Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Tư tưởng kinh tế học của Thomas Robert Malthus

Thomas Robert Malthus (1766 - 1834) có nhiều đóng góp vào các học thuyết kinh tế và các đóng góp vào lĩnh vực dân số, đặc biệt là vấn đề sự gia tăng dân số thông qua Thuyết dân số của ông.
Thomas Robert Malthus sinh ngày 13 tháng 02 năm 1766, tại Dorking, vùng đất ở phía Nam London, thủ đô nước Anh. Bố ông gọi ông là "Bob". Ông là con trai thứ 2 trong một gia đình có 8 người con mà 6 người trong số đó là con gái. Bố ông, Daniel Malthus, một người Gia-cô-banh nhiệt huyết và chơi với Voltaire, Rousseau và Hume; thực tế, khi Malthus còn nhỏ, Hume đã đưa Rousseau đến nhà Malthus, nơi được biết đến như là "Rookery" (Năm 1759, bố ông mua một lâu đài nhỏ sang trọng và gọi nó là Rookery).
Khi còn nhỏ, Robert được dạy dỗ riêng, một phần là do cha ông, một phần là do gia sư dạy kèm. Một trong số gia sư là Richard Graves (1715 - 1801), một nhà văn, năm 1772, ông đã viết tập "Tinh thần Đông Ki Sốt", một tập thơ trào phúng của những người theo hội Giáo lý. Một người gia sư nữa là Gilbert Wakefield (1756 - 1801). Wakefield là một người tôn sùng Rousseau khác, và, vào năm 1799, Wakefield "bị bỏ tù tại một nhà tù ở Dorchester vì đã ước muốn Pháp sẽ có một cuộc cách mạng để xâm lược và chinh phục nước Anh". Năm 1784, khi được 18 tuổi, Malthus vào học trường đại học Jesus tại Cambridge . Mặc dù bị nói lắp nhưng ông vẫn học tốt. Ông lấy bằng thạc sỹ năm 1791.
Hai năm sau khi tốt nghiệp đại học, Malthus đã "thụ giới" và trở thành cha phó trong một nhà thờ yên tĩnh ở Anh. Trở thành một giáo sĩ đối với một người trẻ tuổi thời đó là không bình thường, đặc biệt là với một người rất giàu, vì ông là một người con trai sinh sau người con trai đầu tiên, trở thành một giáo sĩ. Điều này đã đưa lại cho ông ta sự tôn kính, cái mà đã mở ra cho ông cơ hội trong chính trị. Năm 1796, ông nhận trách nhiệm tại giáo khu ở Albury, Surrey , sống cùng cha ông, Daniel và viết tác phẩm đầu tay. Ông luôn tranh cãi với cha ông về đề tài "một xã hội hoàn hảo" mà sau này được phát triển bởi William Godwin và Hầu tước vùng Condorcet, điều này làm cho Malthus quyết định viết ý tưởng của mình ra thành sách. Cuối cùng, đến năm 1798, Malthus tung ra cuốn "Bàn về quy luật dân số".
Cuốn sách đặt ra giả thuyết rằng sự tăng dân số luôn vượt quá sự tăng các phương tiện sinh hoạt. Malthus xuất phát từ những hiện tượng của giới thực vật, động vật, có khả năng sinh sôi nảy nở vô hạn và thiên nhiên lại tỏ ra "tiết ước" về chỗ ở, thức ăn, do đó, những đơn vị thừa ra phải chết đi, thế giới động vật, thực vật được giữ lại trong giới hạn của dự trữ thức ăn. Malthus đem những quy luật thuần tuý có tính chất sinh vật học của tự nhiên áp dụng vào xã hội loài người và chứng minh rằng cứ 25 năm, dân số lại tăng gấp đôi, còn tư liệu sinh hoạt không thể tăng nhanh hơn cấp số cộng. Ông phác hoạ ra bức tranh thảm hoạ của sự phát triển loài người và kết luận rằng cái khuynh hướng dân số muốn thường xuyên sinh sôi nảy nở, vượt quá tư liệu sinh hoạt là quy luật dân số, nó tác động mạnh mẽ ngay từ khi xã hội sinh ra. Theo Malthus, sự nghèo khổ, đói khát, chết dần chết mòn và những nỗi bất hạnh khác không phải do chế độ xã hội mà do số dân không thích ứng tư liệu sinh hoạt, do những quy luật tự nhiên và thói hư tật xấu của con người. Malthus nói: "Nhân dân phải tự buộc tội bản thân mình là chủ yếu về những sự đau khổ của mình". Malthus cũng cố chứng minh lý luận của mình bằng những tài liệu thực tế. Ông vin vào tình hình dân số gia tăng ở Mỹ để chứng minh dân số tăng theo cấp số nhân. Dựa vào những tài liệu ở nước Pháp để lấy quy luật màu mỡ đất đai giảm dần "làm cơ sở để chứng minh tư liệu sinh hoạt tăng theo cấp số cộng". Malthus cho rằng, những cái điều tiết thăng bằng dân số và tư liệu sinh hoạt là những lực lượng có tính chất phá hoại, là thói hư tật xấu, nạn đói kém bần cùng, dịch bệnh và chiến tranh. Trong lần tái bản của cuốn "Bàn về quy luật dân số", ông nhấn mạnh đến liệu pháp phòng ngừa và hạn chế sinh đẻ. Karl Marx đã lên án cuốn "Bàn về quy luật dân số" của Malthus, coi đó là cuốn sách phỉ báng loài người một cách vô liêm sỉ, tính chất thấp hèn của tư tưởng Malthus là nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị nói chung và những phần tử phản động trong giai cấp đó.
Năm 1799, ông đi ngao du ở Châu Âu, đến năm 1803, ông cho tái bản cuốn "Bàn về quy luật dân số". Năm 38 tuổi, ông lấy vợ. Đây là một sự kiện dẫn dắt ông, năm đó, 1804, rời khỏi nơi ẩn náu an toàn của "hội độc thân" tại Cambridge . Hôn nhân của ông hoá ra lại hạnh phúc; ông có 3 người con.
Năm 1805, ông được mời làm giáo sư dạy môn Lịch sử hiện đại và Kinh tế chính trị ở trường Haileybury, một trường cao đẳng dạy cho các viên chức nhà nước của một công ty Đông Ấn, do đó ông trở thành nhà kinh tế học người Anh đầu tiên. Cuộc đời ông cứ bình lặng trôi đi như một học giả, một giáo viên ở trường Haileybury. Malthus kiếm được tiền từ viết sách lần đầu tiên vào năm 1800, khi ông xuất bản một cuốn sách nhỏ (cuốn sách này đã được Keynes ca ngợi nhiều), giải thích thuyết nội sinh của tiền tệ. Ngược lại với thuyết về số lượng, Malthus tranh luận rằng việc tăng giá sẽ kéo theo việc tăng cung tiền. Khoảng năm 1810, ông tình cờ đọc được một số bài viết của một người môi giới chứng khoán, David Ricardo, về vấn đề tiền tệ. Ông lập tức viết thư cho Ricardo và hai người đã hợp nhau ngay lần gặp đầu tiên và tình bạn của họ kéo dài hàng chục năm. Họ tìm thấy các mặt đối lập của họ ở mọi vấn đề trong thực tiễn.
Trong thời gian này, ông đã viết và xuất bản được một vài cuốn sách khi ông chưa được nổi tiếng lắm. Chẳng hạn như cuốn "Nghiên cứu về hiệu quả của các đạo luật về ngũ cốc" năm 1814. Trong cuốn sách này, chính ông đã đưa đạo luật về ngũ cốc ra tranh cãi ở Quốc hội. Sau cuốn sách đầu tiên, những nghiên cứu, đưa ra những điều đúng và sai của luật mà những người bảo hộ nền công nghiệp nội địa đưa ra, Malthus ủng hộ tự do thương mại, tranh luận rằng trồng ngũ cốc ở Anh làm tăng chí phí trồng trọt. Ông lại đổi ý vào năm sau, năm 1815, trong cuốn "Cơ sở lý luận của chính sách hạn chế nhập khẩu ngũ cốc của nước ngoài", ông lại đi cùng hướng với những người bảo hộ đó. Luật nước ngoài, ông nói, thường ngăn cấm hoặc tăng thuế với việc xuất khẩu ngũ cốc trong thời kỳ đói kém, điều đó có nghĩa rằng việc cung cấp lương thực ở Anh bị ràng buộc vào chính sách nước ngoài. Để khuyến khích sản phẩm nội địa, Malthus nói, luật ngũ cốc đảm bảo tự cung tự cấp lương thực cho nước Anh. Cuốn sách "Những nguyên lý của Kinh tế chính trị", được viết ông viết vào năm 1920. Nó khác trường phái Ricardo ở một vài điểm. Chẳng hạn như Malthus giới thiệu ý tưởng về đường cầu theo hướng hiện đại, như quan niệm về mối quan hệ giữa giá cả và sản lượng. Ông chú ý nhiều đến việc bình ổn giá trong ngắn hạn, khẳng định lý luận về giá trị lao động.
Ông được mô tả trong tiểu sử như là "một người có thân hình cao, thanh lịch không kém hạnh kiểm của ông, đây đúng là một quý ông hoàn hảo"; "Một người nhã nhặn, tốt bụng". Mặc dù được mô tả như vậy, Malthus vẫn chịu "sự xuyên tạc, bóp méo và lộng hành của cả hai giới: cách mạng và bảo thủ".
Ông mất ngày 29 tháng 12 năm 1834, tại một địa điểm phía bên ngoài Bath.
Theo SAGA.VN

0 nhận xét:

Đăng nhận xét