Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015
Học thuyết Darwin, Phật giáo và Thiên Chúa giáo
Lời 
      người dịch: Nguyên 
      tác tiếng Anh của bài khảo cứu ngắn này: Darwinism, Buddhism and Christanity được 
      đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri 
      Lanka, Tập 82,  số 11 & 12, Nov - Dec 
      1974, trang 443 – 446 của Amarasiri Weeraratne, nhà nghiên cứu Phật học nổi 
      tiếng ở Tích Lan. 
      
Thật 
      ra, bài viết này đã được viết và đăng tải trên văn đàn cách đây 
      khá lâu. Do đó, bài viết cũng không có gì mới mẻ đối với trào lưu nhận 
      diện lại bản chất thật của các tôn giáo trên thế giới ngày nay. Tuy 
      nhiên, khi đọc lại bài khảo cứu này, người dịch nhận ra một vài điểm 
      khá lý thú. Khoa học càng lúc càng đưa ra nhiều bằng chứng để xác minh 
      những 
      gì được  gọi  là “mặc 
      khải” 
      của 
      Chúa trong Thánh Kinh, một bộ Kinh mà trước đây một phần nhân loại bị 
      đào tạo buộc phải tin tưởng là “không thể nào sai lầm.” Dù bị phản 
      đối, chống báng, hăm doạ, thậm chí bị mất mạng, các nhà khoa học vẫn 
      miệt mài làm việc và nói lên tiếng nói đúng với nguyên lý vận hành của 
      vũ trụ như thế nào. 
      
Trước 
      đây gần ba thập niên, Amarasiri Weeraratne đã mạnh dạn nhận định lại 
      giá trị của học thuyết Tiến Hóa, ông phân tích rạch ròi đâu đúng đâu 
      sai. Chúng ta cũng nên nhớ rằng, khoảng thời gian đó, văn hóa Thiên Chúa 
      giáo của Tây phương đang tấn công sang hướng Á Châu, thế mà  Amarasiri Weeraratne vẫn không ngại trình 
      bày quan điểm của mình. Tiếng nói của ông góp thêm sức mạnh vào dòng 
      thác vạch trần những sai lầm, tội lỗi của một tôn giáo tự tôn là 
      “thiên khải”, “cao quý”, để rồi đến ngày 12 tháng 3 năm 2000, Giáo 
      Hoàng John Paul II, đại diện cho "Hội Thánh" Gia Tô đã phải xưng 
      thú những đại tội của tôn giáo mình trước thế giới. 
      
Phật 
      giáo với học thuyết “Duyên Khởi” đã thiết lập nền tảng cho sự 
      sinh khởi của vũ trụ. Các pháp nương nhau mà tồn tại, nương nhau mà hoại 
      diệt. Không một đấng “Sáng Tạo” nào tạo dựng nên thế giới đầy 
      chiến tranh, giết chóc, hận thù, bạo động, khủng bố, cuồng loạn lan 
      tràn khắp nơi như lịch sử của quá khứ và hiện nay đang tiếp diễn.  Mặc dầu bài viết của tác giả chưa 
      khai  triển hết học thuyết “Duyên 
      Khởi” của Phật giáo để soi sáng vấn đề vũ trụ, vì chỉ dựa vào một 
      Kinh trong nhiều bài Kinh đề cập đến sự hình thành thế giới mà khai 
      triển vấn đề. Nhưng dù sao nó cũng thể hiện được phần nào đúng với 
      tinh thần của Phật giáo, nên người 
      dịch xin chuyển ngữ sang tiếng Việt và xin gởi 
      đến quý độc giả.
      
*********
      
Chỉ 
      hơn một trăm năm kể từ khi nhà bác học Darwin công bố học thuyết “Sinh 
      vật tiến hóa”, khám phá mở ra một kỷ nguyên mới này đã làm lung lay 
      nhiều triết thuyết căn bản của nhiều tôn giáo và nhiều trào lưu cách 
      mạng hoá tư tưởng ở phương Tây. Các giáo sĩ Thiên Chúa giáo ở Anh Quốc 
      bị đánh động và đã công kích lại Darwin và học thuyết Tiến Hóa của 
      ông. Darwin mạnh dạn và kiên định đối mặt với nhiều trận tấn công 
      cuồng tín và kém hiểu biết như vậy. Nhiều thế lực dùng tiền hòng bắt 
      ông im tiếng đều bị thất bại. Giám mục Wilberforce là mũi nhọn, dẫn 
      đầu các cuộc  công kích cuồng tín 
      này. Luận điểm của Giám mục cho rằng nếu thuyết Tiến Hóa là đúng sự 
      thật thì câu chuyện về sự tạo dựng trong phần mở đầu của Thánh 
      Kinh phải sai. Các giáo sĩ tin rằng Darwin đã sai lầm, còn Thánh Kinh là những 
      lời dạy của Chúa không thể sai được.
      
Tuy 
      nhiên, nhiều ngành khoa học khác nhau như Địa chất học, Cổ sinh vật học, 
      Nhân loại học, Động vật học, Phôi học, Sinh vật học, v. v… đã đưa 
      ra bằng chứng xác minh và củng cố học thuyết của Darwin. Học thuyết của 
      ông giải thích nguồn gốc sự sống trên thế giới thỏa đáng hơn bất kỳ 
      học thuyết nào mà con người đã biết đến. Tất cả các khám phá khoa học 
      có giá trị đã xác minh cho học thuyết này, và với thời gian các khám 
      phá đó đã  khẳng định thêm giá trị 
      của nó. Sự đối lập của những người cuồng tín dần dần bị bào 
      mòn khi họ đối diện với sự tiến bộ của khoa học. Hiện nay, phần lớn, 
      nhiều giáo phái thuộc Thiên Chúa giáo đã dừng lại cuộc chiến chống lại 
      sự tiến hóa, và vài giáo phái đã cố gắng thoát khỏi giáo điều của 
      họ dưới ánh sáng của tri thức khoa học. Họ nói:  “Dù cho chấp nhận thuyết Tiến Hoá”, 
      thì “cũng có một năng lực nào đó vận động các năng lực này.” “Một 
      năng lực nào đó” phải được xem là Thượng Đế với những thuộc tính 
      như toàn năng và toàn bi. Một công trình nghiên cứu về học thuyết tiến 
      hóa chỉ ra rằng điều này không phải vậy. Do đó, luận điệu này không 
      những không thỏa đáng mà còn không tự biện hộ được và không thể đứng 
      vững được khi khảo sát kỹ lưỡng. Ngày nay, thế giới khoa học và giới 
      nghiên cứu đều đánh giá cao học thuyết của Darwin. Tất cả sinh viên 
      đang theo đuổi ở cấp Đại học và hậu Đại học trong lãnh vực khoa học 
      đều tiếp tục nghiên cứu vấn đề này. 
      
Mặc 
      dù học thuyết Tiến Hóa của Darwin đã làm cho nền tảng của nhiều tôn 
      giáo vùng Xê-mít (Semite) bị sụp đổ, và khiến cho Thiên Chúa giáo bị 
      điêu đứng, nó vẫn không gây  tổn 
      thương hay có ảnh hưởng bất lợi gì cho Phật giáo. Đức Phật không dạy 
      thế giới này do một đấng Thượng Đế tạo dựng hay con người chỉ  là sự sáng tạo đặc biệt của Thượng 
      Đế. Từ “satva” (có nghĩa là chúng 
      sanh) chỉ chung cho con người, loài vật, chư thiên, và tất cả mọi loài 
      có sự sống. Vì vậy, đạo Phật không phân biệt con người với động vật 
      như Thiên Chúa giáo. Trong Kinh Khởi Thế 
      Nhân Bổn (Aggañña Sutta) [1], đức Phật  đề cập đến đời sống con người có 
      liên hệ đến quá trình tiến hóa này. Do đó,  quan 
      điểm này không có gì  lạ lẫm hay hấp 
      dẫn đối với hàng Phật  tử, và 
      vì vậy học thuyết Tiến Hóa này được chấp nhận như là một khám phá 
      khoa học, không hề mâu thuẫn với giáo lý căn bản của đạo Phật. Trong 
      bài viết ngắn này, tôi muốn biện minh vấn đề làm thế nào ba chân lý 
      nền tảng, đó là Vô thường (Anicca), 
      Khổ (Dukkha), và Vô ngã (Anatta) tạo thành giáo lý trọng tâm của 
      đức Phật.  Ba chân lý này được xác 
      định, soi sáng  và ủng hộ bằng những 
      chứng cứ của khoa học. Đây là vấn đề làm cho Phật tử cảm thấy hết 
      sức hào hứng và thoả mãn.
      
Thánh 
      Kinh dạy rằng thế giới và sự sống trong đó, loài vật cũng như con người 
      được Thượng Đế tạo ra trong vòng 7 ngày. Nhiều loài khác như những 
      sinh vật dưới nước, các loài chim bay trên không, loài bò sát, và động 
      vật bốn chân được nói là do Thượng Đế tạo ra riêng lẻ. Do đó, người 
      phương Tây nghĩ rằng những loài này hoàn toàn khác, không có mối quan hệ 
      với nhau. Họ cũng tin rằng con người cũng được Thượng Đế sáng tạo 
      bằng hạt bụi của trái đất mà Thượng đế đã thở ra. Vì vậy, họ 
      tin tưởng con người là một sáng tạo riêng lẻ và không có liên hệ gì 
      với các loài động vật về mặt sinh học.
      
Darwin 
      đã chỉ ra đời sống bắt đầu với một cơ thể đơn bào trong đại 
      dương và phát triển qua nhiều giai đoạn tiệm tiến như thế nào. Ông viện 
      dẫn bằng chứng khoa học để bảo vệ luận điểm của mình. Luận điểm  này chứng minh rằng tất cả loài động 
      vật có một nguồn gốc chung và phát triển từ hình thái này đến hình 
      thái khác nhờ vào các biến đổi sinh học. Nhờ đó, người ta đã khẳng 
      quyết rằng động vật không phải là loài động 
      vật không thay đổi được, mà cũng không phải doThượng Đế tạo ra, mà 
      chúng tiến hóa dần dần từ dạng thức thấp nhất của sự sống, và 
      ngay bây giờ chúng cũng vẫn đang tiến hóa liên tục dưới nhiều dạng  thức khác nhau. Đời sống của con người 
      quá ngắn ngủi để theo dõi trọn vẹn quá trình tiến hóa này. Các loài 
      động vật và thực vật sống cách đây hàng triệu năm, nay không còn nữa. 
      Nhiều loại cây cỏ và động vật sống hàng triệu năm trong tương lai sẽ 
      khác so với hiện nay. Trường hợp con người cũng vậy. Do đó, định luật 
      “Vô thường” (anicca) không những ứng 
      dụng cho các đối tượng vô tình mà còn áp dụng cho các loài động vật 
      hữu tình. Lời đức Phật: “Sabbe sankhàrà 
      aniccà”  (Tất cả hành đều vô 
      thường)  lại càng được khẳng định 
      và soi sáng nhờ các bằng chứng khoa học.
      
Thánh 
      Kinh dạy rằng thế giới này và tất cả sự sống trên thế giới được 
      đấng Thượng Đế đại từ, đại lực tạo ra.  Nhưng khi nghiên cứu quá trình tiến hóa, 
      chúng ta thấy mọi loài đều phải chịu đau khổ. Kẻ mạnh đàn áp kẻ yếu 
      là chuyện xảy ra phổ biến trong quá trình sống và tiến hóa. Sự tồn tại 
      ở đây có nghĩa là sự kiếm ăn và tránh bị ăn. Do đó, cả trái đất này 
      ở khắp  mọi nơi, ngay cả trên đất 
      liền, trên không trung hay trong biển cả đều từng bị đẫm ướt máu của 
      sinh vật bị giết. Nhiều động vật thời cổ bị 
      tiệt chủng bởi vì chúng không thể chống lại nổi các loài dã thú ăn 
      thịt. Các loài bò sát lớn đã bị tiệt chủng có thể xem như những điển 
      hình. Chúng để lại các bộ xương và từ những bộ xương này, người 
      ta đã tái hiện hình thù của chúng. Các loài động vật ăn thịt lẫn 
      nhau là cách tự điều chỉnh của thiên nhiên đối với các loài dã thú. 
      Nếu không thì  trái đất sẽ đầy dẫy 
      những côn trùng và nhiều loại sinh vật khác, không còn ngay cả  một inch (2,54 cm) đất dành cho con người. 
       Thú vật luôn sống trong tình trạng sợ 
      hãi các loài dã thú có khả năng giết và ăn thịt chúng. Không có một người 
      trí thức nào, những người có khả năng suy luận, những người không bị 
      niềm tin làm cùn mòn lý trí của mình lại 
        chấp nhận rằng Thượng Đế đã 
        vạch ra một kế hoạch sát hại đẫm máu như vậy lại là một 
      đấng từ ái ! Niềm tin vào đấng Sáng Tạo, vào Thượng Đế và những 
      thuộc tính nhân ái của Thượng Đế đã bị sụp đổ. Tuy nhiên, Phật 
      ngôn: “Sabbe Sankhàra Dukkhà” (Tất cả 
      hành đều khổ) lại được thẩm định như một chân lý dưới ánh sáng 
      khoa học. Tại sao Thượng Đế đầy quyền năng và nhân từ tạo ra những 
      chúng sanh tiến hoá ngang qua tiến trình khổ sở và chậm chạp đầy đau 
      thương nhiều thế kỷ như vậy? Tiến trình phát triển này là một cuộc 
      dò dẫm mù lòa trong bóng tối và mọi loài sống trong đau khổ. Quan điểm 
      cho rằng đây là công trình của Thượng Đế toàn năng và nhân từ không 
      còn đứng vững nữa. Quả thực nếu có một Thượng Đế như thế, Ngài 
      nên tạo  dựng mau chóng, không có những 
      đau khổ mò mẫm mù lòa tăm tối này. Sự sống của muôn vật nên được 
      hạnh phúc và không bị khổ đau. Nhưng  khi 
      giáp mặt với sự bất toàn của quá trình tiến hóa và khổ đau đính 
      kèm đó, quan niệm cho rằng có một Thượng Đế nhân ái đứng sau tiến 
      trình này đã bị đánh đổ. Trước thời Darwin, những tín hữu Ky-tô có 
      lẽ đã hỏi “Làm thế nào thế giới có mặt mà không có một đấng Sáng 
      Tạo?” Darwin đã chỉ ra thế giới này xuất hiện như thế nào. Học thuyết 
      của Darwin không chỉ tranh luận mà còn hạ bệ lời nói “không thể sai lầm” 
      của Thượng Đế trong Thánh Kinh. Như vậy, nền tảng của Thiên Chúa giáo 
      và những tôn giáo hữu thần khác bị xói mòn và bị sụp đổ khi công 
      trình nghiên cứu thuyết Tiến Hóa này được công bố.
      
Thánh 
      Kinh dạy rằng con người là một sinh vật đặc biệt, nó tách biệt khỏi 
      thế giới động vật. Nhiều nhà thần học cho rằng con người có một 
      linh hồn mà động vật không có. Bertrand Russell đã nêu lên nghi vấn “Trong 
      suốt quá trình tiến hóa lâu dài, từ một cơ thể đơn bào cho đến con 
      người, linh hồn đã xuất hiện ở giai đoạn nào?” Không có câu trả lời 
      nào cho vấn đề này, và điều này cho thấy rằng quan điểm về linh hồn 
      chỉ là một ảo tưởng. Sinh vật học bảo rằng trong cơ thể con người 
      có 182 cơ quan dấu tích của loài thú còn sót lại, chúng không còn hoạt dụng 
      nữa, nhưng chúng là vết tích của nhưng giai đoạn tiến hóa trong quá khứ. 
      Không tính tới các cơ quan bên trong, các cơ quan như đuôi ở phần cuối bộ 
      xương, và lông trên cơ thể cũng cho thấy chúng ta có mối quan hệ họ 
      hàng với loài vượn không đuôi.
      
Không 
      những con người mà các sinh vật thấp hơn thế giới động vật đều có 
      các cơ quan còn sót lại, nhưng những cơ quan này không còn hoạt dụng nữa. 
      Điều này chứng minh rằng các loài động vật được phát triển từ các 
      loài động vật bậc thấp. Ngành Phôi học cho biết phôi của con người và 
      động vật lặp đi lặp lại nhiều giai đoạn tiến hóa khác nhau trong suốt 
      quá trình thai nghén. Do vậy, chúng ta biết được con người là một sinh vật 
      có liên quan với những động vật linh trưởng (con tinh tinh) và không phải 
      là một sinh vật đặc biệt có linh hồn bất tử gì cả. Các công trình 
      nghiên cứu hiện đại đã phát hiện những động vật linh trưởng như 
      vượn có sức hiểu biết như đứa bé tuổi lên ba. Sự khác nhau giữa con 
      người và những loại khỉ không đuôi cấp cao đâu có liên quan gì đến 
      linh hồn. Chúng chỉ khác nhau ở chỗ con người có bộ não phát triển hơn, 
      có khả năng hiểu biết nhiều hơn. Đây là sự thật xác chứng lời đức 
      Phật dạy “Sabbe dhammà anattà” (mọi 
      pháp đều không có thực thể).
      
“Thuyết 
      Tiến Hóa đối lập với giáo điều của Thánh kinh về bốn điểm. Thứ 
      nhất nó xác định lại quan điểm của các nhà địa chất về tuổi của 
      trái đất. Nhiều nhà thần học Ky-tô-giáo đã ước tính tuổi của trái 
      đất là 6000 năm bằng cách tính các thế hệ từ thời ông Adam đến Chúa 
      Jesus như được trình bày trong Phúc Âm. Chúng ta thấy điều này không tương 
      ứng với những khám phá của khoa học, và do đó, hiện nay các tín hữu 
      Thiên Chúa giáo đã từ bỏ quan điểm này. Thứ hai, học thuyết Darwin cho 
      chúng ta biết con người tiến hóa từ động vật chứ không phải là từ 
      hạt bụi do Thượng Đế thổi ra. Thứ ba, học thuyết Tiến Hóa loại bỏ 
      quan niệm phụ nữ được hình thành từ một cái xương sườn của người 
      nam. Và thứ tư, học thuyết tuyên bố cây cỏ, động vật phát triển 
      cùng một lúc và sự tiến hóa này bắt đầu vào khoảng thời gian nào đó 
      sau khi hệ mặt trời hình thành. Theo phần “Sáng Thế Ký” của Kinh Cựu Ước, Thượng Đế đã tạo ra 
      cỏ, hạt giống, và cây trái vào ngày thứ ba; mặt trời, mặt trăng và 
      các vì sao được tạo ra vào ngày thứ tư; những loại cá như cá voi và 
      các sinh vật dưới nước khác cũng như các loài chim chóc được tạo vào 
      ngày thứ năm; thú vật trên đất liền vào ngày thứ sáu.” Do đó,  một khi lời dạy trong Thánh kinh bị bác bỏ 
      và hạ bệ, chủ nghĩa Darwin đã làm cho các tôn giáo hữu thần ở phương 
      Tây bị mất ảnh hưởng.
      
Chúng 
      ta không thể nói rằng quá trình tiến hóa được đề cập trong Kinh Khởi Thế Nhân Bổn hoàn toàn trùng khớp 
      với học thuyết Darwin. Bài Kinh không minh họa các sinh vật tự thích nghi 
      với môi trường sống để tồn tại như thế nào, các sinh vật đã phát 
      triển các khả năng để sinh tồn, cũng như những sinh vật khác lại bị 
      hủy diệt  ra sao như  khám phá của Darwin. Tuy nhiên, có những 
      điểm tương đồng nổi bật. Những dạng thức của sự sống đầu tiên 
      được trình bày trong kinh là vô tính. Chúng sống như dạng rong rêu trên lớp 
      váng ở đại dương. Sau một thời gian dài, chúng phát triển thành hình 
      thù và có màu sắc khác nhau. Khi lớp váng có mùi thơm biến mất, một loại 
      nấm phát sinh và sinh vật phát triển những giới tính khác biệt. Tất cả 
      chi tiết này tương hợp với học thuyết Darwin, nghĩa là vạn vật tiến 
      hóa và phát triển trong một thời gian dài, sinh vật mới liên tục phát 
      sinh và phát triển, sinh vật vô tính có mặt trước khi các loại sinh vật 
      có giới tính xuất hiện. Lại nữa, sự phát triển của thực vật trong 
      các lớp váng nối tiếp,  đó là nấm, 
       dây leo, và lúa; đó là quá trình tiến 
      hóa của thực vật.
      
Có 
      một vài điểm bất đồng, do đó chúng ta có thể kết luận rằng Kinh Khởi Thế Nhân Bổn  chứa đựng một nội dung khá lý thú, 
      đó là sự pha trộn giữa “những khái niệm khoa học và thần thoại huyền 
      bí”. Chúng ta nên nhớ rằng Kinh Khởi Thế 
      Nhân Bổn này được biên tập vào khoảng 500 năm sau khi đức Phật nhập 
      vô dư Niết-bàn. Những học thuyết thịnh hành lúc bấy giờ có thể len lỏi 
      vào bài Kinh. “Hoặc chúng ta đặt giả thiết rằng đức Phật đã dạy 
      thuyết Tiến Hóa hoàn toàn giống với công bố của Darwin. Các đệ tử của 
      đức Phật là những bậc hiểu biết trong các vấn đề liên quan đến tâm 
      linh và đạo đức, và có lẽ không biết về khoa học như chúng ta ngày 
      nay. Cho nên, chúng ta nên nghĩ rằng Kinh Khởi 
      Thế Nhân Bổn đức Phật  mô tả 
      thuyết Tiến Hóa không phải từ quan điểm khoa học, mà nhấn mạnh đến 
      phương diện tiến hoá về đạo đức và tâm lý. Và ngược lại, nhiều vấn 
      đề lớn có liên quan đến học thuyết Tiến Hóa ngày nay dường như không 
      có gì quan trọng đối với người biên tập kinh điển thời  kỳ đầu, và do đó chúng được biên tập 
      như thế hoặc vô tình bị thay đổi.”[2] 
      Do đó, chúng ta thấy rằng tự thâm tâm của Phật tử 
      không có gì ngần ngại khi chấp nhận học thuyết Tiến Hóa của Darwin. Người 
      Phật tử đã tìm ra những nguyên tắc cơ bản của đạo mình.  Người Phật tử rất sung sướng khi thấy 
      sự tiến bộ của khoa học càng lúc càng tiến đến những sự thật  được ủng hộ và thiết lập nhờ các bằng 
      chứng của các lãnh vực mới của tri thức nhân loại mà đã được đức 
      Phật tuyên thuyết. 
[1] Kinh này nằm trong Trường Bộ, số 27. Bài Kinh này có nội 
        dung tương đương với Kinh Tiểu Duyên, 
        số 5 trong Trường A-hàm (ghi chú của người 
        dịch).  
[2] Trích từ Buddhism, Science, and Antheism by Douglas M. 
        Burns M. D.


 
 
 
 08:33
08:33
 Hoàng Phong Nhã
Hoàng Phong Nhã 
 
 Posted in:
 Posted in:   
 
 
0 nhận xét:
Đăng nhận xét