Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013
Lịch sử hình thành và phát triển của ngành ngân hàng thế giới
20:18
Hoàng Phong Nhã
No comments
Ngân hàng
là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cung cấp các khoản vay. Những ngân
hàng đầu tiên được biết tới trong lịch sử nhân loại là các đền thờ cổ
đại. Những dịch vụ ngân hàng đầu tiên không dành cho đông đảo người dân
bình thường. Các hoàng tộc, vương triều và một số ít nhà buôn giàu mới
là đối tượng phục vụ của ngân hàng nguyên thủy.
Vào khoảng ba nghìn năm trước Công
nguyên. Hình thức ngân hàng sơ khai được nhiều nhà sử học cho rằng đã
hình thành trước khi con người phát minh ra tiền. Ban đầu, tài sản gửi
tại "ngân hàng'' là các loại ngũ cốc, sau đó là gia cầm, nông sản, rồi
đến kim loại quý như vàng. Đền thờ là nơi an toàn để cất trữ tài sản. Đó
là các công trình được xây dựng kiên cố, thường xuyên có người tới hành
lễ. Và xét về tâm linh thì ngay những tên trộm táo tợn nhất cũng có ý
tránh chốn linh thiêng này.
Tại Ai Cập và Mesopotamia, vàng được gửi
vào các đền thờ. Nhưng những tài sản quý giá này lại ngủ yên trong đó,
trong khi, ở bên ngoài xã hội, các nhóm thương nhân và hoàng tộc lại rất
cần sử dụng chúng. Các nhà khảo cổ học tìm được những tàng tích cho
thấy tới đầu thế kỷ 18 trước công nguyên, tại Babylon, dưới thời trị vì
của Hammurabi, thầy tu trông giữ đền thờ bắt đầu cho các nhà buôn mượn
tài sản cất trữ trong đền. Khái niệm ngân hàng ra đời.
Hy Lạp và La Mã: thế kỷ thứ 4 trước công nguyên
Người Hy Lạp cổ đại nắm giữ những bằng
chứng xa xưa nhất về hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng của người Hy Lạp
vận hành đa dạng và phức tạp hơn bất kỳ xã hội nào trước đó. Các đền
thờ Hy Lạp cũng như các cá nhân và tổ chức hành chính tại các thành đô
đã biết tới những giao dịch tài chính như cho vay, gửi tài sản, trao đổi
tiền tệ, và định giá tiền đúc thông qua xác định khối lượng và mức độ
thuần khiết của kim loại. Thậm chí, người Hy Lạp đã sử dụng các giao
dịch tín dụng ghi sổ. Tại các hải cảng, nơi tập trung nhiều hoạt động
giao thương, người cho mượn tiền viết giấy tín dụng cho người cần sử
dụng tiền. Người cầm giấy này có thể "đổi'' lại thành tiền khi đến thành
phố khác. Nhờ vậy mà người ta tránh được việc phải mang theo một lượng
tiền lớn trong các chuyến buôn bán giữa các thành bang.
Pythius nổi tiếng là người lập ra và
điều hành ngân hàng thương nhân (merchant bank) khắp vùng Tiểu Á đầu thế
kỷ thứ 5 trước công nguyên. Nhân vật này được các nhà sử coi là nhà
ngân hàng tư nhân đầu tiên. Một điểm đáng chú ý là tại các thành bang Hy
Lạp, rất đông chủ ngân hàng là người lai hoặc người nước ngoài. Vào
khoảng năm 371 trước công nguyên, Pasion, một nô lệ, đã trở thành nhà
ngân hàng Hy Lạp giàu có và nổi tiếng nhất, đã được tự do và được công
nhận tư cách công dân của Athena. Dường như người Hy Lạp, với trình độ
phát triển khoa học cao, đã xem nhẹ lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Điều
này giúp lý giải việc Hy Lạp đạt tới nền văn minh đỉnh cao từ rất sớm
nhưng không có đóng góp hiểu biết đáng kể trong lĩnh vực kinh tế đương
đại.
Hoạt động tín dụng ngân hàng phát triển
mạnh mẽ trong thế kỷ thứ 4 trước công nguyên ở vùng Địa Trung Hải. Tại
Ai Cập, từ rất sớm, ngũ cốc đã được sử dụng như một loại tiền tệ bên
cạnh kim loại quý (vàng và bạc). Các kho chứa ngũ cốc của triều đình
thực hiện chức năng của ngân hàng. Khi đế chế Hy Lạp chinh phục Ai Cập,
thời kỳ trị vì của hoàng gia Ptolemies (330-323 B.C.), những kho chứa
nằm rải rác được tổ chức lại thành một hệ thống ngân hàng ngũ cốc, và
được quản lý tập trung tại Alexandria- nơi ghi chép và lưu trữ tài khoản
của các tất cả các ngân hàng ngũ cốc. Mạng lưới ngân hàng này hoạt động
như hệ thống tín dụng thương mại, trong đó, việc thanh toán được thực
hiện bằng ghi sổ từ tài khoản này sang tài khoản khác mà không cần
chuyển tiền trên thực tế. Đây chính là bản chất và hình thức đầu rõ ràng
nhất của các nghiệp vụ bù trừ hay thanh toán điện tử của các ngân hàng
hiện đại.
Cuối thế kỷ thứ ba trước Công nguyên,
đảo Delos ở vùng đất Aegean cằn cỗi, trở thành trung tâm ngân hàng quan
trọng của vùng Địa Trung Hải. Nơi đây cũng nổi tiếng với hải cảng sầm
uất và đền thờ thần Apollo tráng lệ. Cũng giống như tại Ai Cập, giao
dịch bằng tiền được thay thế bởi các hóa đơn tín dụng và việc thanh toán
được thực hiện dựa trên những chỉ dẫn đơn giản với các tài khoản giữ
riêng cho mỗi khách hàng. Sau khi người La Mã chinh phạt các đối thủ
cạnh tranh là Carthage và Corinth, Delos càng trở nên quan trọng. Hệ
thống ngân hàng của Delos gần như được các ngân hàng ở Rome sao chép
lại.
Thành Rome cổ đại đã hoàn thiện các qui
tắc và thủ tục hành chính của ngân hàng, cũng như các tổ chức và giao
dịch tài chính. Lãi suất tiền vay và lãi tiền gửi được sử dụng rộng rãi
với kỹ thuật tính toán phát triển và trong môi trường cạnh tranh. Trong
thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, các khoản nợ được coi là đã chính thức
thanh toán sau khi số tiền tương ứng đã chuyển tới ngân hàng. Nhà nước
La Mã bổ nhiệm công chứng viên ghi nhận các giao dịch ngân hàng. Tuy
vậy, sự phát triển của các ngân hàng La Mã gặp phải cản trở lớn từ thói
quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch của người La Mã. Trong thời gian
trị vì của Gallienus (260-268 sau Công nguyên), hệ thống ngân hàng La Mã
từng bị gián đoạn sau khi các ngân hàng từ chối tiền bằng đồng mà vị
Hoàng đế cho đúc ra.
Khi đế chế La Mã suy vong, các hoạt động
thương mại giảm đáng kể nên các ngân hàng cũng không còn cần thiết.
Thêm vào đó, giáo lý Cơ đốc cổ ngăn cấm thực hiện các giao dịch ngân
hàng và coi việc tính lãi (cả với tiền gửi và tiền cho vay) là không có
đạo đức. Sau khi La Mã sụp đổ, hoạt động ngân hàng bị cấm tại tây Âu và
chỉ được phục hồi trở lại vào thời điểm các cuộc thập tự chinh xuất
hiện.
Tôn giáo và ngân hàng: thế kỷ 12 và 13
Phần lớn các tôn giáo có nguồn gốc tại
vùng Cận Đông không cản trở hành vi cho vay nặng lãi. Các xã hội này tin
rằng những thực thể vô tri giác có đời sống giống như cây cỏ và động
vật, và do đó, cũng có khả năng tự tái tạo. Tại các vùng châu thổ lưỡng
hà (Mesopotamia), vùng đất khởi thủy của đạo Do Thái Hitties, vùng
Canaan và Ai Cập, việc tính lãi vay được coi là hợp pháp và triều đình
thường đặt ra một mức lãi suất cố định. Chỉ có một sự khác biệt trong
đạo lý của người Do Thái. Trong phần cuối của kinh Hebrew, người Do Thái
không được tính lãi trong các khoản vay với người Do Thái. Lãi suất chỉ
được áp dụng trong giao dịch với những kẻ vô thần hoặc không thuộc Do
Thái giáo.
Người theo đạo Cơ đốc không được phép
cho vay nặng lãi. Và đó là cơ hội cho các nhà ngân hàng thuộc tôn giáo
khác. Khi cuộc Thập tự chinh bắt đầu đầu, các vương triều châu Âu thịnh
vượng cần các hoạt động tài chính. Người Do Thái, xuất hiện ở hầu khắp
các lĩnh vực và nghiệp nghiệp, đáp ứng nhu cầu này. Nhưng sự thành công
của họ, sự hiện hiện đông đảo những người cùng tôn giáo Do Thái mang lại
nhiều nguy hiểm cho chính họ.
Một nhóm khác cũng nổi lên trong thời kỳ
này là các Hiệp sĩ thánh chiến (Knights Templar), những người sau vài
năm đã trở thành các nhà ngân hàng hùng mạnh ở khắp châu Âu và Trung
Đông. Cũng giống như người Do Thái, các Hiệp sĩ có những nghi lễ tôn
giáo riêng và dễ dàng trở thành nạn nhân của lời đồn tai tiếng, ngờ vực
và ruồng bố.
Việc kinh doanh ngân hàng mang lại nhiều
lợi nhuận dần được chuyển sang tay `những người anh em' có nguồn gốc Cơ
đốc giáo, được biết tới đầu tiên là những người Lombards. Lombard,
tiếng Latinh viết là Langobardi, còn được gọi biết tới với tên
Langobards hay Longobards, là nhóm người có nguồn gốc chủng tộc German,
đến từ phía bắc châu Âu và định cư tại vùng lưu vực sông Danube. Tới năm
568, dưới sự chỉ huy của vua Alboin tiến vào nước Italia và lập nên
Vương triều riêng, tồn tại tới năm 774. Hậu duệ của người Lombards, các
thương nhân tại Genoa, Milan, Venice và Florence là những người đầu tiên
lập nên hệ thống ngân hàng hiện đại và đưa và thực hành các nghiệp vụ
quan trọng.
Ngân hàng cho các Hoàng đế châu Âu: thế kỷ 13 và 14
Trong suốt thế kỷ 13, các nhà ngân hàng ở
bắc Italy, được biết tới tên gọi chung ''những người Lombards'', dần
thay thế vai trò của người Do Thái trong hoạt động truyền thống: cung
cấp tiền bạc cho những người giàu có và quyền lực, các hoàng gia châu
Âu. Kỹ năng kinh doanh của ngân hàng được phát triển với phát kiến về
nghiệp vụ ghi sổ kép và cách thức bù trừ nghĩa vụ tín dụng của khách
hàng trên ghi chép sổ sách giữa các ngân hàng trong hệ thống, vốn được
các ngân hàng ở Genoa áp dụng từ thế kỷ 12. Cách thức kế toán sáng tạo
này giúp họp tránh được ``tội lỗi'' cho vay nặng lãi được qui định trong
giáo lý Cơ đốc. Lợi nhuận của khoản vay được ghi trong các tài khoản
dưới dạng quà tặng tự nguyện của người vay hoặc phần thưởng cho những
rủi ro mà nhà ngân hàng đã trải qua. Hẳn nhiên, những món quà và phần
thưởng của các hoàng tộc đứng đầu châu Âu không bao giờ có giá trị nhỏ.
Các ngân hàng tại Siena và Lucca, Milan
và Genoa đều thu lợi từ những thương vụ mới này. Nhưng xứ Florence mới
thực sự chiếm phần lớn nhất. Hệ thống ngân hàng Florence thống lĩnh hệ
thống tài chính quốc tế nhờ đồng tiền vàng florin nổi tiếng. Được đúc
lần đầu tiên vào năm 1252, đồng florin nhanh chóng nhận được sự tín
nhiệm và công nhận rộng rãi, thực sự trở thành đồng tiền mạnh (hard
currency) vào thời đó.
Tới đầu thế kỷ 14, hai dòng họ Bardi và
Peruzzi là những người giàu có nhất tại Florence nhờ vào việc cung cấp
các dịch vụ tài chính. Họ tổ chức việc thu và chuyển tiền dựa trên các
hệ thống phong kiến quyền lực nhất, đặc biệt là nhờ Đức Giáo hoàng. Hoạt
động buôn bán và trao đổi hàng hóa trở nên thuận tiện với những hóa đơn
trao đổi (bill of exchange) mà nhà Bardi và Peruzzi cấp cho các thương
nhân. Khi xuất trình những hóa đơn này, thương nhân có thể nhận được
tiền ở bất kỳ ngân hàng trong hệ thống. (Đây là hình thức tương đồng với
việc sử dụng cheque ngày nay).
Các ngân hàng xứ Florence đảm bảo dịch
vụ này nhờ số lượng chi nhánh ở khắp nước Italia và tại các trung tâm
buôn bán lớn của châu Âu. Tới đầu thế kỷ 14, hệ thống ngân hàng Bardi đã
hiện diện tại Barcelona, Seville và Majorca; Paris, Avignon, Nice và
Marseilles; London, Bruges, Constantinople, Rhodes, Cyprus và Jerusalem.
Quyền lực của xứ Florence còn được củng
có bởi những khoản nợ lớn mà các chủ ngân hàng ở đây đang nắm giữ. Con
nợ, không ai xa lạ, chính là các vị Hoàng đế uy quyền bậc nhất châu Âu.
Cũng chính vì lẽ đó, không lâu sau, các ngân hàng này rơi vào cảnh tồi
tệ.
Năm 1340, vua Edward III của nước Anh
thực hiện thương vụ cực kỳ tốn kém: cuộc chiến với nước Pháp, sự khởi
đầu của một thế kỷ chiến tranh. Vị Hoàng đế vay rất nhiều tiền từ xứ
Florence. Nhà Peruzzi cho vua Edward III vay 600.000 florin vàng còn nhà
Bardi cung cấp khoản vay 900.000 florin vàng. Tới năm 1345, nhà vua vỡ
nợ và cả hai dòng họ ngân hàng Florence cũng lâm vào cảnh phá sản.
Tuy vậy, vai trò trung tâm ngân hàng
châu Âu của xứ Florence vẫn tiếp tục sau thảm họa này. Nửa thế kỷ sau,
những gia tài lớn nhất lại được các gia tộc ngân hàng ở đây tạo dựng.
Lần này hai dòng họ lừng danh của thế kỷ 15: Pazzi và Medici.
Đế chế Fugger: thế kỷ 15-16
Vào đầu thế kỷ 15, nhà Medici xứ
Florence là đế chế ngân hàng lớn nhất châu Âu. Về sau, vì theo đuổi
quyền lực chính trị, nhà Medici đã không tập trung cao nhất cho các hoạt
động kinh doanh tạo ra tiền. Sau Lorenzo Vĩ đại, tình trạng tài chính
của gia tộc ngày càng trở nên tồi tệ.
Một trong những cái tên được biết tới
nhiều nhất trong thời kỳ đầu của lịch sử ngân hàng thế giới là dòng họ
Medici ở xứ Florence. Xuất thân từ những người nông dân, rồi tham gia
các hoạt động buôn bán và ngân hàng, dòng họ Medici dần trở thành một
trong các gia đình quyền lực nhất châu Âu trong suốt thời gian từ giữa
thế kỷ 14 đến 1748. Dưới sự dẫn dắt của Giovanni Medici từ đầu thế kỷ 15
và sau đó là Cosimo, dòng họ xứ Toscan (thuộc Italia) dần mở rộng các
hoạt động ngân hàng ra ngoài ranh giới xứ Florence với các chi nhánh tại
Milan, Geneva, Bruges, Ancona, Pisa, London và Avignon. Chi nhánh tại
Rome quản lý tài khoản của Đức giáo hoàng.
Tại Florence, ngân hàng Medici nhận tiền
gửi của những người Florence giàu có. Các khoản tiền gửi này có thể
được rút ra theo định kỳ từ ba tháng đến một năm và hưởng mức lãi suất
khoảng 10 phần trăm mỗi năm. Dòng họ Medici cũng dần quản lý xứ
Florence, thể hiện sức mạnh kết hợp giữa tài chính và chính trị. Sự kết
hợp này đã vô cùng hữu ích vào năm 1452 khi cả hai xứ Naples và Venice
gây chiến với Florence. Đối mặt cùng lúc với hai mối hiểm hoạ, Cosimo đã
cho đòi các khoản nợ tại hai thành phố thù địch khiến cho chiến tranh
không thể nổ ra bởi hai thành phố này không còn đủ nguồn tài chính để
thuê quân lính.
"Dòng họ Medici đạt tới đỉnh cao
dưới thời Lorenzo (1449-1492), cháu trai của Cosimo. Lorenzo được coi là
hình ảnh mẫu mực của một quý ông thời kỳ Phục Hưng. Ông là người trị vì
xứ Florence, nhà thơ, học giả, một người say mê nghệ thuật, và một chủ
ngân hàng. Danh tiếng này, tuy vậy, cũng có giá của nó. Dưới thời kỳ
Lorenzo, dòng họ Medici đã cho vua nước Anh Edward IV vay tiền để tài
trợ cho Cuộc chiến Hoa hồng (Wars of the Roses). Khi vị vua nước Anh
không thể trả nợ, ngân hàng đã bị mất một số tiền lớn và buộc phải đóng
cửa chi nhánh tại London. Dòng họ Medici cũng tham gia tích cực các hoạt
động chính trị tại Nhà thờ Thiên chúa Giáo, và rất có uy tín với các
thế lực ngầm. Dòng họ Medici luôn là những chủ ngân hàng đầy thủ đoạn,
sẵn sàng tận dụng mọi cơ hội để loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
Dòng họ Medici bắt đầu suy yếu từ
thế kỷ 16 khi xứ Florence bị xâm lược nhiều lần. Vào thế kỷ 16, ngân
hàng Medici thoát khỏi cảnh phá sản nhờ sự giúp đỡ của Fuggers, một ngân
hàng lớn ở miền nam nước Đức. Đến thế kỷ 18, ngân hàng Medici chỉ còn
là cái bóng mờ nhạt của chính mình. Nhưng tên tuổi của dòng họ Medici và
ngân hàng Medici xứ Florence còn mãi trong lịch sử ngân hàng thế giới."
--Jane E. Hughes và Scott B. MacDonald, 2002. International Banking: Text and Cases.
Nhà Medici sau cùng cũng nhận được tước
hiệu Công tước xứ Florence nhưng vị trí đứng đầu ngành ngân hàng đã lọt
vào tay ngân hàng Đức- dòng họ Fugger. Cũng giống như nhà Medici, nhà
Fugger tích lũy gia sản khổng lồ bằng việc chăm sóc tài chính cho Giáo
hoàng và các hoàng tộc.
Quyền lực của châu Âu được chuyển về
Habsburgs, nơi gia đình Fugger sinh sống, cuối thế kỷ 15. Tổ tiên nhà
Fugger làm nghề dệt vải tại Augsburg và những tài sản đầu tiên của gia
đình đều năm trong ngành dệt. Người vay tiền nhà Fugger đầu tiên là một
hoàng tử Habsburgs vào năm 1487, với khoản đảm bảo là mỏ đồng và bạc ở
vùng Tirol. Kể từ đó, gia tộc này mở rộng và phát triển các hoạt động
khai mỏ và kim loại quý. Năm 1491, Maximilian, lúc này còn là hoàng tử
của vương triều Roman Thần thánh, nhận khoản vay đầu tiên từ nhà Fugger
và đảm bảo bằng các quyền lợi kinh tế thu được từ hai lãnh đại tại Áo.
Sau khi lên ngôi hoàng đế ở Habsburgs, Maximilian vẫn tiếp tục phải vay
tiền của gia tộc Fugger.
Người vay nhiều tiền nhất từ nhà Fugger
là cháu nội của Maximilian, vua nước Đức Charles. Thừa hưởng từ cha ông
ngai vàng của nước Đức và vương triều Roman nhưng để giữ tước vị,
Charles phải cạnh tranh với Hoàng đế nước Pháp, Francis Đệ nhất. Để có
tiền trang trải cho cuộc tranh cử, Charles tìm đến nhà Fugger. Một lượng
tiền khổng lồ đã được sử dụng để hối lộ bảy người bỏ phiếu: 852.000
florin. Gần hai phần ba số tiền này do nhà Fugger tài trợ (544.000
florin). Chiến dịch vận động tranh cử thắng lợi. Charles V đăng quang.
Thời gian đó, mức lãi suất không bao giờ
ở dưới 12%/năm. Và với một khoản vay nóng, nhà ngân hàng ở thế kỷ 16 dễ
dàng nâng mức lãi suất lên 45%. Cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các
hoàng đế mang lại lợi nhuận.
Các cuộc chiến liên tiếp và những khoản
chi tiêu của vương triều đều đặn làm suy kiệt tài chính của Hoàng đề
Charles. Cũng giống như những người đang trị vì các quốc gia châu Âu vào
thời kỳ đó, chi phí của Charles V vượt xa những nguồn lợi có thể thu
được. Phần chênh lệch được bù đắp bằng các khoản vay ngân hàng và thường
được hoàn trả bằng cách nhượng lại những nguồn thu lợi của hoàng gia.
Nhờ đó, nhà Fugger được trao toàn quyền
hưởng số lợi tức từ Tây Ban Nha cùng các mỏ bạc và thủy ngân vào năm
1525. Nhà ngân hàng này, từ đó, giữ vị thế đồng thời là người thu lợi
tức và người quản lý tài sản của vương triều. Nhưng mức lãi suất cao của
họ có thể nhanh chóng phá tan một vương quốc đã tham giá quá nhiều cuộc
chiến không mang lại lợi nhuận.
"Dòng họ Fugger.
Fugger là một trong các dòng họ nổi tiếng nhất trong ngành ngân hàng tại
Đức vào giữa thời kỳ Trung cổ. Cuối thế kỷ 15, dòng họ Fugger nổi lên
như một gia đình buôn bán có thế lực tại thành phố Augsburg, và thường
được nhắc tới như những người chủ ngân hàng chuyên phục vụ dòng họ
Hapsburg. Năm 1487, Jakob Fugger (1459-1525) cho Sigismund- Hoàng tử xứ
Tyrol- vay 20.000 duca (đồng tiền vàng cổ châu Âu). Để đảm bảo cho khoản
vay, vị lãnh chúa dòng họ Hapsburg đã trao cho Jakob quyền kiểm soát
các mỏ bạc tốt nhất vùng Schwarz và toàn bộ doanh thu thuế của tỉnh
Tyrol. Thời kỳ đó, nhu cầu sử dụng bạc rất lớn nhằm phục vụ công việc
chế tác các đồ trang sức tinh xảo. Bạc cũng là phương tiện thanh toán,
trao đổi xếp thứ hai sau vàng. Quyền kiểm soát các nguồn lực này vừa
mang lại nguồn lợi khổng lồ vừa củng cố sức mạnh tài chính của dòng họ
Fugger.
Với một khoản vay khác cho Hoàng tử
Sigismund năm 1488, dòng họ Fugger đã có quyền kiểm soát hoạt động khai
thác bạc trên toàn bộ lãnh thổ. Khi kế tục Sigismund nắm quyền cai quản
Tyrol, năm 1490, Maximilian tiếp tục duy trì mối quan hệ tín dụng này.
Ngay sau đó, năm 1491, Maximilian có thêm một khoản vay mới từ dòng họ
Fugger nhằm tài trợ cho cuộc chiến thống nhất các lãnh địa thuộc dòng họ
Hapsburg. Maximilian trở thành Hoàng đế của Đế chế Roman (Holy Roman
Empire) vào năm 1493. Gia đình Fugger có một người bạn đầy quyền lực và
một khách hàng gắn bó.
Đến năm 1508, công việc kinh doanh
của dòng họ Fugger đã trải khắp châu Âu với các hoạt động đầu tư trong
lĩnh vực dệt may, buôn bán hạt tiêu, bất động sản, và khai thác mỏ bạc
và đồng. Ngân hàng Fugger cũng tham gia tài trợ cho các cuộc viễn chinh
tại châu Mỹ. Hệ thống kinh doanh quốc tế của gia đình Fugger cho phép họ
cung cấp thêm một dịch vụ mới cho vương triều Hapsburg, khi đế chế này
mở rộng và nằm rải rác ở nhiều vùng địa lý trên khắp lục địa châu Âu.
Các lãnh địa chư hầu có nghĩa vụ nộp tiền cho vương triều Hapsburg. Họ
thực hiện nghĩa vụ của mình bằng nhiều đồng tiền khác nhau và việc vận
chuyển thường tốn rất nhiều thời gian và nguy hiểm. Kết quả là việc sử
dụng hệ thống của gia đình Fugger sẽ vô cùng tiện lợi cho hoàng gia. Với
các lệnh chuyển đổi, tiền sẽ được chuyển tới Augsburg chỉ trong vòng
hai tuần. Có thể hình dung một cách đơn giản, đại diện của gia định
Fugger tại Antwerp nhận tiền và phát hành một giấy ghi nhận tín dụng.
Giấy chứng nhận này sẽ nhanh chóng được chuyển tới Đức và đổi thành tiền
mặt tại ngân hàng Fugger ở Augsburg .
Gia tài của dòng họ Fugger, tuy
vậy, cũng trở nên gắn bó vô cùng mật thiết với các hoạt động của khách
hàng lớn nhất, vương triều Hapsburg. Dưới thời Charles V, người kế
nghiệp Maximilian, chiến phí quá lớn trong các cuộc xung đột với người
Ottoman, Pháp, và người Tin lành tại Đức đã đặt tình trạng tài chính của
vương triều vào tình trạng căng thẳng đáng ngại. Mặc dù gia đình Fugger
tin rằng họ đã gia hạn quá mức với vương triều Hapsburd, họ vẫn phải
miễn cưỡng tiếp tục cung cấp các khoản tín dụng. Sức mạnh tài chính của
dòng họ Fugger bị tổn hại nghiêm trọng khi Philip II của Tây Ban Nha
tuyên bố phá sản vào năm 1577. Gia sản của dòng họ Fugger sụt giảm
nghiêm trọng ngay sau đó."
--Jane E. Hughes và Scott B. MacDonald, 2002. International Banking: Text and Cases.
Tới cuối thế kỷ 16, dòng họ Fugger rút
khỏi các hoạt động tài chính rủi ro, sau một số thảm họa gia đình, và
duy trì hiện diện như một gia đình quí tộc sau khi bán đi phần lớn tài
sản.
Từ đây xuất hiện những triều đại ngân
hàng mới, trong đó nổi bật và quyền lực nhất là gia tộc Rothschild.
Nhưng điểm đáng kể nhất của lịch sử ngân hàng thế kỷ 17 lại là mô hình
kinh doanh với các dịch vụ thương mại hướng tới khách hàng thông thường
nhiều hơn các vị hoàng đế.
Từ Antwerp đến Amsterdam
Antwerp trở thành trung tâm tài chính
của châu Âu vào đầu thế kỷ 16. Vị trí trung tâm giao thương giữa vùng
Baltic, Đại Tây Dương, và châu Á của Antwerp được khẳng định khi chuyến
tầu đầu tiên của người Bồ Đào Nha dỡ các kiện hàng hạt tiêu và quế xuống
bến cảng vào năm 1501. Quan trọng hơn, tại Antwerp có một trong hai thị
trường chứng khoán duy nhất vào thế kỷ 16. Tại đây, vốn và các khoản
tín dụng luôn sẵn sàng dành cho các thương gia có uy tín đang thiếu vốn
nhằm đổi lại mức thu thuế đảm bảo cùng các cam kết trả nợ. Randall
Germain ghi nhận về giai đoạn này như sau: "Sự phát triển của Antwerp,
đặc biệt là thị trường chứng khoán tại đây, báo hiệu sự chuyển dịch cấu
trúc tài chính công cộng, phản ánh sự bùng nổ cả khả năng cung cấp nguồn
tài chính (đồng sovereign của Anh, vàng của Mỹ và doanh thu từ việc cấp
phép độc quyền thương mại) và nhu cầu sử dụng các nguồn lực này.''
Antwerp đã thu hút các nhiều ngân hàng
quốc tế. Các ngân hàng Đức, như Fugger hay Welser, đóng vai trò quan
trọng tại đây, mặc dù các ngân hàng Italia cũng hiện diện. Trong phần
lớn thế kỷ 16, Antwerp phát triển thịnh vượng với hàng hoá từ châu Á do
người Bồ Đào Nha đổ xuống cảng biển tại đây, sau đó chuyển tới Đức, vùng
Baltic, và Anh quốc. Theo chiều ngược lại, các đồng tiền bạc và đồng
của Đức và Hungary chảy về Antwerp. Nhiều chuyến hàng lớn khởi hành từ
đây với nguồn tài trợ là các khoản vay từ ngân hàng Fugger hay Welser.
Thời hoàng kim của Antwerp trong lịch sử tài chính đi đến hồi kết vào
thập kỷ 1580, khi cuộc chiến tôn giáo giữa những người Tin lành và những
người Thiên chúa giáo nổ là tại Vùng đất trũng (ngày nay là khu vực
Vương quốc Bỉ và Hà Lan). Thật không may, Antwerp đã tham gia vào cuộc
chiến với cộng đồng người Tin lành thiểu số, những người phải gánh chịu
cơn thịnh nộ của Philip II, người trị vì xứ Hapsburg (Tây Ban Nha) theo
đạo Thiên chúa. Năm 1585, quân đội Tây Ban Nha tiến vào cướp phá
Antwerp. Hậu quả nặng nề của sự kiện này là Antwerp đánh mất vai trò của
mình trong hệ thống tài chính quốc tế.
Hoạt động ngân hàng trong thế kỷ 16 cũng
không tránh khỏi rủi ro này. Trong khi nhiều ngân hàng lớn của Đức và
Italia cho các vương triều châu Âu mượn tiền thì việc thu hồi các khoản
nợ gặp rất nhiều khó khăn. Hỗ trợ cho bên chiến bại đồng nghĩa với việc
người vay tiền sẽ bị xử tử và lãnh địa của họ bị tàn phá bởi các đạo
quân vô cùng hung hãn. Cũng không kém phần nguy hiểm, ngay cả các hoàng
gia lớn cũng có thể sử dụng quá mức nguồn lực tài chính của mình và
thường dẫn tới kết cục vỡ nợ. Vua Philip II của Tây Ban Nha đã phải
tuyên bố phá sản vào năm 1557. Hậu quả tại hại của sự kiện này là các
ngân hàng lớn của Đức đều bị tổn thất nặng nề.
Khi Antwerp suy thoái là lúc Amsterdam
nổi lên như trung tâm tài chính của thế giới. Trong thế kỷ 16, người Hà
Lan thống lãnh việc vận tải thương mại tại khu vực Baltic và hoạt động
rất tích cực tại các vùng lãnh thổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Cuộc
chiến với Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 16 mở ra cho người Hà Lan nhiều cơ
hội thương mại quốc tế hơn. Đây là cơ hội để người Hà Lan nhanh chóng
thành lập đế chế của riêng mình, và cuối cùng đã giành được quyền kiểm
soát New Amsterdam (ngày nay là New York), các quần đảo châu Á mà ngày
nay là Indonesia, hàng loạt hòn đảo tại vùng Caribbean và Suriname, và
trong một thời gian ngắn là một phần Brazil và bờ biển phía đông châu
Phi.
Người Hà Lan đã thực hiện các biến đổi
sâu sắc trong tài chính vào đầu thế kỷ 17. Mặc dù an ninh quốc gia liên
tục bị đe doạ bởi các hoàng tử Đức, Pháp, và Tây Ban Nha, nền độc lập
của Hà Lan vào thế kỷ 17 được duy trì tương đối ổn định. Môi trường
chính trị ổn định là điều kiện đầu tiên giúp hoạt động thương mại thăng
hoa. Và do vậy, nhu cầu một hạ tầng tài chính phát triển hơn và phức tạp
hơn xuất hiện. Năm 1602, người Hà Lan cho thành lập các khu chợ có tổ
chức dành cho việc trao đổi các công cụ tài chính. Ngân hàng Ngoại tệ
Amsterdam (Amsterdam Exchange Bank) được thành lập năm 1609. Sở giao
dịch chứng khoán Amsterdam (Amsterdam Stock Exchange) mở cửa năm 1611.
Để làm nền móng cho các phát triển trên, người Hà Lan đã phát triển một
hệ thống ngân hàng vững mạnh, biến Hà Lan trở thành nỗi ghen tị với phần
còn lại của châu Âu, đặc biệt là Anh quốc.
Người Hà Lan thống lĩnh hệ thống tài
chính quốc tế trong suốt thế kỷ 17 với nguồn tài chính từ các quốc gia
đang tìm hướng phát triển kinh tế qua các hải đội của mình như Anh và
Pháp. Sự thống lĩnh của người Hà Lan về tài chính, tuy vậy, đã mở đường
cho người Anh tiến lên vị thế này trong thế kỷ 19.
Ngân hàng và Séc/cheque: từ thế kỷ 16
Năm 1587, Banco della Piazza di Rialto
mở cửa tại Venice với tư cách một sáng kiến của nhà nước. Mục tiêu của
nó là cất giữ an toàn các khoản tiền của thương nhân và đảm bảo các giao
dịch tài chính giữa Venice và đối tác ở bất kỳ đâu mà không thực hiện
di chuyển vật lý của tiền đúc.
Quá trình khảo cứu tư liệu về lịch sử
phát triển ngành ngân hàng thế giới ghi nhận các tài liệu đề cập tới
dòng họ Goldsmid, ở một số tài liệu là Goldsmith. Mặc dù cách viết có
khác nhau nhưng phỏng đoán rằng đây chỉ là một đối tượng duy nhất: những
người làm nghề kim hoàn, đúc tiền vàng (loại tiền rất có giá trị vào
thời Trung cổ). Với vị thế ngày một quan trọng của tiền vàng trong buôn
bán và cất trữ, những người này giàu lên, có tích lũy. Việc sử dụng vốn
của họ theo công nghệ kiếm lãi vay rất hợp tự nhiên và qui luật thị
trường.
Còn sức mạnh quyền lực thông qua van tín
dụng là do con người tạo nên với các kế hoạch thiết kế tinh vi, dày
công chuẩn bị, điều phối cực tốt và thực thi hiệu quả từng lần. Đại gia
tộc Rothschild đặc trưng cho những phẩm chất đó. Họ vươn lên trong sự
tàn khốc của thị trường là điều ai cũng phải nghiêng mình kính nể.
Hình thức thanh toán không sử dụng tiền
đúc đã từng được Hy Lạp cổ đại áp dụng nhưng khi đó, những cá nhân cho
vay tiền đối diện với rủi ro vỡ nợ cao. Sáng kiến Venice, với chi phí và
trách nhiệm thuộc về nhà nước, là nỗ lực cung cấp một phương tiện đảm
bảo cho các hoạt động kinh doanh rủi ro. Các trung tâm thương mại ở vùng
Địa Trung Hải trong thời kỳ đó, đáng kể có Barcelona và Genoa, thậm chí
còn đi trước Venice với mô hình này. Các thành phố cảng phía bắc cũng
nhanh chóng học tập theo, Amsterdam năm 1609, Hamburg năm 1619 và
Nuremberg năm 1621.
Với phương thức giao dịch mới này,
cheque, tiếng Việt gọi là séc, ra đời. Một hóa đơn trao đổi, phương thức
ban đầu của việc chuyển tiền không sử dụng tiền đúc, là hợp đồng giữa
các bên cá nhân và một hoặc nhiều hơn người cho vay tiền. Séc là hóa đơn
thanh toán giữa các ngân hàng. Việc thanh toán được thực hiện cho bất
kỳ ai nắm giữ và xuất trình séc với một trong số các ngân hàng tham gia
cam kết trên séc.
Việc sử dụng séc đơn giản và được chấp
nhận rộng rãi từ cuối thế kỷ 17. Cùng thời gian đó, các ngân hàng nhận
ra họ có một nguồn lợi lớn hơn việc xử lý thanh toán séc và chuyển tiền.
Tổng số tiền các khách hàng gửi tại ngân
hàng là một số lớn, và chỉ một phần trong số đó thường xuyên nhận được
yêu cầu rút ra của khách hàng. Một phần số tiền còn lại có thể sử dụng
để cho vay, với một mức lãi suất và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Khi khách hàng nhận ra phần giá trị tiềm ẩn trong số tiền họ gửi tại
ngân hàng, nhà ngân hàng chấp nhận trả cho khách hàng một mức lãi tương
ứng với số tiền và thời gian gửi tiền trong ngân hàng. Lợi nhuận của
ngân hàng khi này là phần chênh lệch giữa lãi suất phải trả cho khách
hàng và lãi suất nhận được từ các con nợ.
Quá trình chuyển đổi từ các cá nhân cho
vay tiền sang ngân hàng tư nhân diễn ra chậm rãi trong suốt thế kỷ 17 và
18. Tại nước Anh, những gia đình chuyên nghề kim hoàn bắt đầu nổi lên,
nhờ sớm tham gia vào hoạt động giữ tiền trong thời kỳ phát triển đầu
tiên của ngân hàng. Sau đó, những gia đình này bắt đầu cho vay tiền.
Cuối cũng, sang thế kỷ 18, họ chuyển toàn bộ sang hoạt động ngân hàng
thay cho công việc tạo tác truyền thống.
Với ngân hàng tư nhân là một phần cấu
trúc của đời sống thương mại, trong giai đoạn tiếp theo, lịch sử phát
triển ngân hàng ghi nhận sự ra đời của các ngân hàng quốc gia.
Ngân hàng quốc gia: thế kỷ 17 và 18
Venice, sau khi là thành phố đầu tiên
lập ngân hàng cho việc giữ tiền và thanh toán bù trừ séc, cũng đi tiên
phong trong việc cho phép một ngân hàng can dự vào tài chính chính phủ.
Năm 1617, Banco Giro được thành lập để giải quyết các vấn đề mà Banco
della Piazza di Rialto để lại sau khi thực hiện những khoản cho vay
không đảm bảo.
Con nợ của ngân hàng chính là nhà nước
Venice. Banco Giro ra đời trên nguyên tắc những chủ nợ của chính phủ
chấp nhận nợ được thanh toán dưới dạng tín dụng với ngân hàng mới. Để
giải quyết một vấn đề trước mắt, những cơ hội mới được tạo ra. Venice đã
có một cơ chế tạo nguồn quỹ tài chính công trên cơ sở các khoản tín
dụng được đảm bảo.
Mở rộng khái niệm này theo lô-gic đưa
tới khái niệm ngân hàng quốc gia, được thành lập dưới dạng các liên kết
với chính phủ. Ngân hàng quốc gia đầu tiên ra đời là Ngân hàng Thụy Điển
(Bank of Sweden), thành lập năm 1668. Cho tới nay ngân hàng này vẫn
hoạt động và thường được nhắc tới với tư cách tổ chức xét và trao Giải
thưởng Khoa học Kinh tế Tưởng nhớ Alfred Nobel. Cũng rất lâu đời và giữ
vai trò quant trọng trong lịch sử ngân hàng thế giới là Ngân hàng Anh
(Bank of England) được thành lập năm 1694, ban đầu là một công ty cổ
phần, với thương vụ đầu tiên là thu xếp khoản nợ 1,2 triệu bảng được vua
nước Anh Willam sử dụng trong cuộc chiến với Louis XIV của Pháp(Ellen
Hodgson Brown, 2008. Web of Debt).
Trong suốt thế kỷ 18, Ngân hàng Anh lần
lượt thực hiện các công việc mà ngày nay được xếp vào nhóm chức năng
hoạt động của ngân hàng trung ương. Ngân hàng này tổ chức veiẹc bán trái
phiếu chính phủ khi cần huy động nguồn tài chính. Nó cũng giữ vai trò
ngân hàng thanh toán bù trừ cho các bộ và cơ quan chính phủ, hỗ trợ và
xử lý các giao dịch thường nhật của các tổ chức này.
Ngân hàng Anh cũng trở thành nhà ngân
hàng của ngân hàng khác tại London, và thông qua những ngân hàng này
tiếp cận cộng đồng ngân hàng quốc tế. Các ngân hàng London trong nửa
cuối thế kỷ 18 hoạt động như đại diện tại kinh đô tài chính của rất
nhiều ngân hàng tư nhân qui mô nhỏ.
Toàn bộ các ngân hàng này đều sử dụng
Ngân hàng Anh như nguồn tín dụng mỗi khi gặp sự cố. Để đảm bảo chức năng
này, ngân hàng quốc gia cần một lượng vàng dự trữ rất lớn với toàn bộ
lượng vàng của quốc gia được bảo quản cẩn mật trong các hầm chứa.
Tiền giấy: 1661-1821
Tiền giấy xuất hiện lần đầu tiên tại
châu Âu vào thế kỷ 17 tại Thụy Điển, vài năm trước khi ngân hàng quốc
gia đầu tiên ra đời. Năm 1656, Johan Palmstruch lập Stockholm Banco. Dù
đây là ngân hàng tư nhân nhưng có mối liên hệ rất mật thiết với nhà
nước. Một nửa lợi nhuận của ngân hàng này là khoản phải trả cho Bộ tài
chính của Hoàng gia Thụy Điển. Năm 1661, sau khi thảo luận cùng chính
phủ Thụy Điển, Palmstruch nhận được quyền phát hành giấy tín dụng có thể
trao đổi. Khi đưa giấy này tới ngân hàng của Palmstruch, một số lượng
tiền xu đúc bằng bạc đã được định trước sẽ được trao cho người xuất
trình.
Giấy bạc Palmstruch được thiết kế rất ấn
tượng. In trên mặt giấy là 8 chữ ký. Nếu đạt đủ lòng tin của dân chúng,
đó sẽ là loại tiền tệ lý tưởng. Giấy bạc này có thể được sử dụng để mua
hàng hóa trong chợ nếu từng người nắm giữ nó cùng có chung niềm tin
rằng sẽ đổi được môt lượng tiền đúc thực sự khi cầm giấy đến ngân hàng.
Nhưng tai họa đã xảy ra. Palmstruch phát
hành nhiều tiền giấy hơn số bạc có thể đổi cho khách hàng. Đến năm 1667
Palmstruch bị thất sủng, và đối diện với án tử hình, sau đó được giảm
nhẹ xuống phạt tù, do gian lận.
Phải tới nửa thế kỷ sau, mới có một ngân
hàng nữa ở châu Âu phát hành tiền giấy. John Law, người sáng lập Banque
Générale tại Paris vào năm 1716, thực hiện phát hành tiền giấy vào
tháng 1 năm 1719. Niềm tin của công chúng với đồng tiền này đã bị sụt
giảm nghiêm trọng một năm sau đó. Tháng 5 năm 1720, chính phủ Pháp thông
qua một sắc lệnh giảm một nửa giá trị của đồng tiền giấy này.
Với các hoạt động thương mại ngày càng
phát triển trong thế kỷ 18, nhiều thử nghiệm tiếp tục được thực hiện với
tiền giấy của ngân hàng. Tất cả đều dẫn tới một nhận thức rõ ràng về
nhu cầu mở rộng cung tiền tệ dựa trên khả năng sẵn có các kim loại quý.
Sau khi các ngân hàng quốc gia ra đời,
công chúng dần có niềm tin hơn vào các loại tiền giấy do những ngân hàng
này phát hành và được đảm bảo bằng lượng tài sản dự trữ của chính phủ.
Trong bối cảnh đó, thậm chí, một chính phủ còn có thể ban hành lệnh cấm
tạm thời với việc thực hiện quyền đổi tiền giấy ra bạc. Qui định này đã
được áp dụng thành công tại Anh trong suốt thời gian chiến tranh với
Napoleon, từ 1797 đến 1821.
Với đồng tiền giấy do các chính phủ phát
hành, mối nguy hiểm cố hữu chuyển từ khả năng phá sản sang lạm phát.
Sau khi kết thúc cuộc chiến với Napoleon, chính quyền Anh bắt đầu sử
dụng chế độ bản vị vàng để phòng ngừa nguy cơ này.
Đế chế Rothschild: từ cuối thế kỷ 18
William IX, lãnh chúa cai quản vùng
Hesse-Kappel của Đức và ông chủ của khối tài sản khổng lồ có nhiều năm
quan hệ khăng khít với Mayer Amschel Rothschild, một nhà ngân hàng Do
Thái và là nhà buôn ở Frankfurt. William đánh giá rất cao những lời
khuyên của Rothschild trong lĩnh vực tài chính. Hai người cũng chia sẻ
niềm đam mê sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật. Vào năm 1801, William chính
thức bổ nhiệm Rothschild làm người đại diện cho vương triều của mình và
khuyến khích Rothschild sử dụng các kỹ thuật tài chính của mình hỗ trợ
các hoàng gia châu Âu trong những năm Napoleon liên tục khuấy đảo lục
địa châu Âu.
Rothschild không bỏ lỡ cơ hội này. Năm
1803, nhà Rothschild đã cung cấp khoản vay 20 triệu francs cho chính phủ
Đan Mạch. Khoản vay dành cho Đan Mạch khởi đầu cho nhiều giao dịch của
các chính phủ châu Âu với gia tộc Rothschild. Chỉ trong một thời gian
ngắn, dòng họ Rothschild đã trở thành hệ thống ngân hàng quyền lực nhất
châu Âu, thậm chí còn có uy thế vượt cả các đại gia tộc nổi danh từ
trước như Medici và Fugger.
Hệ thống ngân hàng của nhà Rothschild
nhanh chóng hiện diện tại các trung tâm giao thương quan trọng nhất châu
Âu. Mayer Amschel có năm người con trai. Ông giữ người con cả, Anselm
Mayer, ở bên cạnh để tiếp quản công việc của ngân hàng tại Frankfurt.
Bốn người con còn lại chia nhau mở các chi nhánh. Solomon đến thành
Viên. Nathay Mayer vượt biển sang London. Kalk phát triển tại Naples.
Jacob phụ trách vùng Paris.
Gia tộc Rothschild đã đặt cược rất lớn
vào thất bại của Napoleon. Mặc dù Jacob được Napoleon cho phép hoạt động
tại Paris và có tham gia lo nguồn tài chính cho các hoạt động chiến
tranh của Napoleon, tất cả các quốc gia đối đầu với Napoleon đều nhận
được những khoản vay từ nhà Rothschild. Điều này không có gì đáng ngạc
nhiên nếu chúng ta đã tìm hiểu về cách thức kinh doanh và kiếm lợi nhuận
từ chiến tranh của gia tộc này.
Bằng việc tài trợ cho cả hai bên tham
gia cuộc chiến, nhà Rothschild luôn nhận được phần chia của người chiến
thắng và là chủ nợ của kẻ chiến bại. Bằng hệ thống liên lạc được xây
dựng từ trước chiến tranh, quan hệ với các thế lực cầm quyền, tiền và
tài sản vẫn được chuyển qua lại giữa các chi nhánh của ngân hàng
Rothschild ngay trong thời kỳ chiến tranh. Một trong vô số trường hợp
lẫy lừng là việc Nathan chuyển một lượng tiền rất lớn cho chính phủ Anh
tới Bồ Đào Nha (phải đi qua nước Pháp) để trang trải cho đội quân của
Anh đang chiến đấu tại đây.
Khi chiến tranh kết thúc, danh tiếng của
gia tộc Rothschild vang dội khắp châu Âu. Hệ quả của điều này là những
quan hệ giao dịch tài chính khăng khít với chính phủ của nhiều quốc gia.
Tiếng tăm này cũng giúp dòng họ Rothschild phát triển gia tài ngày một
nhanh hơn. Cùng với sức mạnh tài chính hiển hiện, uy tín nhà Rothschild
với các vương triều cũng rất cao, và đặc biệt, họ luôn có được những
thông tin nhanh nhất và chuẩn ác nhất.
Khi đội quân của Napoleon tràn vào vùng
Hesse-Kassel sau chiến thắng tại Jena năm 1806, người bảo trợ của Mayer
Amschel Rothschild là William phải bỏ trốn và giao lại toàn bộ của cải
cho nhà Rothschild. Trị giá lượng tài sản này vào khoảng nửa triệu bảng
(tiền thời bấy giờ). Bất chấp nỗ lực của những người đại diện cho
Napoleon trong việc yêu cầu Rothschild chuyển giao lượng tài sản này cho
Hoàng đế mới thắng trận, nhà Rothschild vẫn giữ nguyên vẹn và chuyển
lại toàn bộ số của cải trên, cùng tiền lãi cho người chủ thực sự vào năm
1815.
Nhờ có thông tin chính xác, ngày 20
tháng 6 năm 1815, Nathan Mayer Rothschild biết được chiến thắng của Công
tước Wellington trong trận chiến lịch sử với Napoleon tại Waterloo hai
ngày trước khi thắng lợi được quyết định thực sự trên chiến trường.
Trước đó, tài năng quân sự của Wellington luôn bị nghi ngờ. Với thông
tin quý báu này, dòng họ Rothschild đã giành thắng lợi tuyệt đối và vô
cùng to lớn trên thị trường tài chính nước Anh. Chính phủ Anh nhận được
tin thắng trận vào buổi chiều ngày chiến thắng. Trong khi đó, hệ thống
truyền thông của nhà Rothschild, rất nổi tiếng với việc sử dụng chim bồ
câu đưa tin, đã nhận được tin sớm hơn rất nhiều với những người truyền
tin đợi sẵn ở hải cảng Ostend để chuyển đi những thông tin mới nhất.
Các hệ thống ngân hàng vẫn tiếp tục phát
triển cùng sự tiến bộ của xã hội loài người với vai trò và ảnh hưởng
ngày một quan trọng và sâu sắc hơn. Lịch sử thế giới đương đại đang
chứng kiến những biến cố lớn về kinh tế, chính trị, và xã hội với căn
nguyên sâu xa bắt đầu từ những trục trặc của hệ thống ngân hàng quốc tế.
Các phần nội dung tiếp theo giới thiệu những nguyên lý vận hành căn bản
của hệ thống ngân hàng. Từ đó, phần nào kiến giải cùng độc giả bản chất
diễn biến phức tạp trên các thị trường tài chính-tín dụng toàn cầu
trong năm 2008. Đây cũng là những nền tảng để tiếp tục quan sát và dự
báo những biến chuyển kinh tế Việt Nam và thế giới trong giai đoạn tiếp
theo.
Lịch sử ngân hàng của thế giới có điểm
thú vị là các hệ thống ngân hàng quyền lực nhất luôn thuộc về dòng họ
hoặc một nhóm người có chung tôn giáo, nguồn gốc địa lý. Sự phát triển
của hệ thống ngân hàng đi liền với các hoạt động thương mại nở rộ. Tuy
vậy, các nhà ngân hàng thu lợi rất lớn từ các hoàng tộc, triều đình, và
nhà nước. Những lợi ích này bao gồm cả của cải vật chất và quyền lực
chính trị. Cho tới thế kỷ 20 và 21, ngay cả khi nền kinh tế toàn cầu đã
đạt tới qui mô vô cùng lớn về giá trị tiền tệ, và các thể chế chống độc
quyền quốc tế được áp dụng rộng khắp, hệ thống tài chính-ngân hàng quốc
tế về cơ bản vẫn nằm dưới sự kiểm soát của một nhóm đại gia tộc kinh
doanh tiền tệ. Câu chuyện này chúng ta sẽ sáng tỏ hơn qua nhiều phần
khác nhau của cuốn sách.
Nhiều học giả như Glyn Davies (2002),
Murray N. Rothbard (1983), và Frederic S. Mishkin (2004) đều sử dụng
chung thuật ngữ ngân hàng thương nhân (merchant bank) khi nhắc tới hình
thái ngân hàng đầu tiên. Bắt nguồn từ các hoạt động buôn bán, những
thương nhân giàu có bắt đầu cho người khác "mượn dùng'' tài sản và tiền
trong giao thương. Khi của cải tích lũy đủ lớn, các thương nhân này còn
hỗ trợ tài lực cho các vương triều và hoàng gia, tạo dựng địa vị và
quyền lực để trở thành các đại gia tộc. Trong quá trình phát triển
thương mại, khách hàng của các ngân hàng cũng mở rộng sang đông đảo tầng
lớp thương gia và dân cư. Từ đó, hình thành các mô hình ngân hàng
thương mại, ngân hàng đầu tư, ngân hàng bán lẻ...
Theo SAGA.VN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét