Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013
Milton Friedman và tư duy kinh tế học đương đại
19:35
Hoàng Phong Nhã
No comments
Có thể nói,
không có một nhà kinh tế học nào khác kể từ thời của Keynes định hình
lại cách nghĩ về kinh tế học như Milton Friedman (1912-2006). Bằng phạm
vi của những chủ đề và tầm quan trọng trong những ý tưởng của ông,
Friedman không những đã đặt nền tảng cho kinh tế học đương thời mà ông
còn xây dựng nó trở nên vững chắc.
Milton Friedman sinh ngày 31/7/1912
tại Brooklyn, New York, Mỹ. Ông là con út, và là con trai duy nhất trong
gia đình 4 con của bà Sarah Ethel (Landau) và ông Jeno Saul Friedman.
Bố mẹ ông sinh ở Carpatho-Runthenia (sau trở thành một tỉnh của Áo -
Hung; rồi thành một phần của Czechoslovakia , rồi lại thành một tỉnh của
Liên Xô cũ). Họ di cư sang Mỹ lúc còn trẻ, gặp nhau ở New York. Khi ông
được 1 tuổi, bố mẹ ông chuyển đến Rahway, New Jersey, một thị trấn nhỏ
nằm cách thành phố New York khoảng 20km. Ở đó, mẹ ông mở một cửa hàng
bán hàng khô, bố ông tham gia vào một công việc đầu cơ mạo hiểm, đây là
một công việc mà tỷ lệ thất bại rất lớn và ông cũng là một trong số đó.
Thu nhập gia đình ít mà độ rủi ro cao; thâm hụt tài chính trong gia đình
xảy ra như cơm bữa. Tuy thường xuyên không đủ ăn nhưng không khí gia
đình vẫn đầm ấm.
Ông được học bổng vào đại học Rutgets
(hồi đó, nó là một trường tư nhỏ và vượt trội hơn các trường khác, nhận
được một khoản tài trợ nhỏ của bang New Jersey, được biết đến như là một
khoản học bổng). Ông tốt nghiệp Đại học Rutgets năm 1932, phần còn lại
của học phí, ông kiếm được bằng cách làm nhân viên chạy giấy, nhân viên ở
một cửa hàng nhỏ, đầu cơ liều lĩnh vào một số công ty và khoản làm thêm
hè. Đầu tiên, ông theo học ngành Toán, định trở thành chuyên viên tính
toán rủi ro. Ông đã làm một số bài thi về môn này, đỗ có, trượt cũng có.
Tuy nhiên, ông trở nên quan tâm đến Kinh tế học, và thậm chí kết thúc
khoá học với cả hai bằng.
Trong ngành Kinh tế học, ông có cơ may
được hai người đàn ông ưu tú giúp đỡ, đó là Arthur F. Burns, sau này dạy
trường Rutgers khi ông đang làm luận án Tiến sỹ tại Columbia; và Homer
Jones, tốt nghiệp và dạy tại trường Đại học Chicago. Arthur Burns định
hình cho sự hiểu biết của ông trong nghiên cứu môn Kinh tế học, giới
thiệu cho ông những tiêu chuẩn khoa học cao nhất, và trở thành người có
ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp của ông sau này. Homer Jones giới thiệu cho
ông những học thuyết kinh tế chính xác, làm cho môn Kinh tế học trở nên
thú vị và xác đáng, và khuyến khích ông tiếp tục nghiên cứu cho đến khi
tốt nghiệp đại học. Nhờ sự tiến cử của Arthur Burns, khoa Kinh tế học
của trường đại học Chicago đã trao cho ông một xuất học bổng. Cùng lúc
này, ông lại có một xuất học bổng của trường đại học Brown cho môn Toán
học ứng dụng, nhưng ông đã quyết định giành cuộc đời mình cho Kinh tế
học. Arthur Burns và Homer Jones ngày nay vẫn là những người bạn thân
thuộc và được ông quý trọng nhất.
Mặc dù năm 1932-1933, năm đầu học tại
Đại học Tổng hợp Chicago là năm khó khăn nhất đối với ông, nhưng nó vẫn
mở ra một thế giới mới. Jacob Viner, Frank Knight, Henry Schultz, Lloyd
Mints, Henry Simons và một nhóm sinh viên đã tốt nghiệp xuất sắc từ khắp
nơi trên trái đất giới thiệu ông với toàn thế giới và tạo ra một bầu
không khí sôi nổi theo kiểu mà ông chưa bao giờ thấy. Ông không bao giờ
tìm lại được không khí này nữa. Năm 1933, ông nhận được bằng thạc sỹ
kinh tế.
Về phía Milton Friedman, sự kiện quan
trọng nhất đối với ông của năm này là ông gặp một người phụ nữ đã "hạ
gục" ông, đó là Rose Director. Họ cưới nhau sau đó 6 năm, khi sự lo lắng
về nơi ăn chốn ở đã bị xua tan và sau đó, họ sống rất hạnh phúc. Rose
như một đối tác của ông trong mọi nghiên cứu từ lúc đó.
Nhờ vào tình bạn của Henry Schultz với
Harold Hotelling, năm sau ông nhận được học bổng của trường Đại học
Columbia . Năm học ở trường Columbia đã mở ra cho ông một chân trời mới.
Harold Hotelling làm thống kê những học thuyết kinh tế của Jacob Viner:
toàn bộ học thuyết là một khối thống nhất, logic với nhau, không sắp
xếp như công thức trong cuốn sách dạy nấu ăn. Ông cũng giới thiệu
Friedman môn toán kinh tế chính xác. Wesley C. Mitchell, John M. Clark
và những người khác hướng ông theo kinh nghiệm và quan điểm về lý thuyết
kinh tế khác xa với quan điểm kinh tế được dạy ở trường đại học
Chicago. Ở đây cũng có một nhóm nghiên cứu sinh đặc biệt làm giáo viên
rất hiệu quả.
Sau năm học ở trường Columbia, ông quay
trở lại trường Chicago, bỏ ra 1 năm để hỗ trợ nghiên cứu của Henry
Schultz, người mà sau này đã hoàn thành tác phẩm kinh điển của ông,
"Nguyên lý và thước đo nhu cầu" (The theory and measurement of demand).
Cũng vậy, Friedman có tình bạn bền vững với 2 nghiên cứu sinh, đó là
George J. Stigler và W. Allen Wallis.
Allen là người đầu tiên đến với Chính
sách Kinh tế xã hội mới ở Washington. Friedman theo chân ông và vào mùa
hè năm 1935, làm việc ở Uỷ ban Nguồn lực quốc gia, chuyên nghiên cứu,
phác thảo về ngân sách tiêu dùng. Đây là một trong hai yếu tố chủ yếu
hợp thành cuốn sách sau này của ông mang tên: "Lý thuyết về chức năng
của tiêu dùng" (Theory of the Consumption Function).
Từ năm 1941 đến 1943, tại cục dự trữ
quốc gia, ông làm về chính sách thuế thời chiến, và năm 1943 đến 1945,
tại trường đại học Columbia, trong một nhóm do Harold Hotelling và W.
Allen Wallis lãnh đạo, ông làm người tính toán thống kê những mẫu thiết
kế vũ khí, chiến lược chiến đấu và những thí nghiệm trong luyện kim.
Khối lượng công việc thống kê toán của ông lên đến đỉnh điểm vào ngày
chiến thắng phát xít Đức năm 1945.
Năm 1945, ông tham gia vào George
Stigler tại Đại học Minnesota. Sau một năm ở đây, ông nhận lời vào dạy
môn lý thuyết kinh tế tại đại học Chicago , một vị trí được Jacob Viners
thành lập đầu tiên tại trường đại học Princeton . Ông giảng dạy ở đây
cho đến lúc về hưu. Cùng thời gian đó, Arthur Burns, sau này là giám đốc
nghiên cứu thuộc Hiệp hội kinh tế Mỹ thuyết phục ông làm thành viên
Hiệp hội chịu trách nhiệm nghiên cứu về vai trò của tiền tệ trong kinh
doanh.
Năm 1946, ông nhận bằng Tiến sỹ của
trường đại học Columbia. Sự kết hợp của Trường đại học Chicago và Hiệp
hội kinh tế mang lại hiệu quả rất lớn. Ở trường đại học Chicago, ông
thành lập một "Khoa Tiền tệ và Ngân hàng", nơi cho phép tích luỹ nhiều
nghiên cứu về tiền tệ của nhiều người hơn là dự án của một người đơn lẻ.
Ông có cơ may được làm việc với một số thành viên của hội này mà ông có
thể tự hào phát biểu rằng trong đó bao gồm tất cả những người cộng tác
hàng đầu về nghiên cứu tiền tệ như là sự phát triển nổi bật trong ngành
khoa học 2 thập kỷ trước. Tại Hiệp hội kinh tế, ông nhận được sự giúp đỡ
của Anna J. Schwartz, người rất hiểu biết về lịch sử kinh tế, và rất
chịu khó chú ý vào từng chi tiết nhỏ, bổ sung cho những định hướng trong
lý thuyết của ông. Công việc của ông về lịch sử và thống kê tiền tệ đã
bổ sung cho cả kinh nghiệm nghiên cứu lẫn phát triển lý thuyết của ông
trong hiệp hội tại trường đại học Chicago.
Mùa thu năm 1950, ông đi Paris trong
vòng 3 tháng để làm đại diện của chính phủ Mỹ cố vấn về quản lý kế hoạch
Marshall. Nhiệm vụ chính của ông là nghiên cứu kế hoạch Schuman, dự báo
thị trường chung. Đó là nguồn gốc cho sự quan tâm của ông về thả nổi tỷ
giá hối đoái. Một tác phẩm của ông về vấn đề này là "Vấn đề về tỷ giá
hối đoái linh hoạt" (The case for flexible exchange rates).
Năm 1951, ông đạt được huy chương John
Bates Clark cho thành tựu nổi bật của các nhà kinh tế tuổi dưới 40. Một
bước ngoặt của ông vào năm 1957, cuốn sách "Lý thuyết về chức năng tiêu
dùng" (A theory of the comsumption function) đã đưa ra ý kiến của những
người ủng hộ học thuyết của Keynes rằng cá nhân và hộ gia đình điều
chỉnh mức chi tiêu cho tiêu dùng của họ để phản ánh thu nhập hiện thời.
Friedman chỉ ra rằng tiêu dùng hàng năm của mọi người là thứ mà mọi
người mong muốn kiếm ra.
Đầu thập kỷ 60, ông gia tăng sự quan tâm
cho công chúng, năm 1964, ông phụng sự cho Thượng nghị sỹ Goldwater với
tư cách là cố vấn kinh tế khi ông không thành công lúc tranh chức tổng
thống, và năm 1968, ông là một thành viên trong Ban cố vấn kinh tế cho
việc tìm kiếm thành công trong việc tranh cử tổng thống của Richard
Nixon.
Năm 1960, ông viết cuốn "Chương trình ổn
định tiền tệ" (A program for monetary stabitity). Năm 1962, ông viết
cuốn "Lý thuyết về giá cả: bài viết tạm thời" (Price theory: a
provisional text) và cuốn "Tư bản và tự do" (Capitalism and freedom) -
cuốn sách này ông viết cùng vợ mình, Rose D. Friedman. Trong cuốn sách
này, ông đưa ra nghiên cứu của mình về kinh tế thị trường từ cao xuống
thấp. Ông tranh luận rằng, giữa mọi vật khác, một người lính tình
nguyện, thả nổi tỷ giá hối đoái, bãi bỏ bằng tiến sỹ, phủ nhận thuế thu
nhập, và bỏ giáo dục. (Friedman chống đối tích cực với nhóm đặc biệt của
quân đội: đã một lần ông tuyên bố rằng nhóm này chỉ phục vụ cho một cá
nhân trong Quốc hội). Mặc dù sách của ông bán không chạy lắm, rất nhiều
người trẻ tuổi đã đọc vì qua nó, họ được tiếp thêm kiến thức để học kinh
tế học. Ý tưởng của ông được cả thế giới biết đến với cuốn "Tự do lựa
chọn" (Free to choose) mà vợ ông là đồng tác giả. Đây là cuốn sách bán
chạy nhất vào năm 1980, được viết cùng với xê-ri phóng sự trên TV trong
Hệ thống truyền thông công cộng. Cuốn sách làm tên tuổi Milton Friedman
trở nên quen thuộc với mọi người.
Mặc dầu ông có nhiều tác phẩm viết về
thuyết giá cả - học thuyết giải thích giá tác động thế nào đến thị
trường cá nhân - Friedman được coi như là người thiết lập nên chính sách
tiền tệ. Thách thức Keynes và phần lớn những lý thuyết đã được thiết
lập trong thời gian đó, Friedman trưng ra bằng chứng phản lại lý thuyến
về số lượng của tiền tệ - lý thuyết này phát biểu rằng giá cả không phụ
thuộcvào sức cung tiền. Trong tác phẩm "Nghiên cứu lý thuyết về số lượng
tiền tệ" (Studies in the quantity of money), xuất bản năm 1956,
Friedman nói rằng trong dài hạn, việc tăng cung tiền đẩy giá tăng lên
nhưng tác động rất ít hoặc không ảnh hưởng đến sản phẩm. Trong ngắn hạn,
ông phản bác, việc tăng cung tiền dẫn đến tăng thất nghiệp và sản phẩm,
và giảm cung tiền sẽ ảnh hưởng ngược lại.
Giải pháp của Friedman cho vấn đề lạm
phát và dao động trong ngắn hạn của thất nghiệp và GNP thực được gọi là
quy luật cung tiền. Nếu Cục dự trữ quốc gia yêu cầu tăng cung tiền cùng
tỷ lệ với mức tăng GNP thực, lạm phát sẽ biến mất. Chính sách tiền tệ
của Friedman đã được đặt lên hàng đầu khi năm 1963, ông và đồng tác giả
Anna Schwartz tung ra tác phẩm "Lịch sử tiền tệ của Mỹ, 1867 - 1960"
(Monetary history of the United States, 1867 - 1960). Cuốn sách đã nói
rằng Đại suy thoái là kết quả của những quan điểm không đúng về chính
sách tiền tệ của Cục dự trữ quốc gia. Tác giả đã đệ trình những quan
điểm trên qua một bản thảo chưa được in ra, Cục dự trữ quốc gia phản ứng
lại trong nội bộ với những quan điểm phê phán dài dòng. Sự phân hoá
trong nội bộ còn thể hiện ở chỗ những thành viên của Cục điều tra liên
bang không công bố tiếp biên bản cuộc họp ra công chúng. Thêm nữa, họ
còn nhờ một người chống lại lịch sử (Elmus R. Wicker) viết một bài với
hy vọng sẽ bôi xấu lịch sử tiền tệ.
Mặc dù rất nhiều nhà kinh tế học không
đồng ý với ý kiến của Friedman về chính sách tiền tệ, nhưng ông vẫn có
ảnh hưởng nhất định trong nghề nghiệp. Một tiêu chuẩn để đánh giá tác
phẩm là ảnh hưởng của nó làm thay đổi trong cách đối xử của chính sách
tiền tệ được viết trong cuốn "Kinh tế học" - một cuốn sách bán chạy nhất
năm đó- của một người ủng hộ học thuyết của Keynes là Paul Samuelson.
Trong cuốn xuất bản năm 1948, Samuelson đã viết một cách tuỳ tiện rằng
"một vài nhà kinh tế học coi chính sách tiền tệ của Cục dự trữ quốc gia
như là một liều thuốc trị bách bệnh để điều chỉnh chu kỳ kinh doanh".
Nhưng năm 1967, Samuelson lại nói rằng chính sách tiền tệ có "tầm quan
trọng" đối với tiêu dùng. Và trong cuốn sách xuất bản năm 1985, đồng tác
giả với William Nordhaus ở đại học Yale lại viết "Tiền tệ là công cụ
quan trọng và hữu hiệu nhất của những người làm ra chính sách kinh tế vĩ
mô" và thêm rằng "đây là thành phần quan trọng nhất" trong việc hình
thành chính sách.
Trong năm 1963, ông cũng viết tác phẩm
"Lạm phát, nguyên nhân và hậu quả" (Inflation: Cause and Consequences).
Năm 1966, ông bắt đầu viết một mục về tình hình thời sự kinh tế cho tạp
chí Newsweek, luân phiên 3 tuần một lần cùng Paul Samuelson và Herry
Wallich. Tuy nhiên, những hoạt động này chỉ là việc phụ. Ông vẫn khăng
khăng từ chối một công việc lâu dài ở Washington . Vấn đề trên hết được
ông quan tâm vẫn là cống hiến cho khoa học.
Trong những năm sau đó, từ 1968 đến
1984, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm khác có tầm ảnh hưởng rất rộng
rãi đến nền kinh tế Mỹ và thế giới.
Theo SAGA.VN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét