Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013
HỒI GIÁO TẠI TRUNG ĐÔNG
20:43
Hoàng Phong Nhã
No comments
Về phương diện địa
lý, Trung Đông còn được gọi là Cận Đông
(Near East/Middle East) bao gồm một giải đất
chạy dài từ phần Á Châu của Thổ Nhĩ Kỳ
đến các nước Bắc Phi và Ai Cập.
Về chủng tộc,
Trung Đông gồm có những giống dân Do Thái, Ả
Rập, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Kurds, Armenians và
Berbers.
Về tôn giáo, Hồi Giáo
chiếm 90% dân số Trung Đông, tức khoảng 300
triệu tín đồ hoặc 1/4
tổng số tín đồ Hồi Giáo trên toàn thế
giới. Số còn lại là tín đồ Do Thái Giáo và Ki Tô
Giáo.
Từ đầu thế
kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, nhiều
nước Trung Đông bị Anh và Pháp cai trị bóc
lột. Hoa Kỳ không có
một thuôc địa nào tại Trung Đông nhưng đã
có mặt tại Saudi Arabia từ đầu thế kỷ
20 để khai thác dầu lửa. Thiên nhiên đã đem
đến cho Saudi Arabia một món quà tặng khổng
lồ, đó là trữ lượng dầu mỏ lớn
bằng 1/4 trữ lượng dầu của toàn thế
giới.
Sự có mặt của Hoa
Kỳ tại Saudi Arabia không phải là quân đội mà là
các công ty khoan dầu trên căn bản hợp tác hai bên cùng
có lợi. Tuy nhiên, người Hồi Giáo Ả Rập
đã nhìn người Mỹ qua lăng kính khắt khe
của Hồi Giáo. Lối sống tự do phóng túng của
người Mỹ đã làm cho những người
Hồi Giáo bảo thủ khó chịu vì nó đi
ngược lại với lối sống khép kín của xã
hội đạo Hồi. Không cần phải làm
điều gì xâm hại đến xã hội Hồi Giáo, chỉ riêng sự có
mặt của những tư nhân Mỹ tại Saudi Arabia
cũng đủ là "Sự gieo rắc chất
độc văn hóa Tây Phương" (Westoxification) có tác
dụng phá hoại nền tảng luân lý xã hội và gia
đình Hồi Giáo.
Xét về phương
diện địa thế, Trung Đông được chia
ra làm 3 khu vực rõ rệt:
1. Khu vực Bắc Phi: Các
nước ở phía bắc của Châu Phi Da Đen (Black
Africa) gồm có Maroc, Tunisia, Algeria, Lybia và Ai Cập.
Đại đa số các dân tộc sống ở vùng này
đều là những người da trắng gốc
Địa Trung Hải.
2. Khu vực Cao Nguyên: Các
nước ở vùng này được gọi chung là
"Các nước ở vùng cao" (Levantine Countries)
gồm có Syria, Palestine, Israel, Jordan và Iraq.
3. Các nước Vùng
Vịnh (Gulf Countries) là các nước ở sát Vịnh Ba
Tư, gồm có Ba Tư (Iran) Kuweit, Quatar, Saudi Arabia, Yemen,
Oman, United Arab Emerald và Baharain.
Về phương diện
văn minh và văn hóa, toàn vùng Trung Đông đã đạt
tới đỉnh cao của sự phát triển từ
thế kỷ 8 đến thế kỷ 13. Lịch sử
thế giới đã gọi những thế kỷ này là
Thời Đại Hoàng Kim (The Golden Age) của những
người Hồi Giáo Trung Đông. Vào thời đó,
những người Ả Rập rất ham chuộng
nền văn hóa Hy Lạp và chú trọng đến
việc nghiên cứu toán học, thiên văn và khoa học
thực nghiệm. Họ đã thực hành lời dạy
của Muhammad trong kinh Koran:
"Ai
bỏ nhà đi tìm sự hiểu biết là đi đúng
con đường của Chúa. Lạy Chúa! Xin ngài hãy ban thêm
sự hiểu biết cho con".
(He Who leaves the home in search of Knowledge is walking
in the Way of God. Oh my Lord! increase me knowledge - Koran 20: 114)
Đầu thế kỷ 8,
Baghdad thủ đô Iraq xây dựng trường Đại
Học đầu tiên trên thế giới. Họ gọi là
"Căn nhà của sự khôn ngoan" (House of Wisdom).
Baghdad trở thành một trung tâm văn hóa lớn nhất
thế giới.
Năm 800, các tác phẩm
của Aristote và Plato đều đã được
dịch sang tiếng Arabic và được phổ biến
trong toàn vùng Trung Đông.
Đến giữa thế
kỷ 9, các sách y khoa của Hy Lạp được
dịch sang tiếng Arabic. Cuối thế kỷ 9, rất
nhiều sách dịch về khoa thiên văn và địa lý
được phổ biến tại Trung Đông.
Do các kiến thức
học hỏi được từ Hy Lạp,
người Ả Rập Hồi Giáo đã phát minh ra máy
Astrolable dùng để đo độ cao của các thiên
thể. Họ biến chế máy Astrolable thành một
thứ địa bàn để các tín đồ Hồi Giáo
dù ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng
tìm được hướng Mecca để quay mặt
về thánh địa khi cầu nguyện. Tại thánh
địa Mecca có đền thờ Káaba, tiếng Ả
Rập có nghĩa là "Nhà Của Chúa" (House of God).
Người Ả Rập tin rằng ngôi nhà của Chúa
đã được xây dựng lần đầu tiên
bởi tổ phụ Abraham.
Năm 1166, nhà địa
dư học Ả Rập Al-Idrisi là người
đầu tiên trên thế giới vẽ bản đồ
trái đất hình cầu rất chính xác. Cũng trong
khoảng thời gian này, người Ả Rập chế
ra đồng hồ quả lắc để coi giờ.
Trường Đại
Học lâu đời nhất và hoạt động liên
tục trên 10 thế kỷ là Đại Học Al-Azhar
ở thủ đô Cairo của Ai Cập (thành lập năm
970).
Một ngôi sao sáng ngời
trong thế giới toán học là nhà toán học Hồi Giáo
Ba Tư Muhammad Ibu Musa. Ông đã phát minh ra một môn toán
học nhằm mục đích "Phục Hồi Những
Phần Đã Bị Tách Rời" (to restore the broken parts),
tiếng Ả Rập gọi là Al-Jabr. Danh từ này
được người Hy Lạp phiên âm thành Algebra
tức là môn Đại-Số-Học. Môn toán học này
được Musa phát minh năm 850.
Đầu
thế kỷ 11, một ngôi sao lớn về quang học
xuất hiện tại Ai Cập. Đó là nhà khoa học
Hồi Giáo Alhazen. Ông chuyên tâm nghiên cứu các sách Hy Lạp
về khúc xạ và phản chiếu ánh sáng. Ông là
người đầu tiên trên thế giới giải thích
hiện tượng cầu vồng và quang phổ. Thế
giới khoa học ngày nay tôn vinh ông là ông tổ sáng lập
ngành quang học hiện đại.
Nhờ có những sách y khoa
dịch từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Arabic trong hai
thế kỷ 8 và 9, đến thế kỷ 10,
người Hồi Giáo Ả Rập đã phát minh và
đóng góp cho nhân loại rất nhiều tiến bộ
về y khoa trên nhiều lãnh vực:
1. Sử dụng Anesthasia
trong giải phẩu.
2. Sát trùng vết
thương.
3. Phát giác việc lây
bệnh do sự tiếp cận với người có
bệnh và qua đường hô hấp.
4. Tách rời dược
khoa và y khoa thành hai ngành riêng
5. Do sa mạc thường
có bão cát gây đau mắt nên người Ả Rập
lập ra ngành nhãn khoa riêng.
6. Năm 925, nhà khoa học
Abu Razi cho in bộ sách "Bách Khoa Tự Điển Y
Khoa" đầu tiên trên thế giới. Mãi tới
hơn 5 thế kỷ sau tức vào năm 1486, bộ sách
này mới được dịch sang tiếng La Tinh
để phổ biến tại Âu Châu.
Về văn chương,
bộ chuyện vĩ đại được in thành
nhiều chục tập (volumes) nổi tiếng khắp
thế giới và đã được dịch ra đủ
các thứ ngôn ngữ, đó là chuyện "Ngàn Lẻ
Một Đêm". Đây là một tổng hợp
đủ các chuyện thần thoại thời Babylon
cổ xưa, các chuyện dân gian Ả Rập (Arab Legends)
và pha trộn với những chuyện thần tiên của
Ấn Độ (Indian fairy tales).
Về kiến trúc,
người Ả Rập Hồi Giáo là những
người phát minh ra cách xây những chiếc vòm nhọn
đầu (pointed arch) từ thế kỷ 8 để
kiến tạo những chiếc cầu bắc qua sông.
Người Âu Châu sau này bắt chước để
lập ra lối kiến trúc Gothic.
Thái độ ham chuộng
học hỏi và tôn trọng khoa học của
người Hồi Giáo rất đáng được
mọi người khâm phục. Thái độ đó hoàn
toàn trái ngược với những tội ác tày trời
của giáo hội Công Giáo nhằm mục đích tiêu
diệt hoàn toàn nền văn minh Hy Lạp.
Công Giáo La Mã do hoàng
đế Constantine lập nên năm 325. Từ đó, giáo
hội Công Giáo và đế quốc La Mã ra sức thâu góp các
sách của nền văn minh Hy Lạp để thiêu
hủy. Toàn bộ các sách của giáo phái Ki Tô lớn
nhất thời đó là Gnostic bị đốt, 27.000
cuộn giấy (paprus rolls) có liên quan đến những
sách Phúc Âm thật đều bị hủy diệt.
Đến cuối thế kỷ 5 hầu như tất
cả các sách khoa học, triết học của Hy Lạp
đều không còn trên lãnh thổ của đế quốc
La Mã và giáo hội Công Giáo. Tội ác của Công Giáo La Mã
đã làm cho nền văn minh của nhân loại thụt
lùi 15 thế kỷ.
Người có công sưu
tầm và duy trì những cuốn sách quí giá của nền
văn minh Hy Lạp để lưu lại cho thế
giới chúng ta ngày nay chính là một ông vua Hồi Giáo Ả
Rập: Caliph Al-Mamun. Ông lên ngôi tại Baghdad năm 813.
Việc đầu tiên là thành lập "Nhà của sự
khôn ngoan" (House of Widom). Ông cho người đi khắp
nơi tìm kiếm các sách cổ của Hy Lạp mang về
Baghdad rồi thuê người Hy Lạp biết tiếng
Ả Rập dịch tất cả các sách đó. Trong suốt
20 năm cai trị, vua Al. Mamun đã dồn hết tâm
huyết vào công trình văn hóa độc đáo này. Các nhà trí thức Hồi Giáo
ở Trung Đông thời đó nhiệt liệt hoan nghênh
sáng kiến của nhà vua và họ đã tiếp tay
để biến các thủ đô Hồi Giáo thành những
trung tâm văn hóa nổi tiếng như: Alexandria (Ai
Cập) Antioch Edessa (Thổ Nhĩ Kỳ) Condova (Tây Ban Nha,
lúc này là thuộc địa của đế quốc
Hồi Giáo).
Phong trào ham chuộng
kiến thức khoa học của toàn vùng Trung Đông
Hồi Giáo kéo dài trong 5 thế kỷ, từ thế kỷ
8 đến thế kỷ 12, đã biến vùng Trung Đông
thành một khu vực văn minh nhất thế giới.
Trong khi đó, do chủ trương tiêu diệt mọi
nguồn văn hóa đi ngược lại giáo lý Ki Tô Giáo,
giáo hội Công Giáo La Mã đã đưa Âu Châu đi vào
thời đại bóng tối (The Dark Age) từ thế
kỷ 5 đến thế kỷ 11. Từ thế kỷ 14
đến thế kỷ 16, giới trí thức Âu Châu
bừng tỉnh và tìm cách làm sống dậy những giá
trị của nền văn minh Hy Lạp trong mọi ngành
khoa học, triết học, kiến trúc và nghệ
thuật... đã bị giáo hội Công Giáo tiêu diệt
trước đây.
Người ta gọi giai
đoạn lịch sử này là Thời Phục Hưng (The
Renaissance). Danh từ này bắt nguồn từ tiếng Pháp
có nghĩa là "sự tái sinh" của một nền
văn hóa đã bị bức tử.
Trong thế kỷ 15, trí
thức Âu Châu mới khám phá
ra là kho tàng sách quí của văn hóa Hy Lạp đã
được tồn trữ trong các trung tâm văn hóa Hồi
Giáo tại Trung Đông. Lúc đó họ mới vỡ
lẽ ra rằng: những người Hồi Giáo Ả
Rập đã làm những công việc cần thiết
để phục hồi nền văn hóa Hy Lạp
trước họ tới 7 thế kỷ!
Nhà
danh họa Raphael của Ý thuộc thế kỷ 15 đã
phải thốt lên những lời biết ơn
đối với các học giả Hồi Giáo Ả
Rập vì tiền nhân của ông là những người La
Mã cuồng tín và thiển cận đã hủy diệt
cả một nền văn minh của Cổ Hy Lạp
để gây ra một tổn thất vô cùng lớn lao cho
nhân loại. Nhưng may mắn thay, vẫn có nhiều tác
phẩm quí giá của Hy Lạp còn sót lại
được bảo tồn do công lao của các học
giả Ả Rập. Ông nói: "Các học giả Ả
Rập đã cứu những tác phẩm đó cho chúng
ta" (Arab scholars saved those works for us) - (A Muslim Primer, by Ira G.
Zepp. University of Kansaa Press 1992, Page 139-165).
Như trên đã trình bày,
Trung Đông Hồi Giáo sống trong thời Hoàng Kim của
nền văn minh (The Golden Ages) từ cuối thế
kỷ 8 đến đầu thế kỷ 11. Rồi
từ đầu thế kỷ 11, những đoàn Thập
Tự Quân của Công Giáo La Mã tràn sang tàn phá Trung Đông,
với 7 cuộc thánh chiến đẫm máu, khiến cho
toàn vùng lâm vào tình trạng suy thoái mọi mặt.
Cuộc Thập Tự Chinh
thứ nhất (1096-1099) tiêu diệt 30.000 người
Ả Rập Hồi Giáo và lập nên một vương
quốc rộng lớn bao gồm các nước Palestine,
Liban, Syria và phía nam Thổ Nhĩ Kỳ. Tất cả
được đặt dưới quyền cai trị
của một ông vua do Vatican bổ nhiệm. Vương
quốc Hồi Giáo bị người Công Giáo cai trị
trong 88 năm. Sáu cuộc Thập Tự Chinh kế tiếp
diễn ra trong gần 2 thế kỷ tàn phá hầu hết
các nước Trung Đông với 3 triệu sinh mạng
bị sát hại (1096-1291).
Tiếp theo đại
họa Thập Tự Quân là đại họa Mông Cổ.
Từ thế kỷ 14, vùng Trung Đông bị quân Mông
Cổ tràn tới tàn phá các thành phố và hủy diệt con
người. Baghdad, Damacus... chỉ còn là những
đống gạch vụn với những xác chết la
liệt trên các nẻo đường.
Cuối thế kỷ 15,
quân Mông Cổ lại tràn tới Trung Đông một lần
nữa. Điều mỉa mai là ông vua Mông Cổ lại là
một tín đồ Hồi Giáo thuôc giáo phái Sunni. Ông tới
để tiêu diệt những người thuộc giáo
phái Shiite tại Iran và Iraq. Vì lòng hận thù hẹp hòi
giữa các chi phái Hồi Giáo với nhau, quân Mông Cổ Sunni
đã giết những người Shiite vô số kể.
Từ năm 1467 đến 1520,
đế quốc Hồi Giáo Ottoman của Thổ Nhĩ
Kỳ xua quân đánh phá Syria, Ai Cập, bán đảo Ả
Rập và các nước Bắc Phi để mở rộng
thế lực của giáo phái Sunni, rất nhiều tín
đồ Shiite bị giết. Đế quốc Ottoman
khống chế Trung Đông từ đó đến
đầu thế kỷ 19. Từ thế kỷ 19
đến đầu thế kỷ 20, nhiều
nước Hồi Giáo Trung Đông lần lượt
rơi vào vòng nô lệ của thực dân Anh và Pháp. Tuyệt đại đa
số dân chúng Trung Đông mù chữ và toàn xã hội Ả
Rập suy thoái về mọi mặt.
Qua bao nhiêu thế kỷ, Ai Cập
vẫn được coi là "linh hồn trí thức
của thế giới Ả Rập" với dân số
60 triệu người mà mỗi năm chỉ xuất
bản vỏn vẹn 375 cuốn sách, bởi vì đại
đa số dân mù chữ nên không có ai tiêu thụ món hàng
văn hóa này. Trong khi đó Israel chỉ có 6 triệu dân
nhưng hầu như cả nước ham đọc sách
nên mỗi năm Israel xuất bản ít nhất 4000
đầu sách đề cập đến đủ
mọi vấn đề của kiến thức. (Theo
Newsweek 15-10-2001, P.26)
Phải
chăng một xã hội thất bại đã phát sinh
chủ nghĩa khủng bố?
Dưới cái nhìn của
Tây Phương, thế giới Hồi Giáo Ả Rập
ở Trung Đông là một xã hội thất bại mà
nguyên nhân chính là sự cuồng tín tôn giáo. Trong khi đó,
những người Ả Rập Hồi Giáo lại qui
hết mọi nguyên nhân thất bại của họ cho Tây
Phương. Do đó họ nung nấu lòng thù hận và
tổ chức khủng bố để rửa hận.
Tất cả mọi hành vi sát nhân tàn bạo của họ,
kể cả việc sát hại những người vô
tội trong những cuộc khủng bố, đều
được biện minh bằng những lời Chúa
trong Thiên Kinh Koran. Họ càng căm thù bao nhiêu lại càng
trở thành cuồng tín trong niềm tin tôn giáo bấy nhiêu.
Cuối cùng, xã hội
Ả Rập Hồi Giáo Trung Đông đi vào một cái vòng
luẩn quẩn không có lối thoát. Sự cuồng tín
của giới lãnh đạo và quần chúng làm cho xã
hội Ả Rập càng ngày càng khép kín đối với
thế giới bên ngoài, đời sống kinh tế suy
sụp trở thành lạc hậu. Những người
cuồng tín qui trách nhiệm cho Tây Phương là thủ
phạm đã gây ra tất cả những thất bại
và suy thoái của thế giới Hồi Giáo để
họ có lý do gia tăng các hoạt động khủng
bố. Nhưng càng gia tăng khủng bố bao nhiêu họ
càng bị mất thiện cảm và sự giúp đỡ
của thế giới bấy nhiêu. Các xã hội Hồi Giáo
cực đoan đều trở thành những khu vực
bị cô lập và là đối tượng của một
cuộc chiến tranh hủy diệt.
Ngày nay, trên khắp thế
giới hầu như ở đâu cũng có những
hoạt động khủng bố, nhưng chỉ tại
Trung Đông người ta mới thấy rõ cái sắc thái
cuồng tín hung bạo ghê gớm của người
Hồi Giáo Ả Rập. Chỉ ở Trung Đông mới
là nơi tập trung đông đảo nhất của
những Mullahs (học sĩ Hồi Giáo) hung dữ. Trung
Đông là nơi có nhiều nhất những vụ biểu
tình bạo động, đốt cờ, đốt xe,
đốt hình nộm và đặc biệt là những
vụ ôm bom tự sát (suicide - bombings).
Ngoài ra, từ 1980
đến nay, hầu như các vụ đặt bom
khủng bố tại các nơi trên thế giới cũng
đều có nguồn gốc tại Trung Đông. Tất cả
đều do phe Hồi Giáo cực đoan tại Trung
Đông (Islamic Fundamentalists) chủ mưu . Do đó, mục
tiêu của cuộc chiến tranh tiêu diệt khủng
bố mà phe Tây Phương đang theo đuổi không
phải là Afganistan hay Philippines... mà chính là toàn vùng Trung
Đông Hồi Giáo!
Nguyên nhân chính đưa đến sự bế
tắc của các quốc gia Hồi Giáo Trung Đông là không
có sự phân cách giữa tôn giáo với chính quyền. Thông
thường trong những quốc gia sùng đạo, các
Mullahs (học sĩ Hồi Giáo) là những nhà lãnh
đạo chính trị. Họ nhân danh tôn giáo để hô
hào thánh chiến, thực chất là đề cao những
hành vi chém giết thô bạo.
Trong các nước Hồi
Giáo sùng tín, người ta không thể phân biệt
được ranh giới giáo quyền với chính
quyền, cũng không thể phân biệt được đâu
là giáo luật và đâu là luật pháp quốc gia.
Trong thế kỷ 19,
nhiều trí thức Hồi Giáo đã nhìn thấy
điều đó và họ đã viết sách để lên
tiếng đòi cải cách xã hội Hồi Giáo. Một
trong những người đó là triết gia Ai Cập Fouad Zakariya. Theo ông, điều
tiên quyết để cứu các nước Hồi Giáo
Ả Rập là phải "tách rời đền thờ
ra khỏi quốc gia" (Seperation of Mosque from State).
Người ta gọi chủ thuyết này là Chủ
Nghĩa Thế Tục Hóa Xã Hội (Secularism). Zakariya ca
ngợi Phong Trào Khai Sáng (Enlightenment) ở Âu Châu thế
kỷ 18 đã giải cứu xã hội thoát ra khỏi
sự kìm kẹp của giáo hội La Mã bằng chủ
thuyết thế tục hóa để đi tới sự
phân lập rõ rệt giữa chính quyền và giáo hội.
Chính nhờ đó Âu Châu đã trở nên hùng mạnh và
đó là chìa khóa đưa đến một xã hội
tiến bộ dân chủ. Mọi chủ trương
bảo thủ đều có hậu quả biến Hồi
Giáo thành công cụ tạo lập nên những chế
độ của các bạo chúa.
Zakariya dám đưa ra
những nhận định táo bạo: Thế giới
Ả Rập không thể nào xây d ựng được
một xã hội văn minh tiến bộ nếu cứ
khư khư giữ lấy những tư tưởng
lạc hậu của thời kỳ bộ lạc ở sa
mạc vào thế kỷ thứ 7 (thời của giáo
chủ Muhammad lập đạo)!
Ông cũng nêu rõ: dù bất
cứ là tôn giáo nào thì luôn luôn tôn giáo cũng chỉ là
một sự sùng bái có tính riêng tư của các cá nhân mà
thôi. Không ai có quyền đem cái sự sùng bái riêng tư
đó áp đặt lên cả quốc gia để buộc
mọi người cũng phải sùng bái như họ.
Cái điều vô lý đó
hiện đang xảy ra phổ biến tại các
nước Ả Rập. Ông kêu gọi mọi người
đứng lên đập tan các chế độ Hồi
Giáo bảo thủ để giải phóng xã hội Hồi
Giáo lạc hậu.
Những lời kêu gọi
của Fouad Zakariya đã được nhiều chính
trị gia hưởng ứng tại Thổ Nhĩ Kỳ,
Ai Cập và Iran:
1. MUSTAPHA
KEMAL - Ông sinh năm 1881
tại Thổ Nhĩ Kỳ, làm tổng thống
đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ từ 1923
đến 1938. Ông là người đã thực hiện
thành công cuộc cách mạng thế tục hóa xã hội
Hồi Giáo, chấm dứt đế quốc Ottoman sau
gần 5 thế kỷ thống trị. Hoàng đế và
toàn bộ triều đình Ottoman đều bị bắt
và bị đưa đi đày chung thân. Toàn bộ luật
pháp của Hồi Giáo bị xé bỏ. Các trung tâm Hồi
Giáo bị đóng cửa. Âm Lịch Hồi Giáo bị thay
thế bằng Dương Lịch để hòa
đồng cùng thế giới. Năm 1930, quốc hội
Thổ Nhĩ Kỳ chính thức chấm dứt chế
độ đa thê, hủy bỏ mọi hình thức áp
chế phụ nữ như tục lệ đeo mạng
che mặt hoặc áo choàng phủ kín toàn thân. Nam giới
bị cấm đội mũ Fez theo kiểu Ả Rập
Hồi Giáo. Chữ viết theo kiểu Arabic bị thay
thế bằng mẫu tự la tinh. Hiện nay không còn ai
biết đọc kinh Hồi Giáo viết theo chữ Arabic
nữa. Nữ tổng thống đầu tiên của
Thổ Nhĩ Kỳ là bà Tanser Ciller trong nhiệm kỳ
1993-1996. Trong thực tế, Thổ Nhĩ Kỳ không còn
được coi là một quốc gia Hồi Giáo nữa.
Cuộc cách mạng thành công của Mustapha đã giải
thoát Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi thế giới đóng
kín và thất bại của chủ nghĩa bảo thủ
cực đoan Hồi Giáo. Thổ Nhĩ Kỳ hiện là
một nước Cộng Hòa tự do dân chủ thật
sự và đang phát triển mọi mặt.
2. JASMAL
NASSER - Ông sinh năm 1918,
làm thủ tướng Ai Cập từ 1954 đến 1956.
Sau đó, Ai Cập biến thành một nước Cộng
Hòa với danh xưng là "Cộng Hòa Ả Rập
Thống Nhất". Nasser được bầu làm
tổng thống từ 1958 đến 1970. Ông chủ
trương thực hiện chủ nghĩa thế tục
hóa (Secularism) bằng cách loại trừ mọi ảnh
hưởng của Hồi Giáo ra khỏi chính trị.
Tuy nhiên, từ đầu
thế kỷ 20, tại Ai cập đã có một phong trào
Hồi Giáo cực đoan mệnh danh là "Huynh Đệ
Hồi Giáo" (Muslim Brotherhood). Phong trào này do Sayid Quitb
(1906-1966) sáng lập, chủ trương dùng các thủ
đoạn khủng bố để ngăn cản và vô
hiệu hóa mọi nỗ lực cải cách xã hội
Hồi Giáo. Phong trào xác định các lãnh tụ chính
trị theo đuổi chủ trương thế tục
hóa là những kẻ tuyên chiến với đức tin
Hồi Giáo và vì vậy họ phải chết.
Năm 1956, Nasser ra lệnh
bố ráp bắt hết các đảng viên Muslim Brotherhood.
Nhiều đảng viên bị xử tử hình, số còn
lại đều lãnh án tù. Tuy nhiên, Nasser đã bị dư
đảng của đảng này ám sát chết năm 1990.
3. HOÀNG
ĐẾ BA TƯ REZA PAHLAVI - Ông là một nhân vật
đặc biệt vì sinh ra và lớn lên trong gia đình sùng
đạo nhưng đã trở thành một người
rất căm ghét đạo Hồi và muốn hủy
diệt đạo này. Ông sinh năm 1878, lên ngôi vua năm
1921, cai trị Ba Tư trong 20 năm. Ngay khi vừa lên ngôi,
vua Pahlavi đã ra lệnh giải tán Ulama tức
"Hội Đồng Các Học Sĩ Hồi Giáo",
một cơ quan cao nhất về tôn giáo tại Ba Tư.
Luật Hồi Giáo Sharia bị thay thế bằng luật
pháp quốc gia do quốc hội biểu quyết. Các ngày
lễ tôn giáo đều bị hủy bỏ. Việc
tổ chức đi hành hương thánh địa Mecca
bị cấm chỉ. Các phụ nữ không được
đeo mạng. Cảnh sát
được lệnh phải tháo gỡ mạng của
phụ nữ trên đường phố...
Năm 1935, những
người Hồi Giáo cuồng tín đã xúi giục
phụ nữ biểu tình chống chủ trương
thế tục hóa của nhà vua. Cảnh sát được lệnh
dùng vũ lực giải tán đám biểu tình. Sau nhiều
lần cảnh cáo nhưng đám phụ nữ biểu tình
vẫn không chịu giải tán, cảnh sát đã nổ súng
bắn chết hàng trăm phụ nữ. Trong dịp này,
vị giáo chủ cao cấp nhất của Hồi Giáo Ba
Tư là Aytollah Muddaris cũng bị ám sát chết.
Năm 1941, vua Pahlavi
truyền ngôi cho con là Muhammad
Reza Pahlavi. Ngay khi tân vương lên ngôi, các học viên
thuộc các trường Hồi Giáo (tương tự như
các học viên Taliban ở Afganistan) đã biểu tình
chống nhà vua. Cảnh sát được lệnh xả
súng bắn chết hàng trăm học viên Hồi Giáo trên
đường phố. Sau đó, tất cả các
trường đào tạo các học sĩ Hồi Giáo trên
toàn quốc bị đóng cửa và tất cả các Ulama
(the learned men in Islam) đều bị bắt, đa số
bị giết, số còn lại đều bị tù. Tân
vương Pahlavi cho thành lập một tổ chức
mật vụ chuyên việc truy lùng những kẻ muốn
khôi phục đạo Hồi tại Ba Tư. Lính mật
vụ có quyền tiền trảm hậu tấu, không
cần một án lệnh nào của tòa án. Các biện pháp
trị an của vua Pahlavi quá mạnh tay nên đã gây quá
nhiều bất mãn trong quần chúng.
Năm 1979, học sĩ
Khomeini lưu vong tại Pháp lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa lật đổ vua Pahlavi thành công. Nhà vua phải
bỏ nước chạy trốn ra nước ngoài.
Khomeini trở thành tổng thống của một
nước Cộng Hòa Hồi Giáo (Islamic Republic). Khomeini là
một học sĩ của giáo phái Shiite rất cực
đoan và độc tài. Chẳng bao lâu sau, Khomeini mất
hết mọi nhiệt tình ủng hộ của quần
chúng lúc ban đầu. Dân Iran chợt nhận ra là sống
dưới chế độ quân chủ của dòng Pahlavi
còn được tự do hạnh phúc hơn nhiều.
Dưới chế
độ "Cộng Hòa Hồi Giáo", toàn dân bị
dồn vào thế bị kìm kẹp bởi các thứ
luật lệ của tôn giáo vừa hủ lậu vừa
dã man: Bị cáo về một tội trộm thường
cũng bị chặt chân, chặt tay. Mọi sinh hoạt
ca nhạc hay chiếu phim đều bị cấm. Phụ
nữ bị buộc phải mặc áo choàng đen phủ
kín từ đầu đến mắt cá chân... Điều
nguy hiểm là Khomeini gây hận thù với giáo phái đa
số Sunni và đưa cả nước vào một
cuộc chiến tranh vô nghĩa. Khomeini chết năm 1989.
Như chúng ta đã thấy, chủ
nghĩa Thế-Tục-Hóa Xã Hội (Secularism) là một
phương thức chính trị đã đem lại sự
thịnh vượng cho cả Âu Châu lẫn Hoa Kỳ.
Đó cũng là cái chìa khóa bảo đảm nền tự
do dân chủ cho toàn dân. Mustapha Kemal thực hiện thành công
cuộc cách mạng thế tục hóa xã hội Thổ
Nhĩ Kỳ đã biến nước này thành một
nước tự do dân chủ và văn minh nhất trong
thế giới Hồi Giáo. Trong khi đó, cuộc cách
mạng của Nasser tại Ai Cập và những nỗ
lực thế tục hóa của hai cha con vua Pahlavi tại
Iran đều đã bị thất bại.
Toàn khối Ả Rập
Hồi Giáo với 300 triệu người tiếp tục
sống trong vũng lầy lạc hậu và nghèo đói.
Tình trạng bất ổn tại Trung Đông có thể gây
tổn hại cho nền hòa bình thế giới. Vì thế,
nhiều chuyên gia của Liên Hiệp Quốc đã kêu
gọi cộng đồng thế giới giúp cho toàn
khối Ả Rập Hồi Giáo một số chương
trình như sau để cải thiện đời
sống quần chúng:
1. Đô thị hóa xã
hội Ả Rập để xóa bỏ hẳn lối
sống lang thang trong sa mạc đã có từ nhiều ngàn
năm qua.
2.
Đầu tư đại qui mô vào công cuộc giáo
dục giới trẻ nhằm đào tạo những
thế hệ Ả Rập mới có khả năng
đưa toàn xã hội Ả Rập hòa nhập vào thời
đại mới trong cộng đồng nhân loại.
Chỉ có sự hiểu
biết của những thế hệ trẻ mới có
khả năng mở rộng tầm nhìn của quần
chúng để cứu họ thoát khỏi sự mê hoặc
của tôn giáo và sự lừa mị của giới lãnh
đạo độc tài.
Theo thống kê năm 2000,
các nước Hồi Giáo Ả Rập ở Trung Đông có
một tỷ lệ những người trẻ
(dưới 15 tuổi) rất cao:
-
Saudi Arabia: 43%
-
Iraq: 42%
-
Palestine: 45%
Nếu những lớp
người trẻ đó hấp thụ được
một nền giáo dục khai phóng, họ sẽ làm thay
đổi nếp sống và nếp nghĩ của
người Ả Rập.
Chủ nghĩa tôn sùng
bạo lực và chủ nghĩa khủng bố phát sinh
chủ yếu do tinh thần cuồng tín tôn giáo. Giáo dục
là phương tiện hữu hiệu nhất diệt
trừ nạn cuồng tín tôn giáo và do đó sẽ diệt
trừ tận gốc nạn khủng bố như hiện
nay đang diễn ra khắp nơi trên thế giới.
Chỉ có sự giáo dục mới giải thoát tập
thể tín đồ thoát ra khỏi vùng bóng tối tâm linh.
Các nước Hồi Giáo
bảo thủ hiện nay đều là những xã hội
khép kín, trong đó giới học sĩ ulamas hoàn toàn thao túng
đời sống tinh thần của các tín đồ. Cái
gọi là sự học vấn của các trường tôn
giáo hoặc sự uyên bác của các học sĩ Ulamas
thực chất chỉ là một môn học "tán
hươu tán vượn" về những điều
huyền hoặc của thần học (theology). Thần
học của Hồi Giáo cũng tương tự như
thần học của Do Thái Giáo hoặc Ki Tô Giáo. Thần
học là một môn học đầy tính chất hoang
tưởng viển vông nhảm nhí. Càng đi sâu vào
thần học, con người càng lún sâu vào "ốc
đảo tâm linh" xa rời thực tế và
đầy đặc những định kiến sai
lầm. Những mảnh bằng "Tiến Sĩ
Thần Học" là những giấy chứng chỉ công
nhận sự ngu xuẩn của kẻ được
cấp. Chỉ đến khi có cơ duyên tỉnh ngộ,
kẻ đó mới cảm thấy xấu hổ là đã
được cấp những mảnh bằng về
thần học mà thôi.
Thế giới Hồi Giáo
Ả Rập ngày nay vì tự ti mặc cảm đã co
cụm lại thành những xã hội khép kín. Giới lãnh
đạo không muốn dân chúng biết sự thật
của thế giới bên ngoài cho nên họ rất căm
ghét tất cả mọi phương tiện truyền
thông quốc tế. Nhiều nước Hồi Giáo ban hành
luật cấm TV, Video, phim ảnh và các sách báo ngoại
văn. Trong cuộc họp của Tổ Chức Các
Quốc Gia Hồi Giáo OIC (Organization of Islamic Countries) gồm
các đại biểu của 56 quốc gia thành viên họp
tại thủ đô Mã Lai Kualua Lumpur ngày 27.2.2000, nhiều
đại biểu đã hô hào các nước Hồi Giáo
đoàn kết để chống lại kỹ thuật
tin học Internet vì nó có thể "tiêu diệt các giá
trị Hồi Giáo".
Nền kinh tế của
khối Ả Rập Trung Đông hiện nay không có gì
để hãnh diện, ngoại trừ kho dầu mỏ
thiên nhiên ở mấy nước vùng vịnh với trữ
lượng bằng 1/4 khối lượng dầu của
thế giới. Nhưng họ không có kỹ thuật
thăm dò mỏ dầu, kỹ thuật khoan mỏ dầu,
chuyên chở và lọc dầu v.v... Họ cũng không có
độc quyền tăng giá dầu vì các việc tiêu
thụ, phân phối và sản
xuất không nằm trong tay họ. Năm 1982, giá dầu thô
40 đô la/1 barrel, đến năm 1998, giá dầu tụt
xuống chỉ còn 10 đô la/1barrel! Những mỏ dầu
thô đã tạo cho chính quyền các nước Trung Đông
một ảo tưởng về quyền lực. Thật
sự họ không thể dùng nó để tạo nên một
áp lực nào đối với thế giới bên ngoài.
Những khoản lợi tức khổng lồ của
những mỏ dầu không đem lại lợi ích nào cho
quần chúng vì nó đã chui hết vào túi của giới lãnh
đạo bất tài và tham nhũng. Chẳng những
thế, giới lãnh đạo còn nhân danh Allah và tiên tri Muhammad
để tước đoạt những quyền tự
do chính đáng của người dân. Tại các
nước Bahrain, Jordan, Maroc... và thậm chí ở hai
nước nổi tiếng giầu có vì dầu hỏa là
Koweit và Saudi Arabia... phụ nữ không có quyền đi
bầu. Đại đa số dân Ả Rập đều
đang kéo lê cuộc sống du mục lạc hậu
như thời Muhammad lập đạo tại sa mạc
Syro-Arabia vào thế kỷ 7 hoặc như tổ phụ Abraham
ở vùng đất hứa Canaan cách đây 4000 năm
vậy!
Thiên Chúa luôn luôn
được các phe động viên trong cuộc thánh
chiến hiện nay giữa Do Thái và các nước Ả
Rập.
Thánh kinh Cựu Ước
được mọi tôn giáo như Do Thái, Ki Tô và Hồi
Giáo công nhận. Một trong những chuyện nổi
tiếng trong Cựu Ước là chuyện Đại
Hồng Thủy. Kinh Thánh kể rằng: Sau cơn
đại hồng thủy tiêu diệt hết mọi sinh
vật trên trái đất, loài người vỏn vẹn
chỉ còn lại gia đình của ông Nô-e mà thôi.
Người con út của ông Nô-e tên Shem sau này trở thành
tổ tiên của các dân tộc Do Thái-Ả Rập. Do
đó, mọi người Do Thái và Ả Rập đều
có một cái tên chung là chủng tộc Semites. Danh từ này
có nghĩa là "con cháu của ông tổ Shem" (Semites =
descendants of Shem).
Mới đây, các nhà nhân
chủng học đã làm nhiều cuộc thử nghiệm
DNA tại các nước Trung Đông. Kết quả xác
nhận các người Ả Rập, Do Thái, Ba Tư, Iraq,
Syria, Liban v.v... đều cùng chung một chủng tộc.
Như vậy, truyền thuyết về các dân tộc
Ả Rập Do Thái cùng chung một ông tổ Shem như
chuyện kể trong kinh Thánh đã tỏ ra là đúng
với thực tế.
Họ quả thật là
"anh em" với nhau. Cũng như người Do Thái
thường gọi nhau là "Ben-Adam" có nghĩa là
"anh em" cùng một ông tổ Adam mà ra. Nhưng khi Adam
và Eva mới sinh ra được hai thằng con trai là Cain
và Abel, lúc đó toàn thể dân số nhân loại chỉ có 4
người, thì Cain đã ra tay giết chết thằng em
vì một chuyện cãi nhau vớ vẩn. Chuyện Cain
giết Abel đã trở thành câu chuyện mang tính chất
biểu tượng cho sự chém giết nhau giữa
những người anh em cùng chủng tộc hoặc
những anh em cùng thờ Chúa.
Những người Do Thái
và Ả Rập đã chém giết nhau rất nhiều phen
kể từ khi Israel trở thành vương quốc,
với vị vua đầu tiên là Saul, vào năm 1025
trước công nguyên. Vương quốc Israel tồn
tại đến năm 70 sau Công Nguyên thì bị quân La Mã
kéo đến san bằng và tàn sát người Do Thái vô
số kể. Do đó,
người Do Thái phải bỏ nước ra đi lang
thang khắp nơi trên thế giới. Từ thế
kỷ 4 đến đầu thế kỷ 20,
người Do Thái tại các nước Công Giáo ở Âu
Châu đã bị kỳ thị và bị sát hại rất
nhiều, nhất là trong thời Trung Cổ. Trong Thế
Chiến thứ hai, Do Thái bị Đức Quốc Xã sát
hại 6 triệu người.
Do đó, sau Thế Chiến II, Liên Hiệp Quốc
đã thực hiện kế hoạch cho những
người Do Thái trên khắp thế giới trở
về "cố hương" để tái lập
quốc gia.
Năm 1948, quốc gia Do
Thái được thành lập trên phần đất
của người Palestine đang sinh sống. Sự
lập quốc Do Thái đã khiến cho hàng triệu
người Palestine trở thành những người vô gia
cư (homeless). Sự bất mãn của những
người Ả Rập Hồi
Giáo bắt đầu từ đó.
Theo lệnh của Liên
Hiệp Quốc thì Do Thái không được chiếm thành
phố Jerusalem vì thành phố
này là thánh địa chung của cả 3 tôn giáo: Do Thái, Ki Tô
và Hồi. Nhưng vào năm
1967, Israel đã xua quân
chiếm thành phố Jerusalem làm thủ đô của riêng
mình. Vụ này đã làm cho toàn thế giới Hồi Giáo
phẫn nộ. Từ năm 1970 trở đi, thế
giới Hồi Giáo tổ chức Hội nghị hàng
năm để kêu gọi toàn thể các tín đồ
Hồi Giáo đoàn kết chống lại Israel để
giải phóng thánh địa Jerusalem.
Israel đã vin vào Thánh Kinh
Cựu Ước, công khai tuyên bố không bao giờ
chịu rút khỏi Jerusalem vì đó là "một sứ
mạng tôn giáo" (a religious mission). Nước Israel là
bất khả xâm phạm vì đó là "Israel của Thánh
Kinh" (Biblical Israel). Lịch sử của Do Thái là
lịch sử của Thánh Kinh Cựu Ước. Do đó,
đối với người Do Thái, quốc gia và tôn giáo
là một. Chết vì nước cũng là chết vì Chúa
của đạo Do Thái. Người Do Thái sống trong
hiện tại với những chứng tích của
lịch sử. Tâm linh của người Do Thái trong
hiện tại luôn luôn gắn bó với tâm linh dân tộc
trong lịch sử. Đó là lý do khiến người Do
Thái đoàn kết và kiên cường trong chiến
đấu.
Cuộc chiến tranh
hiện nay giữa Do Thái và những người Ả
Rập Hồi Giáo là một cuộc chiến tranh vì
lịch sử và vì tôn giáo. Chúng ta hãy nghe lời lập luận
của một thường dân Palestine ở ngoại ô thành
phố Jerusalem. Anh Ibrahim Hussein, 48 tuổi, trả lời ký
giả Mỹ trong một cuộc phỏng vấn tháng
3/2002 như sau: "Nếu ông đào xới bất cứ
chỗ nào ở vùng này ông cũng tìm thấy những
dấu tích của lịch sử. Và nếu ông là một
người Do Thái thì bất cứ lúc nào ông cũng có
thể vin vào những dấu tích đó để nói
rằng đây là đất thuộc về lịch sử
của Do Thái. Nhưng người Do Thái chỉ có thể
vin vào lịch sử 3000 năm của họ. Còn chúng tôi,
con cháu của những người Canaanites, đã
định cư ở đây trước người Do
Thái 4000 năm, nghĩa là tổ tiên của người
Ả Rập đã có 7000 năm lịch sử tại
nơi này!" (Houston Chronicle March 31.2002)
Ý kiến chung của
những người Ả Rập luôn luôn kết tội
Israel là kẻ gây chiến vì Israel đã đến chiếm
đất của người Palestine và dùng bạo lực
đuổi họ ra khỏi nơi cư trú hợp pháp lâu
đời của họ. Trong khi đó, người Do Thái
luôn luôn đem Thánh Kinh và Thiên Chúa ra làm chứng cho quyền
sở hữu của mình. Họ nói vùng Tây Ngạn sông Jordan(West
Bank) hiện có 3 triệu dân Palestine cư trú, chính là hai
tỉnh Judea và Samaria của Do Thái trong Thánh Kinh Cựu
Ước.
Người Do Thái chiếm
thành phố Hebron ở phía nam Jerusalem, viện cớ Hebron
là nơi có mộ của tổ phụ Abraham, mặc
dầu không một ai có thể xác định mộ
của ông ta nằm ở chỗ nào!
Người Do Thái cũng
chiếm luôn thung lũng Kindron ở ngoại ô Jerusalem
(Kindron Valley) vì thung lũng này hết sức quan trọng.
Cả ba đạo thờ Chúa là Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo
đều tin rằng: đến Ngày Phán Xét Cuối Cùng,
tất cả mọi người sống và người
chết (sống lại) đều tập trung tại
thung lũng Kindron để được Thiên Chúa xét
xử lần cuối cùng. Kẻ lành lên Thiên Đàng
đời đời, còn kẻ dữ (là kẻ chẳng
có đạo) sẽ bị đày xuống hỏa ngục
muôn đời muôn kiếp.
Đọc tin tức báo chí
đến đây tôi liên tưởng đến sự
ước tính của Giáo Sư
Trần Chung Ngọc trong sách "Chúa Giê-xu là ai?
Giảng dạy những gì?" Giao Điểm xuất
bản, Xuân 2002, trang 167-169: Ngày Phán Xét Cuối Cùng là ngày Chúa
xét xử cả người sống lẫn các
người đã chết từ xưa tới nay.
Những người sống hiện nay là 6 tỷ. Nếu
Chúa cho tất cả mọi người chết sống
lại thì ước tính độ 44 tỷ người.
Tổng cộng tất cả mọi người
được Chúa xét xử sẽ là 50 tỷ. Nếu Chúa
xét xử theo phương pháp siêu tốc mỗi
người một giây thì thời gian cần thiết
phải có là 1500 năm mới xử xong 50 tỷ
người! Đó là về thời gian xét xử, còn
về nơi xét xử là thung lũng Kindron không biết
rộng bằng nào. Nhưng cho dù thung lũng Kindon lớn
rộng bằng cả nước Việt Nam chăng
nữa cũng không thể nào chứa được 50
tỷ người trong phiên xử vĩ đại của
Chúa!
Kinh Thánh Do Thái nói rất
nhiều đến ngày Phán Xét Cuối Cùng của Chúa
tại thung lũng Kindron. Nhưng nếu đọc các sách
Phúc Âm sẽ thấy Gioan Baotixita và Jesus còn nói về ngày Phán
xét nhiều hơn nữa. Trong niềm tin của những
người Ki Tô Giáo (Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo và Tin
Lành) thì ngày Phán Xét Cuối Cùng chính là ngày Chúa Jesus Tái Lâm
(Cơ Đốc Phục Lâm) và cũng là Ngày Tận
Thế, Ngày Nước Chúa Trị Đến vĩnh
viễn trên thế gian... Như vậy, vị chánh án
của phiên xử cuối cùng vĩ đại này không ai
khác hơn là chính Chúa Jesus.
Hơn một tỷ tín
đồ Hồi Giáo cũng có niềm tin xác tín về ngày
Phán Xét Cuối Cùng tại thung lũng Kindron như niềm
tin của những người Do Thái và Ki Tô. Nhưng
vị chủ tọa phiên xử là Thiên Chúa Allah. Ngay chương mở
đầu của kinh Koran đã xác định điều
đó: "Nhân danh Thiên Chúa Allah, Đấng chủ tọa
của ngày Phán Xét Cuối Cùng" (In the name of Allah, Master of
The Day of Last Judgement - Koran 1:4)
Người Do Thái càng vin
vào Thánh Kinh là sách ghi Lời Chúa để biện giải
cho các hành vi chiến tranh của mình bao nhiêu thì người
Ả Rập Hồi Giáo cũng vin vào kinh Koran để
cổ vũ người
Palestine và toàn khối Ả Rập phải quyết tâm
tận diệt Do Thái bấy nhiêu.
Ngay từ khi Đạo
Hồi được thành lập vào đầu thế
kỷ 7, Muhammad đã kêu gọi tín đồ tẩy chay
những người Do Thái và Ki Tô:
"Hỡi
các tín đồ! Đừng bao giờ làm bạn với
bọn Do Thái và Ki Tô. Bất cứ ai làm bạn với
chúng, sẽ trở thành một kẻ bất chính trong
bọn chúng. Thiên Chúa không bao giờ dẫn đường
chỉ lối cho những kẻ bất chính"
(Oh you who believe! Do not take the Jews and the
Christians for friends and who amongst you take them for a friend then he is
one of them. Allah does not guide the unjust people - Koran 5: 51)
Ngày 21-7-2001, chính quyền
Palestine của Arafat phổ
biến trên các phương tiện truyền thông một
bản thông cáo chính trị nhưng được mệnh
danh là "Giáo lệnh số 4" (Religious teaching No.4):
"Thiên Chúa cấm chỉ thừa nhận sự hiện
hữu một quốc gia Israel và ngài ra lệnh phải tiêu
diệt nó."
Để cụ thể hóa
mệnh lệnh này, chính quyền Palestine đã đưa ra
8 điều sau đây:
1. Xác nhận Do Thái là kẻ thù
của Thiên Chúa.
2. Toàn thể Hồi Giáo phát
động thánh chiến để chống lại Do Thái.
3. Tiêu diệt Do Thái là một
nghĩa vụ tôn giáo.
4. Palestine chiến đấu
tại tiền tuyến, thế giới Hồi Giáo là
hậu phương yểm trợ tiền tuyến.
5.
Toàn thể lãnh thổ Israel phải thuộc về Palestine.
Bất cứ ai cắt đất của Palestine cho Do Thái
đều phải sa hỏa ngục đời đời
kiếp kiếp.
6. Mọi thỏa ước ký
kết với Do Thái đều chỉ có giá trị
chiến thuật tạm thời.
7. Bất cứ ai trốn tránh
nghĩa vụ thánh chiến chống Do Thái sẽ bị
Chúa trừng phạt.
8. Sự tiêu diệt hoàn toàn Israel là
một sự bảo đảm tuyệt đối nhân
danh Thiên Chúa Allah".
Trong công báo chính thức của chính
quyền Palestine (Al-Jadila) ngày 18-5-2001 có đăng một
bản Huấn thị của chính phủ, trong đó có câu:
"Ngày của mọi người chết sống lại
để dự phiên xử cuối cùng sẽ không xảy
ra cho đến khi nào người Hồi Giáo gây chiến
tranh chống Do Thái và tiêu diệt chúng" (The Day of the Resurrection
will not arrive until the Muslims make war against the Jews and kill them).
Một viên chức cao cấp của
Bộ Tư Pháp Palestine xuất hiện trên màn ảnh
truyền hình ngày 13-10-2001 kêu gọi nhân dân Palestine: "Do Thái là kẻ nói láo và
khủng bố. Cho nên điều cần thiết là
phải giết chúng theo lời Chúa. Cấm không ai
được thương xót chúng. Đừng thương
xót, hãy giết chúng ở khắp mọi nơi" (The Jews
are the liars and terrorists. Therefore it is necessary to slaughter them
according to the Words of God. It is forbidden to have mercy in your hearts for
the Jews. Have no mercy on them and murder them every where) - (Fast Facts on
Islam, by John Weldon and John Ankerberg. Harvest House Pub. 2001, P. 135-137).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét