Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013
Thâu tóm doanh nghiệp và xung đột lợi ích
Nguyễn Văn Lộc & Đậu Thị Quyên- HTV Investments
Doanh nhân và Pháp luật số 96 (ngày 05 tháng 05 năm 2012)
Sự
trở lại của làn sóng M&A gần đây với nhiều “điểm nóng” là các
thương vụ thâu tóm đang đặt ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp (DN)
trong vấn đề về quản trị sau thôn tính. Trong đó xung đột lợi ích là một
vấn đề trọng yếu có tác động toàn diện và sâu sắc đối với DN trong suốt
vòng đời của hoạt động M&A. Khi “chiếc bánh” lợi ích không còn như
cũ bởi sự thay đổi nguyên liệu, công thức, giá cả lẫn người thụ hưởng
thì DN phải đối mặt với những hệ lụy nghiêm trọng từ sự mâu thuẫn của
những “người làm bánh”, và điều này có thể giết chết DN trước khi nó
hiện thực hóa khát vọng tăng trưởng thông qua thâu tóm của mình.
Khi “chính trị” biến động và việc xung đột lợi ích cổ đông
Cổ đông là
người sở hữu cổ phần đã phát hành của DN và có quyền quyết định đến các
vấn đề liên quan đến DN phụ thuộc vào tỷ lệ nắm giữ cổ phần. Hãy hình
dung công ty cũng giống như một Nhà nước, mỗi nhóm cổ đông sẽ đại diện
cho một giai cấp nên bất kỳ sự biến động chính trị nào cũng sẽ tác động
ít nhiều đến lợi ích của các giai cấp khác trong xã hội.
Khi DN bị
thôn tính, vấn đề được quan tâm nhiều nhất phải kể đến đó là mâu thuẫn
lợi ích của nhóm cổ đông. Cụ thể, việc thâu tóm DN sẽ dẫn đến việc tái
cấu trúc ở nhiều góc độ khác nhau, phù hợp hoặc đáp ứng lợi ích của
người thâu tóm và dĩ nhiên phải xung đột với lợi ích của các nhóm cổ
đông hiện hữu. Nếu việc tái cấu trúc đó không dung hòa được lợi ích của
các nhóm cổ đông sẽ dễ dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng. Mâu thuẫn lợi
ích cổ đông sẽ xuất hiện ở cả hai góc độ, một là mâu thuẫn giữa các cổ
đông trong công ty bị thâu tóm, hai là giữa cổ đông trong công ty với
các cổ đông khác của công ty thâu tóm.
Thông
thường, xung đột lợi ích giữa các cổ đông lớn và Hội đồng quản trị
(HĐQT) trong nội bộ công ty đã là một vấn đề gây khó khăn cho DN. Câu
chuyện đình đám một thời của CTCP Dược Hà Tây xung quanh quyết định đăng
ký mua 400 ngàn cổ phiếu (tương đương 9,7% vốn điều lệ) của HĐQT làm cổ
phiếu quỹ đã nhận được sự phản đối gay gắt của nhóm cổ đông lớn và cũng
từ đây phát sinh xung đột lợi ích trong nội bộ công ty. Trong trường
hợp DN bị thâu tóm, đặc biệt là thâu tóm thù địch, thì mâu thuẫn lợi ích
của nhóm cổ đông sẽ càng gay gắt. Quyền lợi của những người điều hành
công ty bị thâu tóm sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp và đứng trước nguy cơ bị
ra đi bởi những cổ đông thực hiện việc thâu tóm. Lấy ví dụ trường hợp
của Sacombank, khi dấu hiệu thâu tóm được phát đi từ Eximbank thì những
chiếc ghế trong HĐQT của Sacombank phải đối mặt với một nguy cơ “đổi
chủ”. Bởi lẽ, Eximbank có thể thay thế phần lớn thành viên HĐQT và thông
qua đó bầu ra Chủ tịch mới và ban điều hành ngân hàng này nếu như việc
chiếm hữu tỷ lệ 51% của Eximbank là đúng luật. Điều này sẽ gây ra một
làn sóng xung đột lợi ích trong các nhóm cổ đông.
Mặt khác,
các cổ đông hiện hữu (mà đặc biệt là cổ đông thiểu số) của DN cũng sẽ bị
ảnh hưởng quyền lợi của mình, họ có thể bị gạt ra ngoài các quyết định
sáp nhập DN hoặc không được quyền tham gia các vấn đề lớn của DN. Quyền
điều hành và quản lý của nhóm cổ đông sẽ là vấn đề xung đột lớn nhất và
ảnh hưởng nhất đến các xung đột lợi ích khác sau này.
Không riêng giới “chủ”…
Khi một DN
bị thâu tóm, không riêng gì chủ sở hữu bị ảnh hưởng.. Người lao động,
khách hàng, những đối tác chiến lược của DN và quan trọng không kém là
yếu tố tài sản, văn hóa công ty…đều bị tác động theo. DN lúc này giống
như một chiếc thuyền mà trên đó, cả người lái lẫn hành khách và hành lý
đều chung một “hội”.
Cụ thể,
người lao động là lực lượng nòng cốt đối với sự tồn tại và phát triển
của DN cũng bị kéo theo làn sóng “cải tổ”. Hàng vạn nhân công có thể bị
mất việc làm sau khi DN của họ bị thâu tóm, cắt giảm chi phí để tăng
trưởng lợi nhuận, đáp ứng chiến lược kinh doanh mới của công ty. Công ty
thâu tóm cũng có thể sẵn sàng bỏ ra một lượng tiền khổng lồ để giữ chân
những người trong ban điều hành hoặc thuê những cá nhân có năng lực
khác ở ngoài vào. Thương vụ Sony mua lại Columbia Pictures Entertainment
Inc (1989) là một ví dụ điển hình. Ban lãnh đạo Sony sau khi mua lại
hãng phim này đã quyết định thuê cùng lúc hai CEO là Jon Peters và Peter
Guber với mức chi trả 2.7 triệu USD mỗi năm, 8% giá trị thị trường gia
tăng thêm của công ty trong 5 năm, 50 triệu USD tiền thưởng sau 5 năm.
Chính điều này sẽ làm nảy sinh xung đột lợi ích khi những người lao động
khác không được đánh giá một cách đúng đắn năng lực của mình và dẫn
đến năng lực lao động suy giảm và là một trong những nguyên nhân mang
lại sự thất bại cho Sony trong thương vụ này. Người lao động luôn luôn
là lực lượng được pháp luật bảo vệ nhiều nhất cần phải biết việc mình bị
sa thải là có đúng luật hay không để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho
mình.
Bên cạnh đó,
khách hàng và các đối tác chiến lược của DN cũng bị tác động. Lợi ích
tài chính lúc này bị chi phối bởi sự cạnh tranh của nhiều thế lực khác
nhau trong và ngoài DN. Những chiến lược kinh doanh mới hay những đích
đến khác nhau trong mục tiêu tăng trưởng của DN đi thôn tính có thể làm
thay đổi khách hàng, thị phần, mức độ hợp tác…giữa những khách hàng hiện
tại của DN bị thôn tính. Mối quan hệ sẵn có giữa DN bị thôn tính với
khách hàng, đối tác của mình có thể bị thay đổi, xóa bỏ hoặc củng cố khi
có sự “nhúng tay” của DN thâu tóm.
Dù việc thôn
tính là một nước cờ mạo hiểm hay là một kịch bản được dàn dựng công phu
từ trước thì khi đã thâu tóm được công ty mục tiêu, vấn đề về tài sản,
văn hóa công ty, thương hiệu, thị trường…luôn luôn là những vấn đề phát
sinh xung đột lợi ích. Xung đột tài sản trong lĩnh vực thuế xuất hiện
khi DN thâu tóm gánh trên vai thuế thu nhập và DN bị thâu tóm chịu thuế
chuyển nhượng, do vậy cần phải được dự liệu và thương thảo.Đối với các
khoản nợ của công ty bị sáp nhập sẽ được tính vào tài sản của công ty.
Tài sản nợ này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của việc thâu tóm nếu
như công ty tiếp quản không có phương án xử lý nợ rõ ràng và hiệu quả. .
Bên cạnh
những xung đột hữu hình đó thì một xung đột vô hình khác vẫn tồn tai và
khoét sâu vào nội bộ DN, đó là xung đột về văn hóa. Khi quá trình thâu
tóm chưa đi vào quỹ đạo, văn hóa doanh nghiệp khó có sự giao thoa. Chính
sự không tương thích giữa những môi trường làm việc dẫn đến sự đi xuống
của chất lượng và hiệu quả trong công việc, làm giảm hình ảnh của DN
sau thâu tóm.
Làm gì để hạn chế xung đột lợi ích?
Bản chất của
sự thâu tóm là những “ván bài lớn” phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố thúc
đẩy. Ở Việt Nam, các thương vụ M&A diễn ra ở nhiều lĩnh vực nhưng
nổi bật nhất là các thương vụ liên quan đến DN thuộc nhóm tài chính –
ngân hàng. Đây là những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, sự biến
động của nó có thể tạo ra phản ứng dây chuyền làm ảnh hưởng đến toàn bộ
nền kinh tế. Hạn chế xung đột lợi ích khi DN bị thâu tóm cũng là cách để
hạn chế những thiệt hại cho các DN.
Trước hết,
DN cần phải quan tâm xây dựng và duy trì mối quan hệ cổ đông. Một vụ mua
bán không thể xảy ra nếu như các cổ đông kiên quyết giữ phần sở hữu của
mình, không để tỷ lệ đó bị vốn hóa bởi những nhà đầu tư khác. Đó là một
bài toán khó của những người lãnh đạo, bởi xây dựng niềm tin cổ đông là
một vấn đề không những cần đến yếu tố thời gian mà còn cần đến sự đầu
tư kỳ công và tâm huyết. Tuy vậy, việc nắm bắt tâm lý cổ đông, tìm hiểu
nguyện vọng và khơi dậy mối quan tâm của cổ đông trong vấn đề kinh doanh
sẽ giúp cho công tác quan hệ cổ đông của DN phát triển.
Bên cạnh đó,
DN cần hiểu rõ bản chất của M&A không phải là một trò chơi mà là
một tầm nhìn, một chiến lược dài hạn để chấp nhận hay đối phó với nó khi
DN rơi vào tầm ngắm của đối thủ khác. Xét ở khía cạnh lợi ích, mua bán
và sáp nhập không phải là hoạt động đầu tư theo nghĩa thông thường mà về
bản chất đó là sự tối ưu hoá đầu tư. Do vậy, dù bị thâu tóm, DN nên
xem đó là xu thế tất yếu trong dòng chảy kinh tế thị trường để chú trọng
tới vấn đề tối ưu hóa giá trị của DN thay vì “đau đầu” với bài toán đối
phó, từ đó xóa dần khoảng cách xung đột lợi ích giữa các bên.
Trong khi
hàng rào pháp lý của Việt Nam trong lĩnh vực này còn rất hạn chế, nằm
rải rác trong các quy định về Luật cạnh tranh, Doanh nghiệp, Đầu tư,
Chứng khoán, Tín dụng ngân hàng…thì DN nên chủ động bảo vệ mình trước
những “cơn lốc” thôn tính thay vì trông chờ một cơ chế bảo vệ hoàn thiện
từ phía Nhà nước. Một bản Điều lệ công ty có chứa các quy định bất lợi
cho bên thâu tóm, hay những điều khoản cứu cánh theo kiểu “chiếc dù
vàng” là một việc cần thiết và nên làm để bảo vệ DN của mình trước nguy
cơ thôn tính. Khi tránh được các nguy cơ bị thôn tính thì cũng chính là
lúc DN hạn chế được xung đột lợi ích xuất hiện trong môi trường kinh
doanh của mình.
Trong khi xu
hướng nhà đầu tư nước ngoài liên doanh để thực hiện dự án đầu tư với
bên Việt Nam ngày càng gia tăng, nếu DN coi nhẹ vấn đề về thương hiệu và
không đấu tranh bảo vệ hình ảnh của mình thì nguy cơ bị thôn tính sẽ
sớm được dự đoán như trường hợp của Bibica- Lotte gần đây nhất. Phía DN
Việt Nam sẽ sớm bị gạt ra khỏi bên liên doanh và toàn bộ cơ ngơi cũng
như giá trị thương hiệu của “ông chủ” Việt Nam sẽ bị biến mất. Để tránh
tình trạng này, lãnh đạo DN cần phải lên kế hoạch phòng ngừa, kiểm soát
các giao dịch, cổ phiếu phát hành cũng như minh bạch thông tin để hạn
chế các trường hợp rủi ro có thể xảy ra.
Sau những
thương vụ mua bán và sáp nhập đã diễn ra trên thị trường, đặc biệt là
thương vụ Highland Coffee thâu tóm Phở 24 nhưng lại bán 50% cổ phần cho
Jollibee như hiện nay, dư luận băn khoăn rằng, liệu vấn đề về thương
hiệu, uy tín và giá trị cốt lõi của DN là quan trọng hay lợi ích tài
chính từ một cuộc mua bán là quan trọng trong suy nghĩ của các chủ sở
hữu. Liệu vấn đề tối ưu hóa giá trị doanh nghiệp sau thâu tóm là việc
nên làm hay việc gia tăng các mâu thuẫn trong cuộc chạy đua tìm kiếm lợi
nhuận tài chính cho mỗi cổ đông là vấn đề mà mỗi cổ đông nên đấu tranh
đến tận cùng để đưa chữ “quyền” của mình lên nấc thang cao nhất của
thước đo lợi nhuận?!


12:26
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét