Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013
Kinh tế học và tài nguyên dưới góc nhìn Phật giáo
17:41
Hoàng Phong Nhã
No comments
Trong bối cảnh của suy thoái
kéo dài của nền kinh tế và những hệ lụy tới ngành nông
nghiệp của thế giới, bất chợt ai đó băn khoăn “phải chăng đã
đến lúc chúng ta nên nhìn lại thành tựu tăng trưởng vượt bậc
trong suốt thời gian qua, nhìn lại cách chúng ta tư duy về nền
kinh tế và lối sống của mình”.
Điều
băn khoăn ấy đã được phần nào giải thích trong luận bàn của
Ernest Friedrich Schumacher khi ông viết về “Kinh tế học Phật
Giáo”. Xin trích lược giới thiệu cùng bạn đọc.
"Sống lương thiện" là một trong
những lời răn dạy trong Kinh Phật. E.F. Schumacher tin rằng chắc
chắn tồn tại một nền kinh tế học mang bản sắc Phật giáo.
Các quốc gia theo đạo Phật thường khẳng
định rằng họ muốn trung thành với di sản mà cha ông để lại, song họ
cũng kiên định phát triển kinh tế theo lối tư duy kinh tế hiện
đại, với biện giải rằng không hề có bất cứ mâu thuẫn nào giữa giá
trị tín ngưỡng và tiến bộ kinh tế. Sự lành mạnh về tinh thần và sự thịnh
vượng về vật chất không phải là kẻ thù, mà trái lại, là những đồng minh
tự nhiên của nhau. Dường như không mấy ai mảy may cho rằng một lối
sống mang hơi hướng nhà Phật phải cần đến tư duy kinh tế Phật giáo.
Thực ra điều này cũng tự nhiên và logic như thể lối sống vật chất
hiện đại đã sản sinh ra tư duy kinh tế hiện đại.
Lao động, hàng hóa và tiêu dùng
Lao động là nguồn gốc sâu xa tạo nên
của cải loài người. Trong kinh tế học hiện đại, lao động được tính
là một phần cấu thành trong tổng chi phí, cần được tối thiểu hóa
đối với người thuê lao động, mặt khác lại là việc hi sinh thời
gian và sự thoải mái của người làm thuê, để được bù đăp bằng tiền
công. Vì vậy, tình huống lý tưởng đối với giới chủ là có đầu ra mà
không cần có lao động, và đối với người lao động là có thu nhập mà không
cần làm việc.
Điều này, dĩ nhiên, chỉ là lý
tưởng mà thôi. Nếu như quan điểm lý tưởng về lao động là không làm
việc thì tất cả các phương pháp để giảm khối lượng công việc đều
là điều tốt. Phương pháp hữu hiệu nhất là sự “phân công lao động”
(được phân tích trong cuốn “Sự thịnh vượng của các quốc gia” của Adam
Smith). Song, nó không phải là chuyên môn hóa theo hình thức truyền
thống mà con người đã thực hành từ xa xưa, mà là vấn đề phân chia quá
trình sản xuất hòan chỉnh thành những công đoạn nhỏ, cốt cho ra lò
những sản phẩm với thời gian ngắn nhất và loại bỏ gần như
toàn bộ những thao tác lao động thừa trong dây chuyền.
Trong khi đó, “Lao động” trong quan
niệm Phật giáo có ít nhất ba chức năng: tạo cho con người cơ hội nuôi
dưỡng và phát triển năng lực cá nhân; giúp con người vượt qua cái tôi
ích kỷ của mình bằng cách tham gia cùng với những người khác trong một
nhiệm vụ chung; mang lại cho con người những hàng hóa và dịch vụ cần
thiết để tồn tại. Những hệ quả bắt nguồn từ quan điểm này là vô tận.
Theo nhà Phật, tổ chức công việc theo
một cách vô nghĩa, nhàm chán, không hiệu quả hay tra tấn tinh thần bị
coi là một sự phạm tội, nó cho thấy sự coi trọng vật chất hơn con
người. Cũng tương tự như vậy, theo đuổi sự thư nhàn thay vì lao động
được coi là một sự hiểu nhầm hòan tòan về một trong những chân lý cơ bản
nhất của nhân loại. Chân lý ấy nói rằng lao động và giải trí là những
phần bù trừ cho nhau của cùng một quá trình sống và không thể tách rời
mà không phá hủy niềm vui lao động và niềm hạnh phúc thư giãn.
Do đó, theo quan điểm của Phật giáo, có 2
loại cơ giới hóa cần phải được phân biệt rõ ràng: một loại củng cố kĩ
năng và năng lực của con người; còn loại kia biến con người thành nô lệ
của máy móc.
Phật giáo coi tinh túy của nền văn minh
không phải nằm ở cấp số nhân của những ham muốn, mà nằm ở sự sàng lọc
những phẩm chất của con người. Những phẩm chất này chủ yếu được hình
thành trong lao động. Và lao động, được tổ chức một cách thích hợp trong
điều kiện bảo vệ chân giá trị của con người và sự tự do, sẽ ban phước
lành cho những ai tiến hành nó cũng như các sản phẩm họ làm ra.
Nếu một người không có cơ hội có được
việc làm, anh ta sẽ ở trong một tình thế tuyệt vọng, không chỉ bởi vì
thiếu thu nhập mà còn bởi vì anh ta thiếu những nhân tố nuôi dưỡng và
tăng thêm sinh lực mà chỉ lao động có kỷ luật mới tạo ra được.
Một nhà kinh tế hiện đại có thể thực
hiện những phép tính cực kỳ phức tạp để xét xem liệu toàn dụng nhân công
có phải đánh đổi bằng giá nào hay không hoặc liệu việc điều hành một
nền kinh tế ở mức thấp hơn toàn dụng nhân công có đảm bảo một sự lưu
động nhân công tốt hơn, một chế độ lương bổng ổn định hơn, và nhiều điều
khác nữa hay không? Tiêu chuẩn đo lường sự thành công của anh ta đơn
giản là tổng số lượng hàng hoá sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
Trong quan điểm của Phật tử, việc coi
hàng hoá quan trọng hơn người lao động và coi tiêu dùng quan trọng hơn
tính sáng tạo là chà đạp lên chân lý. Điều đó có nghĩa là chuyển trọng
tâm từ người lao động sang sản phẩm của lao động, hay từ con người sang
thực thể phi con người, hay một sự đầu hàng trước các thế lực tội ác.
Điểm khởi đầu cho mọi kế hoạch phát
triển kinh tế mang bản sắc Phật giáo sẽ là kế hoạch để đạt được toàn
dụng nhân công với mục đích tối cao là mang đến việc làm cho bất cứ
những ai cần một công việc “bên ngoài”. Đây không phải là vấn đề số
lượng việc làm tối đa hay số lượng sản phẩm tối đa.
Có một chút lưu ý khi các nhà kinh
tế học Phật giáo đề cập đến lao động trong góc nhìn về giới,
rằng phụ nữ chỉ cần làm tốt công việc nội trợ. Quá nhiều phụ nữ làm
việc trong văn phòng hay công xưởng là một dấu hiệu của một thất bại
kinh tế nghiêm trọng. Một ví dụ cụ thể là là để mẹ của trẻ nhỏ đi
làm trong các công xưởng trong khi những đứa trẻ này không có ai săn
sóc sẽ là phi kinh tế, chẳng khác nào việc trưng dụng một công nhân lành
nghề làm một chiến binh dưới con mắt của một nhà kinh tế học hiện đại.
Trong khi các nhà kinh tế theo trường
phái tư bản chủ nghĩa chủ yếu quan tâm tới hàng hoá, thì các Phật tử lại
chủ yếu quan tâm tới sự giải phóng. Tuy vậy, Phật giáo không bao giờ đi
ngược lại với sự thịnh vượng về vật chất. Vật cản đối với sự giải phóng
không phải là sự giàu có hay việc tận hưởng những thú vui mà là sự bám
giữ lấy của cải và sự khao khát những thú vui ấy. Vì vậy, điều chủ chốt
trong kinh tế học Phật giáo là tính giản dị và sự hòa hảo.
Đối với các nhà kinh tế học hiện đại,
điều này là rất khó tiếp thu. Họ đã quen với việc đo lường mức sống bằng
lượng tiêu thụ hàng năm, cho rằng một người tiêu dùng nhiều hơn luôn
luôn giàu có hơn một người tiêu dùng ít hơn.
Một nhà kinh tế học Phật giáo sẽ coi
điều này là cực kì phi lý: tiêu dùng chỉ là một phương tiện để con người
đạt đến sự giàu có, vì vậy mục tiêu phải là đạt được tối đa sự giàu có
với mức tiêu dùng tối thiếu. Vì vậy, nếu mục đích sử dụng của quần áo là
một mức độ thoải mái về nhiệt độ và sự hấp dẫn về mặt hình thức nhất
định, nhiệm vụ đặt ra là đạt được mục tiêu này với những nỗ lực nhỏ
nhất, ví dụ như là với sự tiêu thụ vải hàng năm thấp nhất và với quá
trình thiết kế đòi hỏi ít công việc khó nhọc nhất.
Ở đây, ít công việc khó nhọc có nghĩa là
nhiều thời gian hơn cho sự sáng tạo nghệ thuật. Ví dụ, sẽ là cực kì
lãng phí nếu theo đuổi những việc cắt may phức tạp, như phương Tây hiện
đại, khi một hiệu ứng đẹp hơn nhiều có thể đạt được nhờ một nếp gấp đầy
thuần thục của những vật liệu chưa được cắt tỉa. Những điều vừa đề cập
đối với quần áo cũng áp dụng tương tự đối với tất cả những nhu cầu của
người. Sự sở hữu và sự tiêu dùng háng hoá rốt cuộc chỉ là một phương
tiện và kinh tế học Phật giáo là các nghiên cứu có hệ thống về việc làm
thế nào để đạt được những mục tiêu cao nhất cho trước bằng những phương
tiện tối thiểu.
Kinh tế học Phật giáo muốn tối đa hoá sự
hài lòng của con người bằng lượng tiêu dùng tối ưu nhất, trong khi kinh
tế học hiện đại muốn tối đa hoá tiêu dùng bằng những nỗ lực sản xuất
tối ưu nhất. Dễ thấy rằng những nỗ lực cần thiết để duy trì một lượng
tiêu dùng tối ưu là thấp hơn những nỗ lực cần thiết đề duy trì lượng
tiêu dùng tối đa. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên trước thực tế
rằng áp lực và những ràng buộc của cuộc sống ở Burma (một quốc gia
Phật giáo), thấp hơn nhiều so với ở Mỹ (hoàn toàn theo tư duy kinh
tế hiện đại), mặc dù lượng máy móc tiết kiệm sức lao động được sử
dụng ở Burma chỉ bằng một phần 60 lượng máy móc được sử dụng ở Mỹ.
Xét về cách thức tổ chức sản
xuất, theo quan điểm của Phật giáo, việc sản xuất với đầu vào là các
nguồn lực của địa phương để phục vụ cho những nhu cầu của người dân tại
đó là cách thức hợp lý nhất, còn sự phụ thuộc vào hàng xuất khẩu để có
tiền nhập khẩu là cực kỳ phi kinh tế và chỉ có thể chấp nhận được trong
những trường hợp đặc biệt và ở quy mô nhỏ. Cũng giống như một nhà kinh
tế học hiện đại thừa nhận rằng việc một người lao động phải đi làm xa
nhà là một sự kém may mắn và không tối ưu, một Phật tử cho rằng khi
các nhu cầu của con người được đáp ứng bằng những nguồn lực đầu tư ở
cách xa thay vì bằng những nguồn tại chỗ thì đó là một sự thất bại hơn
là thành công.
Sử dụng tài nguyên
Sử dụng tài nguyên cũng là một
lĩnh vực cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa kinh tế học hiện đại và
kinh tế học Phật giáo. Nhà triết học chính trị nổi tiếng người Pháp,
Bertrand de Jouvenel, đã cá tính hoá “người phương Tây” trong những từ
ngữ mà cũng có thể áp dụng cho các nhà kinh tế học hiện đại: “Họ
có xu hướng không coi bất cứ cái gì là phí tổn, ngoài những nỗ lực của
con người. Họ, dường như không quan tâm xem đã phí phạm bao nhiêu khoáng
sản và tệ hơn nữa, đã phá huỷ bao nhiêu sự sống. Họ dường như không hề
nhận ra rằng sự sống con người là một phần không hề tách rời với hệ sinh
thái gồm nhiều dạng thức sống khác nhau. Điều này dẫn đến một sự đối xử
thô bạo và lãng phí đối với những gì mà chúng ta hoàn toàn phụ thuộc
vào, như nước sạch và cây cối.”
Lời dạy của Đức Phật lại bao hàm một
thái độ tôn kính và dịu dàng không chỉ đối với tất cả những sự vật có
tri giác, mà còn đồi với cây cối, với sự nhấn mạnh sâu sắc. “Cứ vài năm
một lần, tất cả những người theo đạo Phật phải trồng một cái cây và phải
chăm sóc nó cho đến khi lớn lên an toàn”, và các nhà kinh tế học Phật
giáo đều khẳng định mà không có bất cứ băn khoăn gì rằng sự tuân thủ quy
luật này trên toàn cầu sẽ dẫn đến sự phát triển kinh tế thần kỳ, độc
lập khỏi bất cứ sự trợ giúp nào của nước ngoài. Một minh chứng điển hình
là rất nhiều những thiệt hại về kinh tế ở vùng Đông Nam Á (cũng như ở
nhiều vùng trên thế giới) xuất phát từ thái độ thờ ơ cố tình, đáng
xấu hổ đối với rừng và cây cối.
Thực chất kinh tế học hiện đại không
phân biệt giữa tài nguyên tái tạo được với tài nguyên không thê tái
tạo, do phương pháp của nó là san bằng và định lượng mọi thứ bằng giá
tiền. Vì vậy, khi sử dụng vô số những nhiên liệu như than, dầu, gỗ hoặc
thuỷ năng, sự khác biệt duy nhất giữa chúng mà kinh tế học hiện đại phân
biệt được là chi phí tương đối trên mỗi đơn vị. Nhiên liệu nào càng rẻ
thì càng được ưa thích, vì họ cho rằng chọn nhiên liệu khác sẽ là phi
lý và không tiết kiệm.
Dĩ nhiên, quan điểm của nhà Phật không
như vậy. Sự khác biệt căn bản giữa các nhiên liệu không tái sinh được
như than đá và dầu hoả và các nhiên liệu tái sinh được như gỗ và thủy
năng không thể bỏ qua một cách đơn giản được. Nguyên liệu không tái
tạo chỉ được phép sử dụng khi chúng là đầu vào không thể thiếu được,
và phải được sử dụng một cách dè dặt, cẩn trọng nhất . Sử dụng
chúng một cách thờ ơ hoặc lãng phí là một hành động bạo lực. Một trái
đất phi bạo lực hòan toàn là điều khó có thể đạt được, nhưng dẫu sao con
người luôn luôn có thể hướng đến sự phi bạo lực lý tưởng đó trong mọi
việc mà anh ta làm, cụ thể là trong việc đối xử với tài nguyên thiên
nhiên.
Cũng như một nhà kinh tế học châu Âu
hiện đại sẽ không coi việc bán tât cả các báu vật nghệ thuật châu Âu
sang Mỹ với một giá hời là một thành tựu lớn, một nhà kinh tế học Phật
giáo sẽ luôn cho rằng lấy các nhiên liệu không thể tái sinh để làm đầu
vào cho các hoạt động kinh tế là sống một cách ăn bám.
Một lối sống như vậy sẽ không có sự
trường tồn vĩnh cửu và chỉ là một kế mưu sinh tạm thời. Vì trữ lượng các
nhiên liệu không thể tái sinh được của thế giới – như than đá, dầu lử
và gas thiên nhiên – đang được phân phối không công bằng một cách quá
mức trên toàn cầu và hạn chế một cách rõ ràng về chất lượng, viêc tốc độ
khai thác gia tăng chưa từng có là một hành động bạo lực chống lại tự
nhiên, và từ đó tất yếu dẫn đến bạo lực giữa người với người.
Chỉ riêng thực tế này cũng là một điều
đáng để suy nghĩ, thậm chí đối với người dân ở các quốc gia theo đạo
Phật, những người chỉ quan tâm đến các giá trị tín ngưỡng và tinh thần
trong các di sản Phật giáo của mà vẫn hăng hái theo đuổi chủ nghĩa vật
chất của kinh tế học hiện đại ở tốc độ nhanh nhất có thể.
Trước khi phủ nhận kinh tế học Phật
giáo và coi học thuyết này chằng khác gì một giấc mơ viển vông, họ có
thể cân nhắc liệu con đường phát triển kinh tế vạch ra bởi kinh tế học
hiện đại có thể dẫn họ tới những nơi mà họ thực sự muốn hay không. Cuối
cuốn sách mang tên “Thách thức của tương lai”, giáo sư Harrison Brown
của Viện Công nghệ California đã đưa ra đánh giá sau: “Do xã hội công
nghiệp cơ bản là không ổn định, việc hứa hẹn tự do cá nhân cũng là không
chắc chắn vì trong xã hội này có thể nảy sinh những tổ chức cứng nhắc
và sự kiểm soát mang tính độc tài.” Quả thực, khi chúng ta xem xét lại
tất cả những mối đe doạ tới sự tồn tại của nền dân chủ công nghiệp, sẽ
rất khó để thấy được rằng sự ổn định và tự do cá nhân được duy trì như
thế nào.
Nếu nhận xét trên không được công nhận
là một quan điểm dài hạn thì ít ra trước mắt người ta cũng nên đặt câu
hỏi liệu quá trình “hiện đại hoá”, hiện đang được được áp dụng mà không
tính đến những giá trị tôn giáo và tinh thần, có đang mang lại những
kết quả chấp nhận được hay không. Như công chúng đều biết, những kết quả
này dường như là thảm hoạ, như: sự sụp đổ của nền kinh tế nông nghiệp,
làn sóng thất nghiệp ngày càng cao phủ lên khắp các thị trấn và thành
phố, và sự lớn mạnh của giai cấp vô sản thành thị, những người không có
trong tay bất cứ thứ gì để nuôi dưỡng cả thể xác và tâm hồn.
Từ kinh nghiệm tức thời cũng như các
triển vọng dài hạn, nghiên cứu của kinh tế học Phật giáo có thể được đề
xuất cho những ai tin rằng sự phát triển kinh tế quan trọng hơn bất cứ
giá trị tinh thần hay tôn giáo nào, bởi đây không phải chỉ là vấn đề
lựa chọn giữa “sự phát triển hiện đại” hay “sự trì trệ truyền thống”
màlà lựa chọn con đường phát triển đúng đắn.
PHƯỢNG HOÀNG (PHẬT TỬ VIỆT NAM)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét