Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013
Tìm một định nghĩa về quyền con người
20:10
Hoàng Phong Nhã
No comments
Cho đến nay, chúng ta phải thừa nhận rằng khó có thể tìm thấy một định nghĩa triết học “kinh điển” nào về quyền con người.
Ngay
cả những nhà tư tưởng lớn như Lôccơ,Rútxô… và sau này Mác, Engen, Lênin
cũng không đưa ra một định nghĩa nào về khái niệm này giống như cách
làm thông thường đối với các khái niệm triết học khác.
Chúng ta thường chỉ thấy các định nghĩa kiểu như “quyền cái người là quyền…“.
Chẳng hạn, Lốccơ nói : “quyền tự nhiên của con người là quyền sống,
quyền tự do, quyền tư hữu. Hiến pháp 1791 của Pháp viết : quyền con
người – đó là “ quyền tự do, sở hữu, được an toàn và chống lại áp bức“. Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ 1776 viết: quyền con người – đó là “các quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Cho đến nay, từ Đông sang Tây đã có rất
nhiều định nghĩa về quyền con người. Có những định nghĩa liệt kê quyền
con người bao gồm những quyền a, b, c… nào đó. Có những định nghĩa rất
khái quát, chẳng hạn, học giả Trung Quốc Đồng Vân Hồ quan niệm: “có thể nói gọn lại, nhân quyền là quyền tồn tại, phát triển một cách tự do, bình đắng” (1).
Nhìn lại quá khứ và hiện tại, các quan điểm về quyền con người thưởng đi theo những khuynh hướng sau:
* Khuynh hướng “quyền tự nhiên”:
Những tư tưởng về quyền “tự nhiên”,
“trời phú” cho con người ngay từ khi con người xuất hiện đã có từ thời
cổ đại. Ở Trung Quốc, Mặc Tử (479-381 trước Công nguyên) đã cho rằng
quyền bình đẳng tự nhiên của con người đó là “ý trời”. Theo đó, mỗi
người đều có quyền tham gia công việc nhả nước tuỳ theo đạo đức và tài
năng của họ, chứ không phải do dòng dõi quyết định. Cũng như vậy, mỗi
người đều có các quyền giống nhau và đều bị trừng phạt nếu phạm tội. Ở
Hy lạp cổ đại, các nhà triết học nguỵ biện như Ăngtiphôn, Ankiđan cũng
có những tư tưởng tương tự. Ở châu Âu, kể từ thời Phục hưng trở đi, tư
tưởng về quyền tự nhiên ngày càng trở nên phổ biến. Những đại biểu xuất
sắc là Lôccơ (Anh), Rútxô (Pháp), Xpinôda (Hà lan), I. Can tơ,
Pruphenđóocphơ (Đức), Jepphécxơn (Mỹ)… Những điều viết về quyền con
người trong Hiến pháp 1791 của Pháp, Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mỹ đều
theo quan điểm quyền tự nhiên. Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang
ý nghĩa phản kháng. Nó là tư tưởng của các lực lượng tiến bộ chống lại
trật tự xã hội bất công, bất bình đẳng (xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội
phong kiến sau này). Vì thế, không chỉ trong quá khứ, mà cả ngày nay
thuyết này vẫn có ý nghĩa nhất định.
Thuyết quyền tự nhiên có điểm tích cực
là đề cao con người với tư cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của
sự phát triển tự nhiên. Nhưng nhược điểm của nó là ở chỗ, nó che lấp
nguồn gốc xã hội của quyền con người và do đó, không thấy tính lịch sử,
tính giai cấp, sự phát triển trong những đòi hỏi về quyền con người.
* Khuynh hướng ‘thực định”:
Trái với khuynh hướng quyền tự nhiên, –
khuynh hướng không đề ý đến mặt pháp luật và nhà nước của quyền con
người, khuynh hướng thực định lại coi quyền con người là tất cả những gì
mà nhà nước thông qua pháp luật để quy định cho cá nhân. Chỉ những gì
pháp luật cho phép tự do làm hay không làm thì mới là quyền con người,
và chỉ được coi là quyền con người khi một hành vi hay một yêu cầu của
cá nhân là hợp pháp.
Khuynh hướng thực định có điểm hợp lý là
đã gắn quyền con người với pháp luật, với ý chí mà nhà nước (mà điều
này thì không thể bỏ qua được, vì quyển con người tất nhiên phải tồn tại
dưới hình thức pháp luật).
Nhưng, nó cũng có nhược điểm ở chỗ, chỉ
coi ý chí nhà nước là nguồn gốc của quyền con người , coi trọng tính hợp
pháp của quyền, song lại không để ý đến tính hợp lý của nó, – cái mà
nhờ đó, ngay cả những đòi hỏi, những nhu cầu hợp lý cho cuộc sống (nhưng
chưa được pháp luật ghi nhận) cũng phải được coi là quyền con người. Do
đó, không thể coi quyền con người chỉ là cái được phép làm, được hưởng
theo pháp luật, mà còn cả cái đáng được làm, đáng được hưởng (những cái
chưa được pháp luật khẳng định, nhưng sẽ phải khẳng định).
* Khuynh hướng “kinh tế”:
coi quyền con người là những quyền nảy
sinh từ nhu cầu của sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, khuynh hướng
này coi nguồn gốc của quyền con người là kinh tế. Không phải “trời phú”
tự nhiên, cũng không phải do nhà nước ban phát, mà chính đời sống kinh
tế của con người trao cho con người các quyền. Tác giả người Trung Quốc-
Từ Sùng Ôn viết: “nhân quyền, suy cho cùng bắt nguồn từ điều kiện kinh
tế-xã hội, phản ánh lợi ích cơ bản của một giai cấp nhất định” (2).
Khuynh hướng kinh tế có điểm hợp lý ở
chỗ, nó cho thấy nguồn gốc của quyền con người là bản thân đời sống xã
hội của con người. Nó tước bỏ cái vỏ “thần thánh”, “tự nhiên”, không
giải thích được của quyền con người, trả quyền con người về với đời sống
thực tại của con người. Theo khuynh hướng này, có thể đi đến quan điểm
duy vật lịch sử về vấn đề quyền con người. Nó cũng cho thấy tính giai
cấp trong những đòi hỏi về quyền con người.
Song, sẽ là không đầy đủ nếu coi quyền
con người chỉ có nguồn gốc kinh tế. Quyền con người còn bao hàm những
yêu cầu về danh dự, nhân phẩm, về đời sống tinh thần, tình cảm của con
người…, nghĩa là những điều nằm ngoài phạm trù kinh tế.
* Khuynh hướng “quan niệm”:
cho rằng quyền con người là tất cả những
gì mà con người cho là cần thiết và có giá trị đối với cuộc sống con
người, như thế quyền lợi, nhu cầu, lợi ích và những giá trị tinh thần
đều có thể trở thành quyền con người nếu như người ta quan niệm như vậy.
Đề cập tới mặt chủ quan, khía cạnh giá
trị của quyền con người là điều cần thiết. Bởi, khác với các quan hệ xã
hội hiện thực luôn hiện ra trước nhận thức con người như cái gì đó độc
lập, khách quan không tuỳ thuộc vào quan niệm có trước, quyền con người
trước khi trở thành hiện thực, thành nguyên tắc mà quan hệ giữa người
với người, giữa nhà nước và cá nhân phải tuân theo, phải trở thành quan
niệm của chính con người, nghĩa là được con người coi là cái thiết yếu,
cái cần phải như vậy – cần cho sự tồn tại, sự phát triển toàn diện của
con người không chỉ về đời sống vật chất và cả về đời sống tinh thần
nữa. Trong thực tế, quyền con người luôn gắn với quan niệm chủ quan, với
các giá tự như vậy, cho nên, một mặt, chúng ta phải thừa nhận những
quan niệm mang tính dân tộc về quyền con người, và mặt khác , nhiều khi
chúng ta phải đối mặt với tình trạng là đôi khi nhân danh quyền con
người, các cá nhân, các nhóm người, vì lợi ích riêng của mình đã đưa ra
những đòi hỏi vô lý, trái với lợi ích chung của cả cộng đồng người. Do
đó, vấn đề quyền con người thường trở thành vấn đề gây tranh cãi trên
trường quốc tế, nhất là khi nó được lồng vào một động cơ chính trị nào
đó.
Tóm lại, quyền con người là vấn đề phức
tạp đa nghĩa, chứa đựng những mặt đối lập, mâu thuẫn, nhưng không loại
trừ nhau. Đó là các mặt khách quan và chủ quan, tự nhiên và xã hội, kinh
tế và tinh thần, văn hoá và chính trị, đạo lý và luật pháp. Nó cũng là
sự kết hợp giữa các yếu tố quốc tế và dân tộc, giai cấp và nhân loại,
v.v… Khi xem xét quyền con người, chúng ta phải phân biệt rõ bản chất và
hiện tượng nội dung và hình thức, nguồn gốc và sự phát triển của nó.
Xuất phát từ tất cả những khía cạnh đó,
có thể nói rằng quyền con người chẳng qua là sự tự ý thức của con người
về những giá trị, những nhu cầu sống cơ bản, phù hợp với trình độ phát
triển mang tính thời đại của xã hội loài người.
Nói về quyền con người cần phải đề cập đến hai vấn đề cơ bản sau đây:
- Vấn đề tự do. Người
ta thường đồng nhất quyền con người với tự do cá nhân và ngược lại. Một
nhà lý luận hiện đại người Pháp, ông Morangie khẳng định: về một số mặt,
hai từ này là hai từ đồng nghĩa”. Nani Palkhivala, luật sư cao cấp,
người Ấn Độ cũng khẳng định: “Nhân quyền có thể tóm gọn trong một từ –
TỰ DO” (3).
Trên thực tế, khi người ta đấu tranh vì
quyền con người cũng tức là đấu tranh cho tự do của con người. Và ngược
lại khi đấu tranh cho tự do cũng chính là đấu tranh cho quyền con người.
Tất nhiên, cần phải hiểu tự do ở đây là tự do chân chính. Song, thế nào là tự do chân chính?
Để trả lời câu hỏi đó phải xem xét vấn đề một cách cụ thể, trong hoàn
cảnh cụ thể. Trước hết, đó là sự tự do trong xã hội, gắn với một xã hội
cụ thể mà người ta đang sống. Do đó, những hành vi chạy theo dục vọng và
nhu cầu bản năng, động vật, bất chấp nội quy tắc xã hội, không thể là
tự do chân chính. Sau nữa, chỉ là tự do khi tự do của người này không
xâm phạm đến tự do của người khác. Điều 4 trong Hiến pháp 1791 của Cộng
hoà Pháp có ghi : “Tự do là có thể làm mọi cái không hại cho người khác.
Cho nên, việc thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi người chỉ có giới
hạn là việc bảo đảm cho những thành viên khác của xã hội cũng được hưởng
chính những quyền ấy”.
Trong bất kỳ xã hội nào cũng vậy, muốn
có tự do chân chính cho mỗi cá nhân, nghĩa là bảo đảm quyền con người
cho mỗi con người, cần phải có hai tiền đề.
Thứ nhất, pháp luật, các quy tắc chung
của xã hội phải là sản phẩm, là sự thể hiện ý chí chung của xã hội. Chỉ
có như thế nó mới xứng đáng là “Kinh thánh của tự do của nhân dân”(4).
Thứ hai, mỗi cá nhân phải nhận thức được
pháp luật hay nói cách khác là nhận thức được những “tất yếu xã hội”
quy định trong luật pháp, và điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với
những quy định đó.
- Nhu cầu của cuộc sống cần được đáp ứng.
Tự do là một nhu cầu thiết yếu, đặc
trưng của con người. Song, con người không chỉ có nhu cầu duy nhất là tự
do, mà còn có các nhu cầu vật chất và tinh thần khác nữa.
Người ta thường nói thế hệ thứ nhất của
quyền con người là các quyền trước cá nhân, tức là các quyền dân sự,
chính trị. Điều này là đúng, bởi các câu khẩu hiệu về quyền con người
trong giai đoạn đầu gắn liền với thời đại cách mạng tư sản. Trong cuộc
cách mạng tư sản đó, giai cấp tư sản khi giương cao ngọn cờ quyền con
người trước giai cấp phong kiến đang thống trị, đã kế thừa những tư
tưởng tiến bộ về quyền con người của các thời đại trước và luôn đề cao
chính những đòi hỏi về tự do xuất phát từ địa vị kinh tế và chính trị
của nó. Đó là những quyền tự do cá nhân, đặc biệt là các quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội, biểu tình, quyền bầu
cử, ứng cử, v.v… Đó là những quyền hợp thành vũ khí sắc bén của giai cấp
tư sản trong cuộc đấu tranh quyền lực với giai cấp phong kiến.
Vì thế, ngày nay, khi nói đến quyền con
người, nhiều người đã chỉ nói đến các quyền này, coi chúng là tất cả.
Điều đó chưa thật đầy đủ. Cần phải thấy rằng giai cấp tư sản khi nêu lên
ngọn cờ quyền con người đã là chủ sở hữu lực lượng sản xuất của xã hội,
đã là người có sức mạnh kinh tế thực sự, đối với nó, các nhu cầu vật
chất và tinh thần của cuộc sống đã được thoả mãn, và do đó nó chỉ còn
thiếu quyền lực chính trị. Song, theo quan điểm duy vật về lịch sử, thì
trước khi làm chính trị, tôn giáo nghệ thuật, khoa học, người ta phải
ăn, mặc, ở…, nghĩa là phải tồn tại đã, phải được thoả mãn những nhu cầu
cơ bản của cuộc sống. Mà điều này lại chính là vấn đề quan tâm của đa số
thành viên trong xã hội. Bởi vậy, cần phải khẳng định rằng việc thoả
mãn các nhu cầu của cuộc sống không chỉ thuộc quyền chủ động của mỗi cá
nhân, nghĩa là thuộc phạm vi các quyền tự do cá nhân, mà còn thuộc phạm
vi nghĩa vụ của xã hội, của nhà nước đối với mỗi người. Do đó, có thể
nói rằng quyền con người chính là sự đáp ứng các nhu cầu của cuộc sông
con người. Với quan niệm này, các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá cũng là
những quyền con người. Chúng hợp thành nội dung không thể bỏ qua được
của quyền con người và có tầm quan trọng không kém các quyền dân sự,
chính trị. Tiếc rằng, trong cuộc đấu tranh tư tưởng về quyền con người
trên phạm vi quốc tế hiện nay, không phải ai cũng nhận thức rõ điều này.
Tóm lại, xuất phát từ góc độ triết học
và căn cứ vào những vấn đề cơ bản của quyền con người, có thể định
nghĩa: quyền con người là những đòi hỏi chính đáng về tự do và những nhu
cầu cuộc sống cơ bản cần được đáp ứng của con người.
______________________________
(1) Đồng Vân Hồ. Nguồn gốc
của khái niệm nhân quyền và diễn biến lịch sử của nó. Tạp chí “Thế giới
tri thức” (Trung Quốc), số 13-1992.
(2) Từ Sùng Ôn. Về phương pháp luận nghiên cứu vấn đề nhân quyền. Tạp chí “Nghiên cứu triết học (Trung Quốc), số 12-1992.
(3) Quyền con người trong thế giới hiện đại. Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.284.
(4) C.Mác, F. Engen. Toàn tập, t.I. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr.85
Theo TẠP CHÍ TRIẾT HỌC
0 nhận xét:
Đăng nhận xét