CHƯƠNG 6: TRƯỜNG PHÁI TÂN CỔ ĐIỂN
Câu 1: Trình bày lí luận ích lợi
giới hạn và giá trị giới hạn của Áo, cho vài ví dụ để CMR tư tưởng giới
hạn của trường phái đã đc kinh tế học hiện đại kế thừa và phát triển ( =
tư tường giới hạn đc những trường phái nào kế thừa và phát triển).
- Ø Lí luận ích lợi giới hạn:
Tác giả:Carl Menger(1840-1921)
- Tiền đề: 2 định luật về nhu cầu của Herman Gossen(1810-1858)
Định
luật 1: bất cứ 1 nhu cầu nào của con ng cũng có thể đc t/m nếu như ng
ta tiêu dùng 1 loại sp có tính năng đáp ứng đc nhu cầu. Cường độ của nhu
cầu giảm dần khi số lượng sp đc đưa ra để thỏa mãn nhu cầu tăng lên.
Nhu cầu sẽ ko còn nữa nếu như con ng đc t/m sp đến tột độ (cường độ nhu
cầu bằng 0)
Định luật 2: Cá nhân ý thức đc
nhu cầu của mình và biết rõ cách thức để t/m nhu cầu vì vậy nếu như biết
suy luận,tính t oán thì cá nhân sẽ sắp xếp nhu cầu theo 1 trật tự nhất
định. Trật tự này hoặc là căn cứ vào cường độ của nhu cầu hoặc là căn cứ
vào ý muốn của cá nhân cho thấy đc nhu cầu nào là cấp thiết và mức độ
cấp thiết của từng nhu cầu,để từ đó con ng có kế hoạch chi tiêu thích
hợp. Trong trường hợp thu nhập của con ng còn thấp thì việc tiêu dùng
thường chỉ giới hạn ở những nhu cầu cấp thiết còn khi thu nhập tăng dần
lên,con ng có xu hướng tiêu dùng những HH cao cấp, xa xỉ nhiều hơn.
Ích lợi là đặc tính cụ thể của
vật mà nhờ đó những nhu cầu khác nhau của con ng đc t/m, phân ra thành
ích lợi chủ quan, khách quan, ích lợi cụ thể, trìu tượng.
Do nhu cầu của con ng có cường độ
khác nhau nên nếu như đc tuần tự t/m thì nhu cầu sẽ có cường độ giảm và
theo đà tăng của vật đc đưa ra để t/m nhu cầu thì vật sau sẽ đc đánh
giá lợi ích thấp hơn vật trước.Vì vậy vs 1 số lượng sp có giới hạn thì
vật đc đưa ra sau cùng sẽ đc gọi là sp giới hạn và ích lợi của vật đó đc
gọi là ích lợi giới hạn.
Ích lợi giới hạn là ích lợi của
vật đc đưa ra sau cùng để t/m nhu cầu; vật đó có ích lợi nhỏ nhất và quy
định lợi ích của tất cả các vật khác.
Thế giới quan giữa ích lợi giới hạn vs số lượng sp đc đưa ra để t/m nhu cầu là tương quan tỉ lệ nghịch.
- Ø Lí luận giá trị giới hạn:
- Tiền đề:
Lí luận giá trị ích lợi của J.B.Say.
Lí luận ích lợi giới hạn.
Phủ nhận lí thuyết giá trị lđ của trường phái ‘TS cổ điển’ và C.Mác.
Đưa ra lý thuyết giá trị – ích
lợi (giá trị – chủ quan): Theo đó “ích lợi giới hạn” quyết định giá trị
của sản phẩm kinh tế, đó là “giá trị giới hạn”, nó quyết định giá trị
của tất cả các sản phẩm khác (ích lợi của vật quyết định giá trị – ở đây
là: “ích lợi giới hạn”). Muốn có nhiều giá trị phải tạo ra sự khan
hiếm.
Về Giá trị trao đổi (GTTĐ): cho
rằng GTTĐ là chủ quan, sở dĩ hai người trao đổi sản phẩm cho nhau là vì
cả hai đều tin rằng sản phẩm mà mình bỏ ra đối với mình ít giá trị hơn
sản phẩm mà mình thu về (ở đây có sự so sánh các sản phẩm, nếu có lợi
mới trao đổi, căn cứ vào nhu cầu bản thân).
Lí thuyết “Năng suất giới hạn”, “ng công nhân giới hạn” và “sp giới hạn” của J.B.Clark trong trường phái giới hạn ở Mĩ
A.Marshall nhà kinh tế thuộc
trường phái Cambridge Anh cũng cho rằng nhu cầu về của cải là có giới
hạn và khẳng định giá cầu của người mua được quyết định bởi ích lợi giới
hạn.
J.M.Keynes và P.A.Samuelson đã ủng hộ lí thuyết này:
Keynes đã xây dựng lí thuyết “Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn” và “Hiệu quả giới hạn của tư bản”.
Samuelson đưa ra lí thuyết “Giới hạn khả năng sản xuất” và “Sự lựa chọn”
Câu 2: CMR trường phái giới hạn ở Áo
đã xa rời nguyên lí giá trị lao động của TP cổ điển Anh và đi theo
nguyên lí giá trị lợi ích của Say.
Theo trường phái cổ điển Anh, giá
trị là khách quan, lao động hao phí để tạo nên hàng hóa quyết định giá
trị hàng hóa đó. Nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là năng
suất lao động và tính chất lao động.
Thêm nữa, khi nghiên cứu nguyên
lí giá trị lao động, TP cổ điển Anh xuất phát từ 2 thuộc tính của hàng
hóa đó là giá trị sử dụng và giá trị và phân biệt được chúng. Không phải
bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng có giá trị. Giá trị sử dụng không
quyết định giá trị trao đổi.
Ngược lại, nguyên lí giá trị ích
lợi của J.B.Say đối lập hoàn toàn với trường phái cổ điển Anh khi cho
rằng sản xuất tạo ra giá trị sử dụng, giá trị sử dụng truyền giá trị cho
các vật. Giá trị là thước đo tính hữu dụng. Ông ta không phân biệt được
giá trị sử dụng và giá trị do đó che đậy bản chất và đặc thù xã hội của
giá trị. J.B.Say cho rằng giá trị càng cao thì tính hữu dụng càng lớn.
Trong khi đó, trường phái giới
hạn cho rằng giá trị là chủ quan, và ích lợi quyết định giá trị. Theo đó
“ích lợi giới hạn” quyết định giá trị của sản phẩm kinh tế, đó là “giá
trị giới hạn”, nó quyết định giá trị của tất cả các sản phẩm khác (ích
lợi của vật quyết định giá trị – ở đây là: “ích lợi giới hạn”). Muốn có
nhiều giá trị phải tạo ra sự khan hiếm.
Như vậy cũng giống như nguyên lí
giá trị ích lợi của J.B.Say, TP giới hạn của Áo cho rằng ích lợi tạo nên
giá trị và phát triển thêm “ích lợi giới hạn” phủ nhận lí luận trường
phái cổ điển Anh rằng lao động hao phí mới tạo ra giá trị.
Có thể thấy trường phái giới hạn ở
Áo đã xa rời nguyên lí giá trị lao động của TP cổ điển Anh và đi theo
nguyên lí giá trị lợi ích của Say
Câu 3: Dựa trên cơ sở nào mà
J.B.Clark đề ra nguyên tắc trả lương cho công nhân theo sản phẩm giới
hạn, theo anh (chị) nguyên tắc trả lương đó có bóc lột hay không? vì
sao?
Trên cơ sở lí luận “năng suất giới hạn”, Clark đưa ra lí luận tiền lương và lợi nhuận.
Nội dung năng suất giới hạn:
J.B.Clark cho rằng ích lợi của lao động thể hiện ở năng suất của nó tuy
nhiên năng suất lao động giảm dần, ng công nhân đc thuê sau cùng là
người công nhân giới hạn. Năng suất của anh ta là năng suất giới hạn. Đó
là năng suất thấp nhất và nó quyết đinh năng suất chung của các CN
khác.
Ông sử dụng lí luận “năng lực
chịu trách nhiệm” để phân tích. Theo lí luận này, thu nhập là “năng lực
chịu trách nhiệm” của các nhân tố sản xuất. Ở đây, công nhân có lao
động, nhà tư bản có tư bản. Họ đều nhận đc “sp giới hạn” tương ứng.
Theo Clark, tiền lương của CN
bằng “sp giới hạn” của lđộng. Phần còn lại là “thặng dư của ng tiêu dùng
lao động”. Với sự phân phối như vậy, Clark cho rằng sẽ ko còn sự bóc
lột nữa.Vì ng công nhân giới hạn đã nhận đc sp đầy đủ do anh ta tạo ra,
do đó anh ta ko bị bóc lột. Những ng công nhân khác cũng sẽ nhận đc tiền
lương theo mức tiền lương của ng công nhân giới hạn đó.Vì thế họ cũng
ko bị bóc lột. Nguyên tắc này đc áp dụng cho phân phối địa tô và lợi
tức.
Theo anh chị, nguyên tắc trả lương này có bóc lột không?
Nguyên tắc trả lương như Clark tuy đã được ông giải thích bằng lí luận kinh tế nhưng vẫn là bóc lột.
Nguyên tắc trả lương theo sản
phẩm mà C.Mac đề ra là đơn giá tiền công đc xác định bằng thương số giữa
tiền công trung bình của công nhân trong 1 ngày với số sản phẩm trung
bình của một công nhân tạo ra trong một ngày. Thực chất đơn giá tiền
công là tiền trả cho thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm.
Sản phâm giới hạn bao h cũng ít
hơn mức sản phẩm trung bình các công nhân sản xuất ra nguyên nhân do sự
có hạn của máy móc nhà xưởng. vì vậy trả công theo sản phẩm giới hạn sẽ
thấp hơn trả theo mức sản phẩm trung bình.
Hơn nữa Clark cho rằng phần còn
lại là thặng dư của ng tiêu dùng lao động nhưng thực chất, tư bản k tạo
ra giá trị thặng dư, giá trị thặng dư là do lao động của công nhân tạo
ra, như thế nguyên tắc trả lương của Clark vẫn là tước đoạt phần giá trị
thặng dư của lao động.
Câu 4: CMR lí thuyết cân bằng thị
trường của L.Walras thể hiện đặc trưng phương pháp luận của TP Tân cổ
điển (thể hiện sự kế thừa và phát triển bàn tay vô hình của A.Smith).
Dựa vào lí thuyết này có thể khắc phục các vấn đề khủng hoảng thất nghiệp không? Vì sao?
- Ø Nội dung lí thuyết:(đi thi không cần chép nội dung)
Cơ cấu nền kinh tế thị trường có 3 loại thị trường:
- Thị trường sản phẩm (TTSP): Nơi mua bán hàng hóa, tương quan trao đổi giữa các loại hàng hóa là giá cả của chúng .
- Thị trường tư bản (TTTB): Nơi hỏi và vay tư bản, lãi suất tư bản cho vay là giá cả của tư bản.
- Thị trường lao động (TTLĐ): Nơi thuê mướn công nhân, tiền lương (tiền công) là giá cả của lao động .
Ba thị trường độc lập với nhau, nhưng nhờ hoạt động của doanh nhân nên có quan hệ với nhau, cụ thể:
- Doanh nhân: là người sản xuất hàng hóa để bán .
- Để sản xuất họ phải vay
vốn (ở thị trường tư bản), thuê công nhân (ở thị trường lao động) vì thế
họ là sức cầu trên hai thị trường này (tạo ra sức cầu cho xã hội). Chi
phí sản xuất là: Lãi suất trả tư bản và tiền lương .
- Khi sản xuất được hàng hóa: họ đem bán trên TTSP, khi đó họ là sức cung trên TTSP.
- Mối quan hệ được hình thành như sau:
Khi bán sản phẩm trên thị trường
được giá cao hơn chi phí sản xuất doanh nhân sẽ có có lãi vì thế họ mở
rộng sản xuất nên phải vay thêm tư bản, thuê thêm công nhân làm cho sức
cầu trên TTTB và TTLĐ tăng dẫn đến giá cả của tư bản và lao động tăng
kết quả là chi phí sản xuất tăng .
Mặt khác, sản phẩm sản xuất tăng
thì sản phẩm hàng hóa trên TTSP tăng nên giá cả hàng hóa giảm làm cho
thu nhập của doanh nhân giảm. Khi giá cả của hàng hóa sản xuất tăng thêm
ngang bằng chi phí sản xuất ra chúng thì doanh nhân không có lời trong
việc sản xuất thêm vì vậy họ không mở rộng sản xuất nữa (không vay thêm
tư bản và thuê thêm công nhân nữa) .
Từ đó làm cho giá cả tư bản và
lao động ổn định dẫn đến giá hàng hóa ổn định (tiền công, lãi suất, giá
hàng tiêu dùng đều ổn định) Khi đó ba thị trường đều đạt được trạng thái
cân bằng, nền kinh tế ở trạng thái cân bằng tổng quát (Sự cân bằng tổng
quát giữa các thị trường) – Điều này được thực hiện thông qua dao động
tự phát của cung cầu và giá cả trên thị trường trong điều kiện tự do
cạnh tranh .
Điều kiện để có cân bằng tổng
quát là: có sự cân bằng giữa thu nhập bán hàng hóa sản xuất thêm và chi
phí sản xuất ra chúng (Sự cân bằng giữa giá hàng hóa và chi phí sản
xuất) .
Tóm lại: Những nhà kinh tế thuộc trường phái cổ điển muốn tin tưởng vào sức mạnh củanền kinh tế thị trường và sự hoạt động của các quy luật kinh tế. Theo họ, sự điều tiết của “bàn tay vô hình” sẽ đảm bảo cho quá trình tái sản xuất phát triển bình thường .
- Ø Thể hiện đặc trưng phương pháp luận của trường phái tân cổ điển:
Tập trung nghiên cứu nền kinh tế
trong quan hệ trao đổi lưu thông, chứ không quan tâm đến quá trình sản
xuất, cụ thể ở đây là ba loại thị trường: sản phẩm, tư bản và lao động.
L.Walras tập trung nghiên cứu
hoạt động của các doanh nhân từ đó hiểu được mối quan hệ và cơ chế hoạt
động của 3 loại thị trường điều đó thể hiện phương pháp vi mô trong
nghiên cứu của ông.
Đồng thời việc nghiên cứu mối
quan hệ và cơ chế vận động của 3 loại thị trường trên cơ sở hoạt động
của các doanh nhân với các mục tiêu như tăng lợi nhuận hay giảm chi phí
=> điều này thể hiện tâm lí chủ quan cá biệt, cá nhân trong phân tích
kinh tế.
Ông kế thừa và phát triển tư tưởng tự do kinh tế – bàn tay vô hình của A.Smith:
Lí thuyết “Bàn tay vô hình”:
Con người khi tham gia các hoạt
động kinh tế ngoài bị chi phối bởi lợi ích cá nahan còn chịu tác động
của các quy luật kinh tế khách quan thậm chí đáp ứng nhu cầu của xã hội
tốt hơn lợi ích cá nhân.
Điều kiện cần thiết để các quy
luật kinh tế khách quan hoạt động: sự tồn tại và phát triển của sản xuất
và trao đổi hàng hóa; nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do kinh tế
(tự do sản xuất, tự do liên doanh liên kết, tự do mậu dịch).
Nhà nước không cần thiết phải can
thiệp vào nền kinh tế vì bản thân cơ chế thị trường có thể giải quyết
hài hòa các mối quan hệ của nền kinh tế.
Lí thuyết cân bằng tổng quát:
Trong nền kinh tế tồn tại 3 thị
trường độc lập: thị trường hàng hóa, lao động và tư bản được liên kết
với nhau thông qua hoạt động của doanh nhân.
Khi bán sản phẩm trên thị trường
được giá cao hơn chi phí sản xuất doanh nhân sẽ có có lãi vì thế họ mở
rộng sản xuất nên phải vay thêm tư bản, thuê thêm công nhân làm cho sức
cầu trên TTTB và TTLĐ tăng dẫn đến giá cả của tư bản và lao động tăng
kết quả là chi phí sản xuất tăng .
Mặt khác, sản phẩm sản xuất tăng
thì sản phẩm hàng hóa trên TTSP tăng nên giá cả hàng hóa giảm làm cho
thu nhập của doanh nhân giảm. Khi giá cả của hàng hóa sản xuất tăng thêm
ngang bằng chi phí sản xuất ra chúng thì doanh nhân không có lời trong
việc sản xuất thêm vì vậy họ không mở rộng sản xuất nữa (không vay thêm
tư bản và thuê thêm công nhân nữa) .
Từ đó làm cho giá cả tư bản và
lao động ổn định dẫn đến giá hàng hóa ổn định (tiền công, lãi suất, giá
hàng tiêu dùng đều ổn định) Khi đó ba thị trường đều đạt được trạng thái
cân bằng, nền kinh tế ở trạng thái cân bằng tổng quát (Sự cân bằng tổng
quát giữa các thị trường) – Điều này được thực hiện thông qua dao động
tự phát của cung cầu và giá cả trên thị trường trong điều kiện tự do
cạnh tranh.
Điều kiện để có cân bằng tổng
quát là: có sự cân bằng giữa thu nhập bán hàng hóa sản xuất thêm và chi
phí sản xuất ra chúng (Sự cân bằng giữa giá hàng hóa và chi phí sản
xuất).
Điểm kế thừa:
Nội dung lí thuyết thể hiện sự tập trung quan điểm về cơ chế thị trường tự điều tiết trong nền kinh tế hàng hóa TBCN.
Hoạt động của các doanh nhân
không phải do tự phát mà bị chi phối bởi các quy luật kinh tế khách
quan, theo biến động của quan hệ cung cầu và giá cả hàng hóa.
Theo ông, cơ chế tự điều tiết của
“Bàn tay vô hình” sẽ làm cho tái sản xuất diễn ra bảo đảm đc tỉ lệ cân
đối và duy trì đc sự phát triển bình thường.
- Ø Dựa vào lí thuyết này không thể giải quyết các vấn đề khủng hoảng.
(câu này k đảm bảo chuẩn nhé)
Giải thích:
Vì nó quá đề cao vai trò của cơ
chế thị trường, đặt niềm tin tuyệt đối vào cơ chế đó, mà chưa biết đến
mặt trái, tác động tiêu cực và những thất bại mà tự cơ chế đó sinh ra.
Ông ko thừa nhận khủng hoảng kinh tế, ko thấy nguồn gốc và tác động của
khủng hoảng kinh tế cũng như ko thấy đc vai trò của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường.
Lịch sử đã chứng minh bản thân
khủng hoảng kinh tế là một khuyết tật của cơ chế thị trường, tự bản thân
cơ chế thị trường không thể giải quyết được đòi hỏi bàn tay nhà nước
can thiệp nhằm khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trưởng.
Hơn nữa, việc mở rộng sản xuất
dẫn đến giảm giá thành sản phẩm và tăng lãi suất tiển lương cho công
nhân thường không tương xứng với nhau dẫn đến “khủng hoảng thừa”. Hàng
hóa sản xuất ra quá nhiều, người công nhân tuy có nhu cầu về hàng hóa
nhưng tiền lương ít ỏi không đủ chi trả nên không thể mua được.
Câu 5: Chứng minh rằng Lí thuyết giá
cả của A.Marshall thể hiện rõ đặc điểm phương pháp luận của trường phái
tân cổ điển ( kế thừa và phát triển bàn tay vô hình của A.Smith)
- Ø Đặc trưng phương pháp luận của Trường phái tân cổ điển:
Marshall tập trung nghiên cứu nền kinh tế trong quan hệ trao đổi lưu thông, chứ không quan tâm đến quá trình sản xuất.
Ông đưa ra các phạm trù kinh tế
mới: cung, cầu, giá cung, giá cầu, hệ số co dãn của cầu… là sự phối hợp
các phạm trù toán học và kinh tế học để giải thích quy luật kinh tế.
Ông đã biết sử dụng công cụ toán học trong phân tích kinh tế: đồ thị, công thức.
Để xây dựng mô hình cung – cầu
thị trường Marshall đi sâu vào phân tích tâm lí, hành vi của người tiêu
dùng và nhà sản xuất từ đó rút ra kết luận cho toàn nền kinh tế => áp
dụng phương pháp vi mô trong nghiên cứu.
Theo ông giá trị là phạm trù siêu
hình, vô nghĩa, chỉ có giá cả là phạm trù thiết thực và cụ thể vì thế
nhà kinh tế không đề cập tới phạm trù giá trị.
Việc phân tích mối quan hệ cung
cầu dưới góc độ hành vi của người mua và người bán đều mong muốn đạt
được lợi ích tốt nhất cho mình (người mua chỉ quan tâm đến việc tốn ít
tiền nhất mà thỏa mãn được tốt nhất nhu cầu của mình, người bán chỉ quan
tâm đến lợi nhuận) mà không quan tâm đến nền sản xuất, bối cảnh lịch sử
xã hội nói chung => điều này thể hiện tâm lí chủ quan cá biệt, cá
nhân trong phân tích kinh tế.
Việc phân tích cung- cầu thị
trường một cách thuần túy cũng thể hiện việc Marshall muốn xây dựng một
nền kinh tế học thuần túy không bị tác động bởi yếu tố giai cấp.
Kế thừa và phát triển Bàn tay vô hình của A.Smith.
Lí thuyết “Bàn tay vô hình”:
Con người khi tham gia các hoạt
động kinh tế ngoài bị chi phối bởi lợi ích cá nhân còn chịu tác động của
các quy luật kinh tế khách quan thậm chí đáp ứng nhu cầu của xã hội tốt
hơn lợi ích cá nhân.
Điều kiện cần thiết để các quy
luật kinh tế khách quan hoạt động: sự tồn tại và phát triển của sản xuất
và trao đổi hàng hóa; nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do kinh tế
(tự do sản xuất, tự do liên doanh liên kết, tự do mậu dịch).
Nhà nước không cần thiết phải can
thiệp vào nền kinh tế vì bản thân cơ chế thị trường có thể giải quyết
hài hòa các mối quan hệ của nền kinh tế.
Lí thuyết giá cả của Marshall:
Ông tập trung nghiên cứu nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh.
Ông cho rằng: Ở trên thị trường,
giá cả đc hình thành một cách tự phát do tác động của mối quan hệ cung
cầu. Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì hình thành nên giá cả cân bằng
hay giá cả thị trường: “Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì sẽ chấm
dứt cả khuynh hướng tăng dẫn khuynh hướng giảm, lượng hàng hóa sản xuất,
thế cân bằng được thiết lập”.
=> Marshall đề cao sự tự phát
của cơ chế thị trường, coi nhẹ sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế,
tin tưởng cơ chế thị trường tự phát đảm bảo cân bằng kinh tế.
Câu 6: Trình bày nội dung lí thuyết giá cả của A.Marshall, rút ra ý nghĩa lí luận và thực tiễn từ việc nghiên cứu lí thuyết này.
- Lí thuyết giá cả của A.Marshall:
Ở trên thị trường, giá cả đc hình thành một cách tự phát do tác động của mối quan hệ cung cầu:
- Cầu là biểu hiện của nhu cầu có khả năng thanh toán, nó được biểu hiện bởi khối lượng tiền tệ và giá cả nhất định.
- Nhân tố ảnh hưởng đến cầu: nhu cầu; thu nhập; giá cả của bản thân hàng hóa.
- Hệ số co dãn của cầu phản ánh mối sự thay đổi của cầu dưới sự thay đổi của giá.
: sự thay đổi của cầu.
: sự thay đổi của giá.
K: hệ số co dãn của cầu theo giá.
K = : =
Sự co dãn của cầu phụ thuộc vào
các nhân tố sau: mức giá cả, giá cả của các hàng hóa có liên quan, sức
mua của dân cư và nhu cầu mua sắm của dân cư.
- Cung là khối lượng hàng hóa sản xuất ra đem bán trên thị trường với một giá cả nhất định.
- Nhân tố ảnh hưởng đến cung: giá cả hàng hóa đó.
- Cân bằng thị trường và giá cả thị trường
- Thị trường là tổng thể
những người có quan hệ mua bán hay là nơi gặp gỡ của cung và cầu. Khi
nghiên cứu cơ chế thị trường, Marshall cho rằng một mặt trong điều kiện
cạnh tranh hoàn toàn thì cung cầu phụ thuộc vào giá cả. Mặt khác, cơ chế
thị trường tác động làm giá cả phù hợp với cung cầu, nghĩa là giá cả
được quyết định bởi cung, cầu. Theo ông, giá cả là quan hệ số lượng mà
trong đó hàng hóa và tiền tệ được trao đổi với nhau.
- Khi giá cung và giá cầu
gặp nhau thì hình thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị trường: “Khi
giá cung và giá cầu gặp nhau thì sẽ chấm dứt cả khuynh hướng tăng dẫn
khuynh hướng giảm, lượng hàng hóa sản xuất, thế cân bằng được thiết
lập”.
- Marshall cho rằng, yếu
tố thời gian có ảnh hưởng quan trọng đến cung, cầu và giá cả cân bằng.
Trong thời gian ngắn thì cung cầu có tác động với giá cả.
- Ngoài ra, sự độc quyền
cũng có tác động đến giá cả. Để có lợi nhuận cao, các nhà độc quyền
thường giảm sản lượng để nâng bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là
độc quyền quyết định được tất cả, bởi vì trên thị trường còn chịu sự tác
động của sự co dãn của cầu.
- Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Ý nghĩa lí luận:
Tích cực:
Lí thuyết giá cả của Marshall đi
sâu phân tích cơ chế thị trường dưới góc độ vi mô, vì thế là cơ sở quan
trọng cho kinh tế học vi mô hiện đại
Là lí thuyết đầu tiên đặt nền
móng cho việc phân tích thị trường theo mô hình cung – cầu, đây là
nguyên lí cơ bản nhất của kinh tế học vi mô hiện đại, xuyên suốt gần như
mọi vấn đề của nền kinh tế thị trường.
Hạn chế:
Phân tích lý thuyết giá cả: Với
tính phê phán và đứng trên cơ sở lý luận giá trị – lao động của chủ
nghĩa Mác thì có thể nhận xét lý thuyết giá cả của Marshall như sau:
Trong thời gian ngắn thì lợi ích cận biên quyết định giá trị, điều này
lại mắc phải sai lầm mà thuyết ích lợi đã gặp phải. Còn trong thời gian
dài chi phí sản xuất quyết định giá cả thì không giải thích được trong
giá cả đó bao gồm cả lợi nhuận của nhà tư bản chứ không chỉ có chi phí
sản xuất. Nhà tư bản không thể bán hàng hóa với giá bằng với chi phí sản
xuất được.
Nếu cho rằng quan hệ cung cầu
quyết định giá cả thì cũng không có căn cứ vững chắc vì giá cả thay đổi
cũng tác động làm cung cầu thay đổi. Điều này thể hiện sự luẩn quẩn
trong lý luận của Marshall: Cung, cầu quyết định giá cả, sau đó giá cả
lại quyết định cung, cầu. Thực ra quan hệ cung, cầu về một hàng hóa nào
đó trên thị trường chỉ làm cho giá cả dao động xung quanh giá trị chứ
không tạo ra giá trị (giá trị chỉ được tạo ra trong quá trình sản xuất
chứ không phải trong trao đổi).
Ý nghĩa thực tiễn:
Giúp ta nhận thức đc trạng thái
vận động của thị trường dưới tác động của các quy luật khách quan, sự
cân bằng cung cầu trên thị trường ko phải là cân bằng tĩnh, mà là cân
bằng động, luôn dao động qua điểm cân bằng.
Đâylà cơ sở để phân tích sự biến động giá cả HH trên thị trường, để nhà nước có chính sách điều chỉnh thích hợp.
Các doanh nghiệp chủ động trong chiến lược kinh doanh, tác động vào cung, cầu và đưa ra chính sách giá cả để thu lợi nhuận cao.
Việc xác định K giúp các xí
nghiệp độc quyền đưa ra chính sách giá cả có lợi cho mình (giá cả độc
quyền để thu lợi nhuận độc quyền cao), có thể bán số lượng sản phẩm ít
hơn mà giá cả cao hơn.
Sự co giãn của cầu phụ thuộc vào các nhân tố: mức giá cả, sức mua và nhu cầu mua sắm .
Thời gian là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cung cầu và giá cả. Quy tắc chung là:
- Thời gian ngắn (thời kỳ nghiên cứu ngắn) phải chú ý tới ảnh hưởng của cầu lên giá trị .
- Thời gian dài (thời kỳ nghiên cứu càng dài) thì ảnh hưởng tác động của chi phí tới giá trị rất quan trọng.
Câu 7: CMR lí thuyết kinh tế của TP Tân cổ điển là cơ sở hình thành kinh tế học vi mô.
Có thể nói, lí thuyết kinh tế học
của TP tân cổ điển là cơ sở hình thành kinh tế học vi mô hiện đại, bởi
có thể tìm thấy sự kế thừa TP Tân cổ điển của kinh tế học vi mô hiện đại
ở các nội dung: đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, thuật ngữ
cơ bản, lí thuyết cơ bản.
Đối tượng nghiên cứu: Lĩnh vực nghiên cứu là lĩnh vực trao đồi lưu thông, trao đổi, nhu cầu…
Phương pháp nghiên cứu: phương
pháp vi mô, nghiên cứu kinh tế trong các xí nghiệp cụ thể, các loại
hàng hóa cụ thể từ đó rút ra kết luận cho toàn chung cho toàn nền kinh
tế.
Sử dụng các mô hình, công thức, đồ thị toán học đề giải thích nền kinh tế.
Thuật ngữ cơ bản: sau này, kinh tế học vi mô hiện đại tiếp tục sử dụng các thuật ngữ cơ bản mà Tp Tân cổ điển đã đưa ra:
Ích lợi giới hạn của TP giới hạn thành Viene – Áo sau này là lợi ích cận biên trong kinh tế vi mô
Năng suất giới hạn của TP Mĩ sau này chính là năng suất cận biên của lao động trong kt vi mô.
Thuật ngữ cung cầu, hệ số co dãn
của cầu trong lí luận của Marshall đc phát triển thành lí thuyết cung
cầu, hệ số co dãn của cầu theo giá (công thức của Marshall là co dãn
khoảng, ngoài ra còn có công thức co dãn điểm.) trong kinh tế học vi mô,
ngoài ra còn đc phát triển thêm các khái niệm khác như hệ số co dãn của
cung theo giá, của cầu theo thu nhập…
Các lí thuyết cơ bản: Cùng
với sự kế thừa các thuật ngữ cơ bản, kinh tế học vi mô hiện đại cũng kế
thừa và phát triển xa hơn các lí thuyết kinh tế cơ bản của TP Tân cổ
điển.
TP Tân cổ điển | Kinh tế học vi mô |
Lí thuyết ích lợi giới hạn – Áo:
Ích lợi là đặc tính cụ thể của
vật mà nhờ đó những nhu cầu khác nhau của con ng đc t/m, phân ra thành
ích lợi chủ quan, khách quan, ích lợi cụ thể, trìu tượng.
Do nhu cầu của con ng có cường độ
khác nhau nên nếu như đc tuần tự t/m thì nhu cầu sẽ có cường độ giảm và
theo đà tăng của vật đc đưa ra để t/m nhu cầu thì vật sau sẽ đc đánh
giá lợi ích thấp hơn vật trước.Vì vậy vs 1 số lượng sp có giới hạn thì
vật đc đưa ra sau cùng sẽ đc gọi là sp giới hạn và ích lợi của vật đó đc
gọi là ích lợi giới hạn.
Ích lợi giới hạn là ích lợi của
vật đc đưa ra sau cùng để t/m nhu cầu; vật đó có ích lợi nhỏ nhất và quy
định lợi ích của tất cả các vật khác.
| Lí thuyết lợi ích của kt học vi mô:
Lợi ích đc hiểu là sự thỏa mãi hài lòng đạt đc khi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.
Người tiêu dùng sẽ tối đa hóa các lợi ích đạt được khi tiêu dùng.
Lợi ích đc đo bằng đơn vị của trí
tưởng tượng mà ng tiêu dùng gán cho hàng hóa khi tiêu dùng đc biểu hiện
bằng mức độ sẵn sàng chi trả của họ cho 1 đơn vị hàng hóa tiêu dùng.
Lợi ích cận biên là lợi ích tăng thêm khi tiêu dùng thêm 1 đơn vị hàng hóa dịch vụ.
MU =
Quy luật lợi ích cận biên giảm
dần: lợi ích của hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thêm có xu hướng giảm dần
và điều này chỉ đúng trong thời gian ngắn.
|
Lí thuyết năng suất giới hạn:
J.B.Clark cho rằng ích lợi của
lao động thể hiện ở năng suất của nó tuy nhiên năng suất lao động giảm
dần, ng công nhân đc thuê sau cùng là người công nhân giới hạn. Năng
suất của anh ta là năng suất giới hạn. Đó là năng suất thấp nhất và nó
quyết đinh năng suất chung của các CN khác.
| Hàm sản xuất ngắn hạn của kinh tế học vi mô.
Q = f (K, L).
K cố định, năng suất cận biên của lao động MPL = là sản phẩm đầu ra tăng thêm khi sử dụng thêm 1 đơn vị lao động.
Với quy mô của nhà máy đc cho trc
thì MPL có xu hướng tăng do khai thác đc thêm công suất của máy móc
nhưng nếu tiếp tục tăng L mà K vẫn cố định thì năng suất cận biên sẽ
giảm dần.
|
Lí thuyết cung cầu – Marshall:
Cầu là biểu hiện của nhu cầu có khả năng thanh toán, nó được biểu hiện bởi khối lượng tiền tệ và giá cả nhất định.
Nhân tố ảnh hưởng đến cầu: nhu cầu; thu nhập; giá cả của bản thân hàng hóa.
| Lí thuyết cung cầu – kinh tế học vi mô:
Cầu là số lượng hàng hóa dịch vụ
mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua tại các mức giá khác nhau
trong khoảng thời gian nhất định vs đk các yếu tố khác k đổi.
Nhân tố ảnh hưởng đến cầu: thu nhập, giá hàng hóa thay thế hoặc bổ sung, quy mô thị trường, sở thích, kì vọng.
Lượng cầu: số lượng hàng hóa ng tiêu dùng muốn mua tại 1 mức giá nhất định.
Nhân tố ảnh hưởng đến lượng cầu: giá cả hàng hóa đó
|
Cung là khối lượng hàng hóa sản xuất ra đem bán trên thị trường với một giá cả nhất định.
Nhân tố ảnh hưởng đến cung: giá cả hàng hóa đó.
| Cung:
là số lượng hàng hóa dich vụ ng bán muốn bán tại các mức giá khác nhau
trong khoảng thời gian nhất định với đk các yếu tố khác k đổi.
Nhân tố ảnh hưởng đến cung: công nghệ và năng suất, giá cả đầu vào, thuế và trợ cấp, số lượng nhà sản xuất, kì vọng…
Lượng cung: lượng hàng hóa đc bán tại 1 mức giá nhất định.
Nhân tố ảnh hưởng đến lượng cung: giá cả hàng hóa đó
|
Khi
giá cung và giá cầu gặp nhau thì hình thành nên giá cả cân bằng hay giá
cả thị trường: “Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì sẽ chấm dứt cả
khuynh hướng tăng dẫn khuynh hướng giảm, lượng hàng hóa sản xuất, thế
cân bằng được thiết lập”. | Cân bằng cung cầu là trạng thái mà lượng cung bằng lượng cầu tại 1 mức giá. |
Hệ số co dãn của cầu phản ánh mối sự thay đổi của cầu dưới sự thay đổi của giá.
: sự thay đổi của cầu.
: sự thay đổi của giá.
K: hệ số co dãn của cầu theo giá.
K = : =
| Hệ số co dãn của cầu theo giá đo lường sự thay đổi tương đối của lượng cầu do 1% tương đối của giá hàng hóa.
Co dãn khoảng (đoạn):
EDP = ×
Co dãn điểm:
EDP = ×
|
Câu 8: So sánh đặc điểm phương pháp luận của trường phái cổ điển Anh với Tân cổ điển.
Bảng 1: So sánh chung.
Trường phái cổ điển Anh | Trường phái Tân cổ điển |
Ra đời và phát triển ở Châu Âu, từ giữa TK 18-19. | Ra đời và phát triển ở Tây Âu, Mỹ, vào cuối TK 19- đầu TK 20. |
Đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực sản xuất. | Đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực trao đổi, lưu thông lợi ích, tiêu dùng. |
Sử dụng phương pháp phân tích vĩ mô, cho rằng quy luật kinh tế khách quan chi phối hoạt động kinh tế. | Sử dụng phương pháp phân tích vi mô, kết hợp phạm trù kinh tế với phạm trù toán học. |
Cho rằng cung quyết định cầu, cung tạo ra cầu, sản xuất quyết định tiêu dùng. | Cho rằng cầu quyết định cung, tiêu dùng quyết định sản xuất. |
Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chủ trương chống lại sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế. | Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chủ trương chống lại sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế. |
Lao động là yếu tố duy nhất tạo ra giá trị, là nguồn gốc của giá trị, của của cải, của giàu có.
Giá trị hàng hóa do lượng lao động hao phí tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.
| Giá trị không bắt nguồn, không phụ thuộc vào lao động mà phụ thuộc hoàn toàn vào tâm lý chủ quan của con người.
Giá trị của hàng hóa là do sự tương tác giữa tính quan trọng , cấp thiết của nhu cầu và số lượng vật phẩm hiện có quyết định.
|
Lao động là cái duy nhất, chính xác để đo lường giá trị trao đổi của hàng hóa.
Chưa giải thích được tại sao vật càng khan hiếm thì giá trị trao đổi càng cao.
| Giá trị trao đổi được hình thành do sự đánh giá chủ quan của người mua, người bán về công dụng của hàng hóa.
Giải thích được tại sao vật càng khan hiếm thì giá trị trao đổi càng cao.( dựa trên quy luật ích lợi giới hạn giảm dần).
|
Giá thị trường chịu sự điều tiết của giá cả tự nhiên. | Giá thị trường là kết quả sự va chạm giữa giá cung với giá cầu, va chạm giữa cung với cầu. |
Giá cả hàng hóa trong lưu thông quyết định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông. | Giá cả tỉ lệ thuận với khối lượng tiền đưa vào trong lưu thông. |
Ricardo cho rằng tiền lương là giá cả thị trường của lao động phụ thuộc vào giá cả tự nhiên (giá các tư liệu sinh hoạt…).
Phủ nhận cuộc đấu tranh đòi tăng lương của người công nhân:
+ Adam Smith cho rằng tiền lương chỉ có thể tăng trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
+ Ricardo cho rằng lương thấp là điều tự nhiên, lương cao là thảm họa.
| Clark cho rằng người công nhân được tiền lương là sản phẩm biên tế của lao động.(giải thích dựa trên lý luận năng suất giới hạn)
Phủ nhận cuộc đấu tranh đòi tăng
lương, giảm thất nghiệp của người công nhân. Clark cho rằng công nhân
phải chấp nhận tiền lương thấp để có việc làm, muốn tiền lương cao thị
có thể chính mình bị sa thải. (lý luận năng suất biên giảm dần).
|
Lợi nhuận là kết quả của việc trả công thấp hơn giá trị.
Phủ nhận sự bóc lột khi cho rằng lợi nhuận là kết quả của toàn bộ tư bản đầu tư ban đầu.
Không giải thích được lợi nhuận trên cơ sở nguyên tắc trao đổi ngang giá.
| Bohm
Bawerk cho rằng lợi nhuận là khoảng chênh lệch do sự đánh giá chủ quan
khác nhau của con người về 2 loại của cải : của cải hiện tại (TLTD) được
đánh giá cao, của cải tương lai (TLSX) được đánh giá thấp.
Xã hội tư bản là công bằng, nhà
tư bản có lợi nhuận phù hợp với năng suất giới hạn của tư bản, khẳng
định lợi nhuận là không bóc lột. (nguyên tắc hành vi hợp lý)
Đã giải thích được.
|
Địa chủ có địa tô là kết quả của độ màu mỡ tương đối của đất đai. | Địa chủ có địa tô phù hợp với năng suất biên tế của đất đai. |
Phát triển lý thuyết Bàn tay vô hình, tôn trọng các quy luật khách quan tự phát, chi phối hoạt động con người. | Tâm
lí chủ quan (cá biệt các nhân) Phát triển lý thuyết ích lợi giới hạn và
thuyết giá trị giới hạn, quan tâm đến nhu cầu tâm lý chủ quan của con
người. |
Bảng 2: So sánh đặc điểm phương pháp luận:
Cổ điển Anh | Tân cổ điển |
Đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực sản xuất. | Chuyển sự chú ý phân tích sang lĩnh vưc lưu thông, trao đổi, nhu câu… |
Họ nghiên cứu các vấn đề kinh tế của tư bản chủ nghĩa. | Họ muốn gạt bỏ các yếu tố chính trị, giai cấp để xây dựng môn kinh tế học thuần túy. |
Tiếp cận và tìm hiểu các quy luật kinh tế khách quan. (VD: Giá
trị hàng hóa là khách quan.Giá trị hàng hóa do lượng lao động hao phí
tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định) | Tâm lí chủ quan (cá nhân cá biệt) trong phân tích kinh tế.
(Giá trị của hàng hóa là do sự tương tác giữa tính quan trọng, cấp thiết của nhu cầu và số lượng vật phẩm hiện có quyết định).
|
Phương pháp nghiên cứu thể hiên tính 2 mặt: mặt khoa học – trừu tượng hóa và mặt tầm thường – mô tả liệt kê hời hợt. (lấy ví dụ lí luận giá trị lao động của A.Smith, 2 định nghĩa giá trị) | Phương pháp vi mô trong phân tích kinh tế.
Tích cực áp dụng các công cụ toán học như đồ thị, công thức, mô hình.
(Ví dụ: Trường phái giới hạn Áo, cung cầu Marshall)
|
Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.
“Bàn tay vô hình” A.Smith
| Giống nhau
L.Walras
Marshall.
|
Câu 9: Đánh giá trường phái tân cổ điển.
Thành tựu:
Các nhà kinh tế trường phái cổ điển mới đã đạt được một số thành tựu, đó là:
Những phân tích về kinh tế thị trường hiện đại cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã được vận dụng trong hoạt động thực tiễn.
Đã có sự phân tích cụ thể sự vận
động của nền kinh tế trên cơ sở các quy luật của thị trường, nghiên cứu
sâu hơn các quan hệ sản xuất trao đổi.
Đã góp phần vào sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản, đưa ra những biện pháp điều chỉnh chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản.
Tác động đến việc xây dựng các chính sách kinh tế của các nước tư bản trong thời kỳ này.
Là cơ sở của kinh tế học vĩ mô hiện đại
Hạn chế:
Với ý định cách tân, bổ khuyết
cho các tư tưởng kinh tế tư sản cổ điển song còn nhiều hạn chế và nhiều
lý luận không vượt qua được kinh tế tư sản cổ điển, những hạn chế đó là:
Mưu toan bác bỏ học thuyết kinh
tế Mác về giá trị, giá trị thặng dư, tư bản và các kết luận của Mác về
mâu thuẫn tư sản và công nhân, về sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản.
Xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa duy
tâm chủ quan, không tính đến vai trò quyết định của nền sản xuất và của
các điều kiện lịch sử xã hội. Những điều kiện này quyết định đặc điểm
phát triển kinh tế ở một giai đoạn nhất định. Từ đó đi đến khẳng định
các phạm trù kinh tế trong chủ nghĩa tư bản là tồn tại vĩnh viễn.
Mưu toan biến kinh tế chính trị
thành môn khoa học kinh tế thuần túy. Thực chất muốn gạt bỏ mối quan hệ
kinh tế và chính trị, coi những hoạt động kinh tế là những hoạt động
tách rời khỏi một chế độ chính trị nhất định, che giấu những lợi ích
kinh tế khác nhau đằng sau những hoạt động kinh tế.
Posted in: Kinh Tế
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét