Vợ chồng
có thể phân loại ra hai thành phần: tương cận hoặc tương
phản. Chúng tôi thuộc vào loại thứ nhì: tình Bắc
duyên Nam.
Nàng thích đọc sách, tôi thích xem phim. Nàng hiền từ, tôi nóng tính. Ngày
xưa Trung học tôi học trường Việt, nàng
học trường Tây. Tôi ở Bàn Cờ gần nhà
thương Từ Dũ, nàng ở SàiGòn gần nhà hàng
Văn Cảnh. Sự khác biệt này nó lan rộng
đến cả lãnh vực âm nhạc. Tuy rằng phần
đông chúng tôi thích cùng một loại nhạc như
nhạc Pháp, Phạm Duy, Ngô Thụy Miên, Từ Công
Phụng, Nhật Trường….thế nhưng có những
bài thuộc loại nhạc Sến nàng không bao giờ nghe.
Đã thuấn nhầm văn hóa khách sáo Bắc Kỳ
Đệ Ngũ Đẳng Huyền Đai nên khi tôi nghe
vài bản nhạc không phải loại nàng nghe thì thay vì than
phiền lớn tiếng, nàng chỉ cần nhìn tôi với
một ánh mắt khinh bỉ phớt tỉnh Ăng-Lê là tôi
biết ngay nàng dùng quyền phủ quyết của Hội
viên Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc gián
tiếp cho tôi biết là đừng nên nghe.
Nhạc Sến là gì? Thế nào là
nhạc Sến? Chính tôi cũng ù ù cạc cạc không
biết chữ nhạc Sến từ đâu đến, vì
thế tôi muốn để một vài thì giờ vào
bảo tàng viện Việt Nam tìm trống đồng
Ngọc Lũ ở cạnh nhà Chế Linh để tìm hiểu
nguyên do tại sao người ta gọi là nhạc Sến, như thế
nào thì gọi là nhạc Sến, và tại sao có người
không thích nhạc Sến, chẳng lẽ nó có ảnh
hưởng ghê gớm đến sức khỏe về
chiều của mình?
Theo site http://www.thivien.net/
:
“Khoảng thập niên 1960, các
rạp ciné ở Sài Gòn, Huế và các thành thị miền Nam
thay nhau chiếu một bộ phim rất ăn khách: Anh em
nhà Karamazov, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên
của Fyodor Dostoyevsky. Trong phim có cảnh một vũ
nữ hộp đêm vừa múa vừa hát bài Mambo Italiano - y
phục nghèo nàn, thân hình bốc lửa, tóc tai
xõa xượi, gào thét và rên rỉ, quằn quại và khiêu
khích... nói chung là quậy tới bến. Diễn viên đóng
vai vũ nữ ấy là Maria Schell trước đó
chưa hề nổi tiếng nhưng nhờ màn múa
đầy ấn tượng này, tên cô được
quảng cáo ngang hàng với nam diễn viên Yul Brynner, tài tử
thượng thặng của Hollywood. Phim chiếu loanh quanh
các rạp, cả tháng chưa hết người xem. Lúc này bắt đầu xuất hiện những
người ái mộ Maria Schell.
Theo đạo diễn Lê Văn Duy: Thực ra nữ ngôi sao
điện ảnh người Thụy Sĩ, gốc Áo
Maria Schell này rất nổi tiếng. Maria Schell là ngôi sao
điện ảnh quốc tế, sinh năm 1926 tên
thật là Marghrette Schell-Noe đóng phim từ 1942 - 1985
với trên 30 bộ phim lớn. Maria Schell đã cộng tác
với rất nhiều đạo diễn lừng danh
thế giới từ các nước Anh, Pháp, Ý, Đức
và Áo như Astruc và Chenal, Clément, Brooks, Daves, Cooper, Mann,
Visconti, Chabrol, Guitry... trong đó có thể kể những
bộ phim lớn nổi tiếng như Napoléon, Gervaise, Anh
em nhà Karamazov, Con đường về hướng tây,
Kẻ sát nhân thích âm nhạc, Trong lớp bụi mặt
trời, Hồ sơ Odessa, Trưởng giả điên,
Khách đến từ Sans-Souci... Maria Schell có người em
trai rất nổi tiếng là diễn viên kiêm đạo
diễn Maximiliam Schell, đoạt giải Oscar trong bộ
phim Xử án ở Nuremberg, phim cũng đã chiếu ở
Sài Gòn thập niên 1960. Như vậy việc chọn từ
“sến” không hề xuất phát từ một diễn viên
điện ảnh tầm thường mà là việc
gọi trại tên từ một ngôi sao điện ảnh
quốc tế Maria Schell theo giọng hài
biếm. Còn vì sao lại chọn tên Maria?
Dạo ấy các trường đại
học Sài Gòn còn dạy tiếng Pháp nên giới báo chí Sài Gòn
đã chọn cái tên Maria vốn là tên một cô gái Pháp
rất phổ cập ở nước này.
Trẻ em đường phố tập tành
nhún nhảy bài Mambo Italiano. Các cô gái đợt sóng
mới lăng-xê kiểu tóc xõa xượi, mắt xanh Bel,
phô trương thân hình... Trên sân khấu phòng trà mọc lên
những ngôi sao ca nhạc gào thét, quằn quại như con
thanh xà, bạch xà. Từ Mari Sến thoạt
tiên được dùng như một biến âm của Maria
Schell để chỉ dạng biến thái này trong sinh
hoạt của giới trẻ. Dầu không giống
Maria Schell cho lắm, nhưng các Sến cũng tạo
được một sức hấp dẫn nhất
định. Có bài thơ làm chứng như sau:
Em phải là người em Sến không
Sao môi em đỏ, ngực em phồng
Thân hình ngào ngạt mùi son phấn
Anh muốn gì em, em biết không?
Theo giáo sư, nhà
ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo:
"Theo tôi, gốc của từ "sến"
phải bắt đầu từ chữ "sen" trong
nghĩa con sen, là đứa ở, con ở. Xuất phát
của từ này ở miền Bắc, thời kỳ Pháp
thuộc vào những năm 1930 - 1945; có thể xem là
thời của Lý Toét và Xã Xệ, của văn
chương Tự Lực Văn Đoàn. Từ
"sen" đọc trại thành "sến" bởi
sự khinh bỉ, là tầng lớp thấp, văn hóa kém. Còn nếu ứng dụng vào văn chương,
nghệ thuật thì ám chỉ khẩu vị thấp hèn, ít
có giá trị. Bàn riêng về chữ "sến"
trong "nhạc sến", tôi nghĩ nghĩa gốc
cũng vậy, không thay đổi nhiều lắm.
Giáo sư Cao Xuân
Hạo cho rằng từ sến xuất xứ ở
từ con sen. Cách giải mã ấy có vẻ hợp từ
nguyên (étymologic) nhưng không hợp thực tế. Thực
tế là ở miền Nam, rất hiếm người dùng
từ con sen để gọi các “ôsin”. Còn
ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa thì sau 1954,
các con sen, con nụ đã được giải phóng.
Dầu trong sến có một phần chất sen nhưng
xuất xứ của từ này rất sang: Sến
đến Việt Nam
từ Hollywood
qua con đường nghệ thuật thứ bảy. Ai
đó chế ra từ Mari Sến khá thông minh dí dỏm,
hẳn từ trong tiềm thức đã có động
cơ phản kháng tích cực, chống lại những
thứ đua đòi, thời thượng, lai căng
vọng ngoại và rẻ tiền. Âu cũng là bản
năng gốc để bảo vệ thuần phong mỹ
tục, bảo tồn văn hóa dân tộc. Trong ý nghĩa
đó, từ Mari Sến ban đầu, không hề có
mục đích miệt thị, đả kích những
người đi ở đợ hoặc tầng lớp
bình dân lao động.
Chỉ một
thời gian ngắn, từ Mari Sến (hoặc ngắn
gọn là sến) trở nên thông dụng để nói
về người (cả nam lẫn nữ) về âm
nhạc, phim ảnh, hội hoạ, thời trang... và
cả ngôn ngữ văn học, cung cách ứng xử trong
giao tiếp hằng ngày.
Chưa có một
quy định "chuẩn" nào để phân biệt
bản nhạc này thuộc loại "sến",
bản kia không "sến" nhưng không biết do
đâu mà hầu như tất cả các bản nhạc
được sáng tác trước 1975 - nhất là những
bản có điệu boléro, rumba, ballade... đều bị
quy là nhạc sến (tiếng "sến"
được hiểu theo nghĩa dè bỉu, mỉa mai,
khinh thị…)…”
Đấy là lời bàn của http://www.thivien.net/
về nhạc Sến. Tôi vào Youtube tìm video ca sĩ hát
những bài nhạc Sến như Phố đêm, Phận gái thuyền quyên, Lời
kẻ đăng trình, Nhớ người yêu, Duyên kiếp...hoặc
những bài tương tự như vậy thì phần
đông là do ca sĩ người Nam hay Trung hát: Tuấn Vũ, Trường
Vũ, Mạnh Đình, Mạnh Quỳnh, Duy Khánh, Chế
Linh, Quang Linh, Thế Sơn, Đàm Vĩnh Hưng, Đặng
Thế Luân, Quang Lê, Thanh Tuyền, Thanh Thúy, Phương
Hồng Quế, Sơn Tuyền, Như Quỳnh,
Phương Dung, Hương Lan, Phi Nhung, Băng Tâm, Mỹ
Huyền…
Ngược lại, tìm ca sĩ hát những bài hát
của Phạm Duy, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng,
Đức Huy… thì ca sĩ phần đông là người
Bắc: Vũ Khanh, Elvis Phương (trường hợp
ngoại lệ hiếm có), Sĩ Phú, Duy Quang, Duy Trác, Tuấn
Anh, Đức Huy, Tuấn Ngọc, Bằng Kiều, Nguyên
Khang, Khánh Ly, Ý Lan, Ngọc Lan, Lệ Thu, Ái Vân, Thanh Lan, Thu
Phương, Khánh Hà, Thái
Hiền, Lưu Bích…
Không cần là nhà bác học đại tài
được trao giải thưởng Nobel của
Thụy Điển, chỉ cần dựa vào hai dữ
kiện trên một người có thể phân tích ngay nhạc
mà người ta cho là nhạc Sến có những
đặc tính như sau:
-Ca sĩ, và nhạc sĩ viết/hát những bản nhạc này đều
là người Nam.
-Lời nhạc mộc mạc, đơn sơ, không
bóng bẩy (“Em ơi nếu
mộng không thành thì sao?” Lam Phương)
-Điệu nhạc u
buồn, có vẻ rên rỉ, và tương đối
dễ hát.
-Nhiều bài được vọng cổ khai thác trong
tân cổ giao duyên.
Theo thiển ý của tôi thì bài
nhạc tự nó không sến, chỉ vì người hát mà nó
trở thành sến. Thí dụ như bài Mộng
Dưới Hoa, thơ Đinh Hùng, nhạc Phạm Đình
Chương, người Bắc:
Chưa gặp em tôi vẫn
nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn tôi không nói năng
Bây giờ chúng ta nhắm mắt tưởng tượng
một ca sĩ Nam Kỳ hát :
Chưa
gặp em, tui dzẩn nghỉ rằng, có nàng thiếu
nử đẹp như trăng…
Bảo đảm bài hát hay
đến đâu người nghe cũng cảm thấy
sến, phần lớn là vì phát âm không chính xác.
Về phương diện phát âm
không chuẩn thì người Bắc có một lợi
điểm vì chính họ cũng phát âm vài chữ sai nhưng
người Việt -Bắc hay Nam- lại cho là hay và êm tai, không gọi là sến. Hãy nghe cùng lời
nhạc trên với một ca sĩ Bắc Kỳ hát:
Chưa
gặp em, tôi vẫn nghĩ dzằng, có nàng thiếu nữ
đẹp như chăng…
Người
Bắc nào cũng đọc âm “r” sai thành “dz”, “rằng” sai
thành “dzằng”, và “tr” sai thành “ch”, “trực” sai thành
“chực”. Ca sĩ Tuấn Ngọc, khác với người
Bắc bình thường, hát vần tr “trên”, “trăng”, “trúc”,
“trước”… thành vần “ch” rất nặng: chên, chăng, chúc, chước…, vì thế mỗi lần tôi nghe Tuấn
Ngọc hát thì cảm thấy khó chịu vô cùng. Ấy
thế mà vợ tôi người Nam nghe thấy hay, không có gì
là sến!
Theo lời bình luận trên
của http://www.thivien.net/ thì họ không biết ai đã dùng
chữ nhạc Sến để ám chỉ loại nhạc
tôi vừa mô tả bên trên. Tôi nghĩ
người viết bài đó lịch sự nên không dám nói
thẳng. Tôi là người điếc không sợ súng
nên dám quả quyết là những người miền
Bắc (sau 54 vào Sàigòn) không thích nhạc phẩm do
người Nam sáng tác, không thích ca sĩ người
miền Nam hát, sợ cạnh tranh với nhạc…tiền
chiến của nhạc sĩ người miền Bắc
viết nên họ đặt ra danh từ nhạc Sến
với ám chỉ chê bai.
Nói có sách, mách
có chứng, tôi xin trưng dẫn một thí dụ rõ ràng:
Nhà thơ Nguyễn Hữu Loan người Bắc làm bài
thơ Mầu Tím Hoa Sim rất nổi tiếng nói về
một cô gái lấy chồng đi lính, chồng không chết
mà cô ta chết. Bài thơ này được hai ca sĩ
phổ nhạc: một là do nhạc sĩ Dzũng Chinh, nguời
Nam, tựa đề Những Đồi Hoa Sim, và một
là do Phạm Duy, người Bắc, tựa đề Áo
Anh Sứt Chỉ Đường Tà.
Bài Áo Anh Sứt
Chỉ Đường Tà (giọng nhạc lên xuống,
nhanh chậm, cầu kỳ hơn Ngã Bẩy SàiGòn) của
Phạm Duy chỉ có Elvis Phương, Vũ Khanh, Duy Quang
hát, trong khi bài Những Đồi Hoa Sim chỉ có ca sĩ người Nam trình
bày: Phương Dung, Tuấn Vũ, Thanh Tuyền, Như
Quỳnh. Hỏi mười người
Bắc thì chín người sẽ nói là bài Những
Đồi Hoa Sim là nhạc Sến.
Nếu người Bắc cho
rằng lời nhạc bình dị là một yếu tố
biến một bài nhạc thành nhạc Sến, tôi cực
lực phản đối, khiếu nại đến
Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ. Tôi trưng dẫn thí
dụ bài Nhớ Người Yêu: “Ước gì mình đừng ngăn cách, Ước
gì nhà mình chung vách, Hai đứa mình thức trắng đêm
nay.” (câu cuối cùng được đổi lại
rất thịnh hành: “Anh khoét
tường anh đến với em”). Tôi
bảo đảm anh nhạc sĩ Bắc, Trung, Nam,
Tây, Tầu nào cũng đều ước ao em ở
gần nhà để mình khoét tường đến
thăm. Cái khác biệt là người Nam nói huỵch
tẹc ý nghĩ của mình, trong khi Bắc Kỳ thì khách
sáo, trong lòng thì muốn lắm
đấy nhưng ngoài mặt giả vờ “em chả, em
chả…”, không dám viết thật sự ý nghĩ của
mình qua lời nhạc.
Tuy
tôi là người Bắc nhưng thơ tôi viết không
thuộc loại “lên mây”, nhẹ nhàng, bóng gió. Ngược lại, thơ tôi bình
dị, đơn sơ, chất phác, rất giống
như lời của những bài nhạc Sến. Nếu
tôi là người Nam, là nhạc sĩ phổ chính thơ
của tôi thành nhạc thì bảo đảm người
Bắc sẽ phân loại nhạc của tôi thuộc
loại nhạc Sến. Nhưng tôi là người Bắc,
thành ra thơ tôi có phổ nhạc Sến đến đâu
người Bắc cũng không bao giờ gọi là
Sến. Tôi muốn chứng minh điều đó bằng
cách bây giờ sẽ học nhạc cấp tốc
để phổ vài câu thơ thành nhạc:
Cầu
Bông có một đống sình,
Nơi mười năm trước chúng mình quen
nhau.
..............
Tình
chỉ đẹp khi còn dang dở,
Tình mất vui khi đã trọn câu thề.
Anh yêu em, em làm khó dễ trăm
bề,
Tối
nay ân ái, em sẽ chết về tay anh.
..............
Thương
em mấy núi cũng trèo,
Nhưng
nếu em mập quá, thì khỏi trèo em ơi.
..............
Ước
sao ăn ở một nhà,
Em lo dọn dẹp, anh bỏ
nhà đi chơi.
..............
Trăng
rằm mười tám trăng lu,
Lấy
chồng thợ máy, con cu cũng dính dầu.
Nguyễn
Tài Ngọc
Posted in: Van Hoá
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét