gia nhập hội đã có, nhưng quyền tự do lập hội cho người lao động lại chưa có.

Trong quá trình đàm phán Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA), đoàn đàm phán đã nỗ lực yêu cầu Hoa Kỳ dành cho phía VN Quy chế ưu đãi phổ cập (GSP). Quy chế này nhằm khuyến khích sự phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển bằng cách ưu đãi miễn thuế nhập khẩu 5.000 mặt hàng[2] (trong đó chủ yếu là các hàng thủ công nghiệp, mây tre, cói ngô...).

Ban đầu, phía Hoa Kỳ không chấp nhận, vì quy chế GSP đòi hỏi quốc gia hưởng quy chế GSP phải bảo đảm cho người lao động, tầng lớp công nhân quyền tự do lập hội, bao gồm quyền tự do lập công đoàn.

Công đoàn, quyền tự do lập hội, công nhân, đình công, quyền lợi người lao động
Theo báo Lao động, từ năm 1995 đến 7/2013, có hơn 5.000 cuộc đình công, có cuộc huy động đến 10.000 NLĐ, không có cuộc nào do Công Đoàn lãnh đạo. Ảnh minh họa

Quyền tự do lập công đoàn, giúp "công nhân, người lao động tụ tập với nhau, tự lập hội để nói chuyện với giới chủ", để giúp họ tự bảo vệ mình, mà không phải trông chờ từ nhà nước. Theo ông Nguyễn Đình Lương - nguyên Trưởng đoàn đàm phán BTA, quyền tự do thành lập công đoàn là một trong những chuẩn mực quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), mà Việt Nam là một thành viên[3] .

Trước nỗ lực của phía Việt Nam, cuối cùng phía Hoa Kỳ ghi nhận vào BTA: "phía Hoa Kỳ sẽ xem xét dành GSP cho Việt Nam". Thế nhưng, "thắng lợi" của nỗ lực này không có cơ hội thành hiện thực. Vì phía Hoa Kỳ chưa xem xét GSP chừng nào quyền tự do lập công đoàn của người lao động Việt Nam chưa được bảo đảm, chừng nào Điều 10 Hiến pháp còn duy trì vai trò độc tôn của Công đoàn Lao động Việt Nam (viết hoa, số ít).

Sự độc tôn của công đoàn như vậy là đã điều chỉnh quyền lập hội, lập công đoàn của người lao động theo "cơ chế mậu dịch" của thời kỳ bao cấp. Nghĩa là chỉ có quyền "gia nhập, hoặc không gia nhập, đóng phí hay không đóng phí" mà thôi, chứ không còn quyền chọn lựa ai đó đại diện cho mình.

Ngắn gọn, người lao động không có quyền lập công đoàn, mà chỉ có quyền gia nhập một tổ chức mà Điều 10 Hiến pháp đã thiết kế sẵn.

Người lao động tưởng như đã thoát được "gạo mậu dịch" song còn những thứ "mậu dịch, bao cấp" khác thì có lẽ vẫn chưa thể.

2. Duy trì tính chất "á nhà nước" của Công đoàn nhằm giải quyết những vấn đề gì gì?

Hiện nay, Công đoàn Lao động Việt Nam hưởng quy chế rất đặc biệt, quy chế á nhà nước.

Theo quy chế này, Công đoàn Lao động đứng về phía nhà nước, giúp nhà nước quản lý người lao động, thực hiện một số hành động nhân danh quyền lực nhà nước (ban hành thông tư liên tịch), đặc biệt hưởng ngân sách, giống như một cơ quan nhà nước.

Dùng ngân sách như cơ quan nhà nước, nhưng lại không phải là cơ quan nhà nước. Bởi ở mặt khác, tổ chức này lại khoác chiếc áo của một tổ chức xã hội, nên không cần được sự ủy thác của toàn dân thông qua bầu cử phổ thông, không có nghĩa vụ trả lời chất vấn trước Quốc hội, không phải chịu trách nhiệm trước những người đóng thuế.

3. Chức năng, vai trò thay đổi qua từng thời kỳ lịch sử

Trong thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh, Công đoàn đã có công lao lớn giúp Đảng giành được chính quyền, giúp công nhân đấu tránh chống lại sự bóc lột của giới chủ, đặc biệt là chống lại giới chủ người Pháp. Điều đó cần được tri ân.

Bước sang thời kỳ bao cấp, khái niệm "giới chủ" không còn, mà người sử dụng lao động chính là chính quyền dưới hình thức hợp tác xã, xí nghiệp nhà nước, cơ quan nhà nước. Nên Công đoàn thời kỳ này thay đổi chức năng, không còn nhiệm vụ đấu tranh chống lại người sử dụng lao động, mà phải cổ vũ, ủng hộ người sử dụng lao động, trở thành cánh tay nối dài giúp nhà nước quản lý người lao động.

Bước sang thời kỳ đổi mới, "giới chủ" tái xuất hiện, nhưng chức năng, vị thế của Công đoàn vẫn được tiếp tục duy trì như thời kỳ bao cấp. Công đoàn mới không được quyền thiết lập, công đoàn truyền thống không ra tay giúp công nhân. Những xung đột với giới chủ không còn phương thức hòa bình để giải quyết, công nhân đi đến đình công tự phát ở Bình Dương, Hải Phòng trong những năm 2008-2009, có nơi leo thang đến đập phá nhà máy giống như thời Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Tính chất á nhà nước, làm cho chức năng quản lý nhà nước của Công đoàn thiếu chính danh, thiếu trách niệm giải trình trước Quốc hội và toàn dân. Còn chức năng đứng về người lao động lại càng khó tròn vai, bởi "ăn cây nào rào cây ấy", ai cho tiền hoạt động thì bảo vệ người ấy; Công đoàn thời kỳ Đổi mới chưa bao giờ đứng ra tổ chức đình công để đấu tranh quyết liệt quyền lợi cho công nhân.

Duy trì vai trò độc tôn, hạn chế quyền tự do lập công đoàn của người lao động không chỉ làm ảnh hưởng quyền lợi của tầng lớp thợ thuyền, mà về mặt đối ngoại lại cản trở hội nhập quốc tế.

Trước thềm đàm phán TPP, nhân dịp sửa đổi Hiến pháp, chúng ta nên xem xét cải tổ cơ chế "bao cấp bảo vệ người lao động", cải tổ hệ thống "cửa hàng mậu dịch bốn cấp" (Công đoàn ở TW, tỉnh, huyện, cơ sở). Sao cho những người lao động thực sự được bảo vệ quyền lợi chính đáng.



TS Võ Trí Hảo (Khoa Luật, Đại học Kinh tế TP.HCM)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét