Bản vị vàng (gold standard) là
chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định
bằng hàm lượng vàng. Dưới chế độ bản vị vàng, tổ chức phát hành tiền mặt
(ở dạng giấy bạc hay tiền xu) cam kết sẵn sàng nhận lại tiền mặt và trả
vàng nếu được yêu cầu.
Các
chính phủ sử dụng thước đo giá trị cố định này nếu chấp nhận thanh toán
cả tiền mặt của chính phủ nước khác bằng vàng sẽ có liên hệ tiền tệ ấn
định (lượng tiền mặt lưu hành, tỷ giá quy đổi, v.v..)
Những người ủng hộ chế độ bản vị vàng
cho rằng hệ thống này đề kháng được sự bành trướng tín dụng và nợ nần.
Không như chế độ tiền luật định (không có vàng bảo đảm), đồng tiền được
bảo đảm bằng vàng sẽ không cho phép chính phủ tùy tiện in tiền giấy. Cản
trở này ngăn hiện tượng lạm phát do đánh tụt giá tiền tệ. Nó được tin
rằng giúp loại bỏ được sự bất ổn hệ thống tiền tệ, đảm bảo sự tín nhiệm
của tổ chức phát hành tiền tệ và khuyến khích hoạt động cho vay. Ở những
nước không áp dụng bản vị vàng một cách triệt để như tuyên bố bảo đảm
hàm lượng vàng nhưng phát hành tiền giấy nhiều hơn, trải qua các cuộc
khủng hoảng tín dụng và trì trệ kinh tế. Ví dụ là sự hoang mang ở Hoa Kỳ
năm 1819 sau khi Ngân hàng quốc gia thứ hai ra đời năm 1816.
Ngày nay, không một quốc gia nào trên
thế giới còn áp dụng bản vị vàng. Thay vào đó, tiền luật định được áp
dụng, có nghĩa là Nhà nước áp đặt sử dụng đồng tiền do họ phát hành, yêu
cầu nộp thuế, nhận trợ cấp, thanh toán của Chính phủ bằng đồng tiền đó.
Ở một số định chế tài chính tư nhân, bản vị vàng vẫn được áp dụng.
Tại sao lại là vàng?
Vàng được lựa chọn bởi sự tinh khiết,
không bị biến đổi theo thời gian, dễ dàng phân biệt, thẩm định nhờ màu
đặc trưng, độ dẻo, âm thanh khi va chạm, khối lượng riêng lớn; vàng là
một vật phẩm mà các nhà buôn lựa chọn làm thước đo giá trị - nó đã được
chọn từ xa xưa là một dạng tiền và vật cất trữ của cải.
Đã có rất nhiều vật phẩm được sử dụng
làm tiền, bao gồm cả những thứ tưởng như không thể như vỏ ốc, lá cây
thuốc lá. Những thuộc tính cần phải có để một dạng vật chất trở thành
dạng cơ bản của tiền là
- Dễ phân biệt
- Bền vững
- Ổn định vể lượng sẵn có
- Giá trị nội tại không bị biến động.
Vàng đáp ứng tất cả các yêu cầu trên và
có thể nói rằng nó là dạng vật chất duy nhất trên thế giới đáp ứng được.
Lượng vàng mà con người có được không thay đổi đột biến trong nhiều thế
kỷ; lượng vàng bổ sung nhờ khai mỏ là nhỏ và dự tính được. Phần lớn
vàng được tàng cất trong kho, quỹ, két ở dạng “chức năng” của nó là vật
lưu trữ giá trị. Nhu cầu vàng cho mục đích khác chỉ là trang sức, răng
giả và đồ điện tử mà thôi. Việc sử dụng vàng làm đồ trang sức và các vật
trang trí khác có thể coi là cùng chức năng lưu trữ giá trị bởi thuộc
tính thẩm mĩ của nó. Hai ứng dụng còn lại chỉ chiếm một phần rất nhỏ so
với lượng vàng được tàng trữ dưới dạng thỏi, nén; bên cạnh đó, nhu cầu
vàng trong lĩnh vực nha khoa đang giảm xuống nhờ việc sử dụng các vật
liệu trông giống răng thật. Ngoài vàng ra, bất kỳ vật phẩm nào khác đều
có thể biến đổi giá trị khi cung và cầu thay đổi.
Quá trình đi đến chọn vàng làm tiền,
trong các xã hội, khác nhau theo thời gian và địa điểm. Tuy vậy các nhà
sử học tin rằng, giá trị cao của vàng nhờ đẹp, tinh khiết, không bị ăn
mòn, luôn ổn định, và dễ nhận ra đã đưa nó trở thành vật bảo toàn giá
trị và thước đo giá trị của các dạng hàng hóa, vật chất khác. Ở thành
Babylon cổ đại, giạ lúa mì (36 lít) đã được sử dụng làm đơn vị tính toán
với khối lượng vàng tương ứng được sử dụng làm vật mang giá trị. Những
hệ thống tiền tệ cổ xưa dựa trên lương thực sử dụng vàng để biểu hiện
giá trị. Nghiệp vụ ngân hàng (banking) bắt đầu xuất hiện khi vàng ký gửi
tại ngân hàng có thể được chuyển từ một tài khoản sang tài khoản khác
trực tiếp hoặc cho vay lấy lãi suất.
Khối lượng riêng lớn của vàng (19,3
g/cm³) có nghĩa là những thủ đoạn pha vàng với các kim loại khác để có
thêm khối lượng đều bị dễ dàng phát hiện (câu chuyện “Eureka” nổi tiếng
của nhà bác học Ác-si-mét). Có một số kim loại nặng hơn vàng. Trong số
các kim loại tương đối phổ biến thì chỉ có osmium (22,6 g/cm³), iridium
(22,4 g/cm³), bạch kim (21,45 g/cm³), volfram (19,35 g/cm³) là nặng hơn
vàng. Thế nhưng chúng đều đắt hơn vàng còn volfram thì giá gần bằng
vàng. Hợp kim của vàng và volfram thì khó chế tạo và không hiệu quả.
Khi được sử dụng thay mặt vàng trong hệ
thống tiền tệ, chức năng của tiền giấy là nhằm giảm nguy hiểm có thể xảy
ra khi vận chuyển vàng, giảm khả năng làm xấu những đồng xu vàng và
tránh việc rút dần phương tiện thanh toán ra khỏi lưu thông như đầu cơ
hay hao mòn. Sự xuất hiện tiền giấy ban đầu chỉ thuần túy bởi sự thiếu
tin cậy khi vận chuyển vàng, đặc biệt là những rủi ro trên những hành
trình dài; bên cạnh đó còn bởi các nước muốn sự giao thương phải đặt
dưới sự kiểm soát của họ. Tiền tệ được đảm bảo bằng kim loại quý đôi khi
được gọi là tiền biểu hiện. Và giấy bạc được phát hành theo cách này
gọi là chứng chỉ tiền tệ, một cách gọi để phân biệt nó với các dạng khác
của tiền giấy.
Trên thực tế, trong phần lớn lịch sử xã
hội loài người, bạc mới là phương tiện lưu thông chủ yếu và là kim loại
quan trọng đóng vai trò tiền tệ. Vàng được sử dụng là vật mang giá trị
cao nhất, và là phương tiện thanh toán chỉ khi cần phải gọn nhẹ như việc
thanh toán cho quân đội. Trong một số thời điểm, vàng thay thế bạc
trong vai trò đơn vị cơ sở cho thương mại quốc tế, đó là thời kỳ hoàng
kim của đạo Hồi (năm 662 đến 1258), thời kỳ đỉnh cao của các thành quốc
buôn bán Italia trong thời Phục hưng, và đáng kể nhất là trong thế kỷ
19. Vàng duy trì vai trò là kim loại của kế toán lưu trữ tiền tệ cho đến
khi hệ thống tiền tệ Bretton Woods sụp đổ năm 1971. Cho đến nay, nó vẫn
là đối tượng dự trữ quan trọng ở các ngân hàng trung ương và chính phủ,
là phương tiện duy trì khả năng thanh khoản và thực hiện chức năng bảo
toàn giá trị.
Tổng lượng vàng mà con người đã khai
thác cho đến nay thật ít một cách kinh ngạc – khoảng 125 ngàn tấn. Nếu
toàn bộ số vàng đó được xếp ở một chỗ thì chỉ một nhà thi đấu bóng rổ đủ
chứa toàn bộ (cao 9 m, rộng 18 m, dài 36 m).
Giá vàng hiện nay khoảng US$640 một
ounce tức là khoảng 20.000 đôla Mỹ một kg, giá trị toàn bộ dự trữ vàng
của thế giới là chừng 2,5 nghìn tỷ đôla Mỹ. Con số này còn ít hơn lượng
tiền mặt lưu thông tại Mỹ. Do đó, nếu người ta muốn quay lại bản vị vàng
thì hoặc là vàng phải lên giá rất nhiều (vài chục đến vài trăm lần)
hoặc chỉ đảm bảo một phần nhỏ giá trị tổng số tiền mặt lưu hành.
Tiền xu cổ đại
Kim loại đầu tiên được sử dụng làm tiền
là bạc hơn 4.000 năm trước, khi những miếng bạc được sử dụng trong buôn
bán. Những đồng xu bằng vàng đầu tiên được dùng bắt đầu từ 600 năm trước
Công nguyên (TCN). Tuy vậy, trước thời điểm đó khá lâu, vàng cũng như
bạc đã được sử dụng làm vật lưu trữ của cải và cơ sở cho các giao kèo
buôn bán ở Akkadia (một thành phố Tiểu Á) và sau đó là Ai Cập Cổ đại.
Bạc vẫn là kim loại tiền phổ biến nhất trong các giao dịch thông thường
cho đến thế kỷ 20. Ngày nay, nó vẫn được lưu thông ở dạng tiền xu có hai
kim loại, như đồng 20 pê-xô của Mexico phát hành năm 2006.
Đế chế Ba Tư thu thuế bằng vàng, và khi
đế chế này bị Alexander Đại Đế chinh phục, số vàng được đúc thành tiền
của đế quốc do ông đứng đầu. Vàng được dùng để trả lương cho quân đội và
thưởng cho lính đánh thuê, việc này càng củng cố sự quan trọng của
vàng. Như được nói đến trong tác phẩm “Hoàng tử” (The Prince) của
Niccolo Machiavelli hai ngàn năm sau đó thì, vàng đã trở nên đồng nghĩa
với việc chi dùng cho các chiến dịch quân sự. Đế chế La Mã đúc hai loại
tiền xu quan trọng, đó là đồng aureus, nặng 7 gram hợp kim vàng-bạc; và
đồng solidus, nặng 4,4 gram trong đó có 4,2 gram vàng. Các xưởng đúc
tiền La Mã tích cực một cách xuất sắc - người La Mã đúc và lưu hành hàng
triệu đồng xu tiền trong thời gian nền Cộng hòa và thời gian Đế chế.
Sau sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã và
các mỏ vàng ở Châu Âu đã cạn kiệt, Đế quốc Đông La Mã (còn gọi là Đế
quốc Byzantine) đúc đồng tiền nimisma hay bezant để kế thừa đồng
solidus. Đồng tiền xu mới này có khối lượng và độ tinh khiết như đồng xu
cũ và vẫn được coi là đồng solidi. Thật đáng tiếc, Đế quốc Byzantine,
vào khoảng năm 1030 giảm dần hàm lượng vàng trong tiền xu của nó cho đến
khi tiền xu trong lưu thông chỉ còn 15% vàng. Điều này thể hiện sự mất
mát giá trị khủng khiếp của đồng tiền này so với những đồng tiền xu thời
La Mã vốn có hàm lượng vàng từ 95% đến 98%.
Từ cuối thế kỷ thứ 7, đồng dinar dần trở
thành đồng tiền của thương mại quốc tế. Đồng dinar được phát hành bởi
Để chế Ả rập, theo hình mẫu của đồng tiền solidus La Mã, có cùng kích
thước, khối lượng, hàm lượng vàng. Dinar và solidus của Đế quốc Đông La
Mã cùng tồn tại trong lưu thông trong 350 năm, sau đó, đồng solidus bắt
đầu suy yếu.
Đồng dinar bằng vàng và đồng dirham bằng
bạc đều có nguồn gốc từ người Ba Tư (Persian). Sau đó, những vị vua đạo
Hồi cũng chọn đồng tiền này làm tiền của vương quốc, thậm chí Abd
al-Malik (trị vì 685-705) cải cách đồng tiền đến mức mà người ta nghĩ
rằng đồng dinar và dirham có xuất xứ từ đây. Ông bỏ những hình vẽ trên
đồng xu, quy định chuẩn mực của đồng tiền phải nói về Thượng Đế (Allah)
và ấn định tỷ lệ vàng-bạc. Thế lực và thương mại lớn mạnh của đạo Hồi
đưa đồng dinar trở thành đồng tiền thống trị từ bờ biển phía tây Châu
Phi cho đến bắc Ấn Độ tới tận những năm 1200, và nó vẫn là đồng tiền chủ
chốt trong hàng mấy trăm năm sau đó. Vậy là đồng solidus, với những đặc
điểm của như kích thước, hàm lượng, khối lượng và dù dưới nhiều tên
khác như dinar, bezant, đã trở thành đơn vị tính toán giá trị trong hơn
1.300 năm qua ba đế chế hùng mạnh.
Năm 1284, Cộng hòa Venice (còn có tên
Serenissima - một thành quốc Italia tồn tại từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 18)
phát hành đồng tiền vàng đầu tiên của nó, đồng ducat. Đồng tiền trở
thành chuẩn mực của tiền xu Châu Âu cho 600 năm tiếp theo. Các đồng xu
các là đồng florin, noble, grosh, zloty và guinea cũng được phát hành
thời gian này ở các quốc gia Châu Âu khác nhằm tạo điều kiện mở rộng
thương mại. Đồng ducat, nhờ vai trò ưu việt hơn hẳn trong giao thương
với thế giới đạo Hồi và khả năng xây dựng quỹ dự trữ vàng mới, đã là
đồng tiền tiêu chuẩn để các đồng tiền khác quy đổi.
Ở Châu Mỹ, từ khi bắt đầu chinh phục đế
chế Aztec và Inca của người da đỏ, Tây Ban Nha vốn chỉ có nhiều bạc, đã
tiếp cận được nguồn vàng mới để đúc tiền. Đơn vị tiền bằng vàng cơ bản
của Tây Ban Nha là đồng escudo, và đồng “doblión” (tương đương 8
escudo). Đồng doblion ban đầu được ấn định nặng 27,68 gram vàng 22 carat
(92%) và có giá trị gấp 16 lần lượng bạc tương đương. Năm 1704, khu vực
Caribe lựa chọn vàng là tiền tệ lưu hành nhờ lượng vàng dồi dào của nó.
Việc lưu hành tiền xu của Tây Ban Nha tạo ra đơn vị đo giá trị của Hoa
Kỳ, đồng đôla dựa trên nguồn bạc của Tây Ban Nha và thị trường tiền tệ
Philadelphia bắt đầu giao dịch bằng đồng tiền thuộc địa Tây Ban Nha.
Lý luận
Những điểm cơ bản của lý luận bản vị
vàng nằm ở lý luận theo David Hume rằng lạm phát là do lượng tiền mặt
tăng lên và sự bất trắc của sức mua tiền tệ trong tương lai o bế lòng tự
tin của doanh nghiệp và dẫn đến thương mại và đầu tư giảm sút. Luận
điểm trung tâm của bản vị vàng là nó xóa đi sự bất trắc, sự không thống
nhất giữa các loại tiền cũng như những giới hạn có thể trong tương lai.
Các đối tác thương mại sẽ mang lại lợi ích to lớn cho một nền kinh tế
bằng cách mở rộng thị trường của hàng hóa đó, bằng sự đáng tin cậy của
tín dụng cung cấp cho nhau và bằng sự vững vàng của thị trường hàng hóa.
Trong lý luận bản vị vàng, sự hạn chế tài chính và tiền tệ mà chính phủ
phải tuân thủ là trung tâm của những lợi ích giành được. Những người cổ
súy cho bản vị vàng tin rằng chính phủ là có hại cho nền kinh tế, nó
can thiệp vào thị trường vốn vận hành hoàn hảo và hạn chế tự do cá nhân.
Các định nghĩa khác nhau về bản vị vàng
Nếu cơ quan quản lý tiền tệ giữ đủ vàng tương ứng với toàn bộ lượng tiền lưu thông, đó là chế độ bản vị vàng đầy đủ.
Một số người tin rằng không có một chế
độ bản vị vàng nào khác ngoài chế độ bản vị đầy đủ. Bởi vì trong một chế
độ bản vị vàng một phần (tức là không giữ đủ 100% vàng), sẽ có một
lượng tiền mặt không được đảm bảo bằng vàng, nó có thể do cơ quan quản
lý tiền tệ muốn thu hồi chi phí phát hành tiền (thuế đúc tiền) và vì thế
gây ra lạm phát (bản vị vàng đầy đủ không có lạm phát). Những người
khác, ví dụ những người ủng hộ kinh tế học trọng cung lại lý luận rằng
cứ khi nào mà vàng còn được sử dụng làm phương tiện đo giá trị kinh tế
thì khi đó là chế độ bản vị vàng.
Chế độ bản vị vàng đầy đủ không thể vận hành được bởi hai lý do:
Thứ nhất, lượng vàng trên thế giới là quá nhỏ so với lượng tiền cần thiết để duy trì hoạt động kinh tế toàn cầu.
Thứ hai, lượng tiền vừa đủ (có nghĩa là không gây lạm phát và cũng
không giảm phát) không phải là cố định, nó biến động liên tục cùng với
mức độ hoạt động thương mại.
Trong một quốc gia theo chế độ bản vị
vàng, tiền xu vàng lưu thông như tiền và tiền giấy được đổi ra vàng trực
tiếp theo giá thị trường (chính phủ không thể bắt buộc), tiền giấy
giống như một tờ séc cho phép người cầm giữ nó quyền sở hữu một lượng
vàng nhất định đang được quản lý bởi người phát hành tờ tiền đó.
Tuy nhiên, khi lượng vàng đổi được của
tờ tiền giấy đó biến động có nghĩa là tờ tiền giấy trở thành tiền luật
định và sẽ thường xuyên giảm nội dung vàng. Đây là trường hợp chính phủ
phát hành tiền không có vàng đảm bảo trong chiến tranh. Ví dụ của nó là
những đồng đôla do chính phủ Liên bang phát hành trong Nội chiến Hoa Kỳ
và tiền giấy của Áo trong thời kỳ Chiến tranh Napoleon. Sau thời gian
chiến tranh, tiền lại được bảo đảm bằng vàng – tức là trở lại hệ thống
tiền tệ kim bản vị.
Những người ủng hộ chế độ bản vị vàng
chỉ ra rằng chế độ tiền luật định trước sau gì đều dẫn đến lạm phát do
sự điều hành kém cỏi hoặc bởi chính phủ cứ in tiền ra để bù đắp thâm hụt
ngân sách.
Hệ thống bản vị vàng quốc tế có thể tồn
tại mà không có chế độ bản vị vàng ở bất kỳ quốc gia nào, khi đó vàng
hoặc tiền tệ (đổi ra vàng ở tỷ giá cố định) được sử dụng là phương tiện
thanh toán quốc tế. Ở chế độ này, khi tỷ giá tiền tệ dâng lên hay tụt
xuống quanh ngưỡng đúc tiền (fixed mint rate) và chênh lệch tỷ giá này
lớn hơn chi phí vận chuyển vàng giữa các nơi chênh lệch thì một lượng
vàng lớn sẽ được luân chuyển cho đến khi tỷ giá trở về với ngưỡng chính
thức là ngưỡng đúc tiền Các chế độ bản vị vàng quốc tế đều giới hạn số
tiền mà các thực thể trong đó có quyền quy đổi lấy vàng. Dưới chế độ bản
vị vàng Bretton Woods, số tiền này gọi là “quyền rút vốn đặc biệt”
(Special Drawing Rights – SDRs).
Tác động của tiền tệ được đảm bảo bằng vàng
Sự cam kết duy trì khả năng chuyển đổi
tiền ra vàng một cách chặt chẽ hạn chế quá trình tạo ra tín dụng. Tín
dụng bởi các tổ chức ngân hàng dưới chế độ bản vị vàng đe dọa khả năng
chuyển đổi của giấy bạc do họ phát hành và dẫn đến hậu quả là vàng bị
rút ra khỏi các quỹ dự trữ của ngân hàng đó ngoài ý muốn. Kết quả của
việc đánh mất sự tự tin làm cho
Sự ổn định nhờ bản vị vàng
Theo lý thuyết, bản vị vàng giới hạn
quyền năng của chính phủ trong việc tạo ra lạm phát bằng cách bơm thêm
tiền giấy vào lưu thông, mặc dầu vậy, có bằng chứng cho thấy trước Thế
chiến thứ nhất, các nhà quản lý tiền tệ đã không mở rộng hay thu hẹp
cung tiền ngay cả khi nước đó bị thất thoát vàng. Bản vị vàng tạo ra sự
vững chắc của thương mại quốc tế do nó cung cấp một cơ cấu cố định tỷ
giá tiền tệ. Sau các chế độ bản vị bạc mất giá liên tục của mười năm đầu
thế kỷ 18, vàng được coi là sự thay thế tốt hơn và trở thành nguyên
nhân, mục đích cho thương mại. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 19, những lập
luận chống lại bản vị vàng tạo ra xu hướng chính trị ở đa số các quốc
gia công nghiệp nghiêng về những dạng tiền tệ dựa trên bạc, hoặc thậm
chí là tiền giấy không thôi.
Dưới chế độ bản vị vàng cổ điển quốc tế,
những biến động về giá ở một quốc gia sẽ được điều chỉnh một phần hoặc
toàn bộ bởi cơ chế tự cân bằng thanh toán gọi là cơ chế dòng chảy giá
cả-bản kim (bản kim ở đây là tiền xu vàng). Cơ cấu này như sau:
Đầu tiên, khi giá một loại hàng hóa giảm
xuống nhờ cung tăng vọt, tăng hiệu quả vốn, giảm giá đầu vào hoặc do
cạnh tranh, người mua sẽ nghiêng về hàng hóa đó nhiều hơn những hàng hóa
khác. Bởi sự ổn định tỷ giá tiền-vàng, người tiêu dùng ở các nước khác
sẽ mua hàng hóa được định giá thấp nhất và vì thế, vàng sẽ chảy về các
nước có nền kinh tế hiệu quả nhất.
Lúc đó, quốc gia mới nhận luồng vàng đến
phải tăng cung tiền tệ và chịu áp lực lạm phát vừa phải để bù lại việc
giảm giá trước đó.
Đồng thời, lượng tiền lưu hành ở các nền
kinh tế kém hiệu quả bị giảm đi, vì vậy giá cả ở các nước này giảm
xuống cho đến khi sự cân bằng được khôi phục.
Các ngân hàng trung ương, với mục đích
ngăn cản luồng vàng chảy đi, sẽ chống đỡ bằng cách tăng tỷ lệ lãi suất
làm sao để đưa giá cả trở lại mức cân bằng quốc tế nhanh hơn. Về mặt lý
thuyết, chừng nào còn duy trì bản vị vàng thì chừng đó hạn chế được lạm
phát cao hoặc giảm phát ngoài tầm kiểm soát. Có một thời gian, người ta
tin rằng các thị trường luôn luôn vận hành rạch ròi (xem nguyên lý Say).
Sự giảm phát sẽ làm thay đổi giá của vốn trước tiên, có nghĩa là giá
của vốn giảm và cho phép tăng trưởng nhanh hơn đồng thời giá cả về mặt
dài hạn vẫn ổn định. Tuy nhiên, in trên thực tế, điều này lại không diễn
ra mà tiền lương (giá của lao động), chứ không phải giá của tư bản, sẽ
bị hạ xuống trước tiên.
Mô hình Mundell-Fleming
Theo kinh tế học tân cổ điển, mô hình
Mundell-Fleming diễn tả động thái của các đồng tiền trong chế độ bản vị
vàng. Do giá trị tiền tệ được gắn liền với hàm lượng vàng, những yếu tố
tự do còn lại để điều tiết thị trường vốn-tiền tệ là (1) tự do di chuyển
luồng vốn và (2) chính sách tài chính, tiền tệ. Một lý do khiến đa số
các nhà kinh tế học vĩ mô hiện nay không ủng hộ sự trở lại của bản vị
vàng là mối quan ngại hai yếu tố trên không đủ để đối phó với suy thoái
hoặc giảm phát lớn. Việc xem xét tình huống lý thuyết vàng trở lại là cơ
sở giá trị dẫn đến một câu hỏi là sự tín nhiệm của ngân hàng trung ương
ra sao trong một cơ chế không dựa trên kim loại quý. Dẫu cho những phần
thưởng lớn sẵn sàng trao cho ai giải được những câu hỏi trên, thì kỷ
nguyên bản vị vàng của thế kỷ 19 và thế kỷ 20 vẫn là một giai đoạn mà cơ
sở khác hẳn với cái cách hệ thống tiền tệ thả nổi ngày nay được đo đếm,
xác định giá trị.
Mundell lập luận rằng vì trong một nền
kinh tế công nghiệp, một lượng lớn tư bản không linh động, chế độ bản vị
vàng quốc tế hoặc thậm chí là chỉ ở một quốc gia có thể được tái lập.
Vẫn theo ông, điều này sẽ cho phép ngân hàng trung ương một phạm vi tự
do đủ để giảm thiểu tác động tiêu cực của chu kỳ kinh tế. Nó sẽ giảm tỷ
lệ lãi suất ở pha suy thoái và tăng trở lại để kiềm chế tăng trưởng
nóng. Milton Friedman không thống nhất ở điểm này, ông nêu ra các tác
động bởi tiền tệ về mặt lượng sẽ gây ra giảm phát trong hệ thống đó và
các quốc gia thành công sẽ nhận ra lợi ích thu được ít hơn là Mundell kỳ
vọng, bởi luồng vàng di chuyển đến một quốc gia sẽ gây lạm phát ở nước
đó. Cuộc tranh luận này tương tự cuộc tranh luận của Adam Smith và David
Hume trong thế kỷ 18 về việc tăng lượng tiền tệ có phải là một mục tiêu
đáng thực hiện hay không.
Nhiều quốc gia chống lưng cho nền kinh
tế bằng cách tích trữ vàng. Số dự trữ này không phải để bảo đảm giấy bạc
được phát hành mà nó là tài sản bảo vệ tiền tệ khỏi tỷ lệ lạm phát cao.
Những người cố súy cho vàng cho rằng không cần biện pháp này vì tiền tệ
tự nó đã mang giá trị nội tại Bản vị vàng khi đó được khuyến khích bởi
những người tin rằng một vật cất trữ giá trị ổn định là thành tố quan
trọng nhất đối với sự an tâm trong kinh doanh.
Nói chung thì ngày nay đại đa số các
chính phủ và các nhà kinh tế không ủng hộ bản vị vàng, vì chế độ này
thường cho thấy là không tạo đủ sự linh hoạt cho nguồn cung tiền tệ và
chính sách tài khóa. Và lý do của việc này là ở chỗ nguồn cung cấp vàng
mới (tức là nguồn cung cấp thêm tiền tệ dưới chế độ bản vị vàng) thì
giới hạn và phải được sử dụng một cách căn cơ.
Một quốc gia đơn lẻ không thể cách li
nền kinh tế của nó với những biến động suy thoái và lạm phát của thế
giới. Thêm vào đó, quá trình điều chỉnh thâm hụt chi tiêu ở một quốc gia
có thể lâu dài và đau đớn khi mà tỷ lệ thất nghiệp gia tăng hoặc thụt
lùi tốc độ phát triển kinh tế.
Trong số những người phản đối mạnh mẽ,
John Maynard Keynes nhấn mạnh vào điểm bản vị vàng dựa vào kim loại cứng
nhắc. Những người ủng hộ trường phái của ông cho rằng bản vị vàng gây
ra giảm phát, điều khiến suy thoái càng trầm trọng bởi người ta không
muốn đầu tư khi giá cả giảm xuống, vì vậy mà xương sống của hoạt động
kinh tế càng bị sức ép. Cũng theo họ, chế độ bản vị tước đi khả năng
chống lại khủng hoảng kinh tế đó là khả năng tăng cung tiền tệ để thúc
đấy kinh tế khôi phục.
Trái lại, những tín đồ của bản vị vàng
chỉ ra rằng kỷ nguyên công nghiệp hóa và toàn cầu hóa của thế kỷ 19 là
bằng chứng của sự tính thực tiễn và ưu việt của chế độ bản vị vàng và
nêu ra rằng nước Anh đã đi lên vị trí đế vương, cai trị gần một phần tư
dân số thế giới và xây dựng đế quốc thương mại mà ngày nay là Khối thịnh
vượng chung Anh.
Những kẻ ky cóp vàng (goldbug) lấy nó là
vật bảo vệ trước sự lạm phát giá cả hàng hóa và là biểu hiện cội nguồn
của tài nguyên. Vì vàng có thể đổi ra bất kỳ đồng tiền nào, được chấp
nhận ở mọi quốc gia trên thế giới, họ xem vàng là vật bảo đảm trước sự
phiêu lưu của các ngân hàng trung ương trong chính sách tiền tệ và vàng
là phương tiện chống rủi ro biến động tiền tệ. Với lập luận này, họ cho
rằng cuối cùng thì chế độ vàng sẽ trở lại vì nó là vật mang giá trị ổn
định duy nhất.
Ngày nay, không nhiều nhà kinh tế học
ủng hộ việc trở lại bản vị vàng trừ trường phái kinh tế học Áo và trường
phát trọng cung. Tuy vậy nhiều nhà kinh tế lớn đồng tình với việc lấy
kim loại là cơ sở của tiền tệ, đồng thời lập luận chống lại tiền luật
định. Trong số này có Alan Greenspan - người từng đứng đầu Cục Dự trữ
Liên bang trong 19 năm, và nhà kinh tế học vĩ mô Robert Barro. Năm 2000,
Greenspan đã phát biểu: “nếu anh sống trong chế độ bản vị vàng hoặc một
cơ chế khác mà các ngân hàng trung ương không có quyền thao túng, thì
hệ thống đó vận hành một cách tự động. Lý do mà có rất ít sự ủng hộ bản
vị vàng đó là những hệ quả của sự tự điều chỉnh đó không được coi là
thích đáng ở thế kỷ 20 và 21. Tôi là một trong số ít người vẫn còn cái
nhìn lưu luyến về chế độ bản vị vàng ngày xưa, anh biết điều này rồi,
nhưng tôi vẫn phải nói với anh, tôi ở trong đám thiểu số giữa các đồng
nghiệp vẫn tranh luận về vấn đề này.” Hệ thống tiền tệ ngày nay dựa vào
đồng đôla Mỹ như một đồng tiền để neo vào, đồng tiền mà các giao dịch
lớn được đo lường. Những bất ổn tiền tệ, không thể quy đổi và hạn chế
tiếp cận tín dụng là số ít trong những lý do vì sao mà hệ thống tiền tệ
ngày nay bị chỉ trích. Một loạt các giải pháp thay thê đã được đề xuất,
bao gồm cả tiền tệ dựa trên năng lượng, giỏ hàng hóa hoặc giỏ tiền tệ;
vàng cũng chỉ là một trong những giải pháp đó.
Lý do các lựa chọn này không được thực
hiện trên thực tế cũng là lý do mà hệ thống bản vị vàng sụp đổ: tỉ lệ
chuyển đổi cố định do chính phủ định ra không có mối liên hệ hữu cơ nào
giữa cung và cầu về vàng và cung và cầu về hàng hóa.
Vì vậy, bản vị vàng có xu hướng bị bãi
bỏ khi các chính phủ nhận thấy việc bỏ qua nó có lợi ích hơn. Thực chất,
bản vị vàng không có nghĩa là các quốc gia không thể chuyển sang tiền
luật định khi có chiến sự hoặc trong các tình trạng khẩn cấp khác. Điều
này vẫn xảy ra mặc dù vàng tăng giá trong các tình huống như vậy vì mọi
người thường sử dụng vàng để tích trữ vì lo sợ rằng tiền luật định
thường cho phép lạm chi và do đó thường dẫn tới lạm phát hoặc sử dụng
tem phiếu.
Khó khăn về thực tiễn là vàng hiện tại
không được phân phối theo sức mạnh kinh tế cũng là một yếu tố: Nhật Bản
là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, lại có dự trữ vàng ít
hơn rất nhiều so với cần thiết để hỗ trợ nền kinh tế này.
Năm 1996, hệ thống tiền vàng điện tử
(e-gold) được phát hành riêng với nỗ lực lập lại bản vị vàng và tạo ra
một hệ thống tiền tệ toàn cầu mới. Các hệ thống tiền vàng điện tử khác
cũng lần lượt ra đời như e-Bullion và GoldMoney.
Năm 2001 Thủ tướng Malaysia Mahathir bin
Mohamad đề xuất một đồng tiền mới mà dự kiến sẽ được áp dụng đầu tiên
với trao đổi thương mại giữa các nước đạo hồi. Đồng tiền được đề xuất có
tên là dinar vàng hồi giáo và được xác định là 4,25 gram vàng 24 cara
(100%). Mahathir Mohamad đưa ra khái niệm này trên cơ sở lợi ích về kinh
tế của đồng tiền là có cơ sở ổn định và là một biểu tượng chính trị để
nâng cao đoàn kết giữa các nước hồi giáo. Một mục tiêu có thể suy diễn
của hành động này là giảm phụ thuộc vào đồng Đô la Mỹ để dự trữ tiền tệ,
và để thiết lập một đồng tiền không dựa trên nợ tuân theo luật Hồi giáo
cấm tính lãi suất. Tuy vậy, đồng tiền dinar vàng này vẫn chưa trở thành
hiện thực.
Vàng với vai trò dự trữ ngày nay
Trong thập niện 1990, nước Nga bán hết
phần lớn lượng dự trữ vàng từ thời Liên Xô, trong khi đó, một số quốc
gia khác tích trữ vàng để chuẩn bị cho Liên minh tiền tệ và Kinh tế Châu
Âu. Chỉ còn đồng Franc của Thụy Sĩ là đồng tiền chuyển đổi ra vàng. Tuy
nhiên, dự trữ vàng với lượng đáng kể tại nhiều nước là một công cụ bảo
vệ đồng tiền của họ và tránh ràng buộc vào đồng đôla Mỹ, thực tế này
hình thành lượng dự trữ khổng lồ tiền thanh khoản cao. Đồng đôla yếu có
xu hướng được bù lại bởi giá vàng mạnh lên. Vàng vẫn là tài sản tài
chính cơ bản của gần như tất cả các ngân hàng trung ương bên cạnh ngoại
tệ và trái phiếu chính phủ. Nó cũng được tích trữ tại các ngân hàng
trung ương như là một biện pháp đề phòng .... Ước tính, 25% toàn bộ
lượng vàng có trên mặt đất được cất giữ tại quỹ của các ngân hàng trung
ương.
Tiền xu vàng và vàng thỏi được mua bán
rộng rãi tại các thị trường có tính thanh khoản cao, và do đó vẫn là
hình thức cất giữ tài sản cá nhân. Cho dù một số tổ chức, cá nhân phát
hành tiền ví dụ tiền kỹ thuật số quy ra vàng, thì chúng vẫn phải được
bảo đảm bằng dự trữ vàng của họ.
Năm 1999, để bảo vệ vai trò cất trữ giá
trị của vàng, Ngân hàng trung ương Châu Âu đã ký “thỏa thuận
Washington”, tuyên bổ rằng họ không cho phép vay nợ vàng để đầu cơ và họ
cũng không tham gia vào thị trường vàng với vai trò là người bán, trừ
khi các giao dịch đó đã ký kết trước thời điểm ký thỏa thuận trên.
Những năm cuối của Thời kỳ khủng hoảng
giá hàng hóa (1980-2000) cũng đã ảnh hưởng đến vàng, giá vàng đã tăng
vượt mức giá được giao dịch trong vòng 20 năm. Thực tế này dẫn đến hậu
quả là các tổ chức quản lý tiền tệ lại sử dụng vàng để giữ vững giá trị
đồng tiền của họ, dẫu vậy, không có nghĩa là quay trở lại bản vị vàng.
Trên thực tế ngày nay thì ngược lại, vàng càng đắt đỏ thì bản vị vàng
càng khó thực hiện.
Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn
cầu tư quý 3 năm 2010, vàng lại trở lại đóng vai trò là vịnh tránh bão
an toàn. Ở lúc đỉnh cao nhất giá vàng giao ngay đạt mức trên $1900/oz
vào quý 3 năm 2011. Ở thời điểm này giá vàng biến động rất lớn. Do vậy
nhiều nhà đầu tư đã coi vàng là kênh đầu tư ít rủi ro nhất.
S.T
Posted in: Kinh Tế
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét