Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013
HỒI GIÁO TẠI ÂU CHÂU VÀ MỸ CHÂU
20:43
Hoàng Phong Nhã
No comments
Âu Châu và Mỹ Châu vốn đã
được coi là những vùng đất của nền
văn hóa Do Thái Ki Tô Giáo (Judeo-Christian culture). Nhưng ngày nay
điều đó đã đổi khác vì hai vùng đất
này đã tiên phong tự biến thể thành những
quốc gia đa văn hóa (multicultural nations). Số tín
đồ Hồi Giáo hiện có mặt tại Âu Châu
với con số đáng kể là 25 triệu và tại
Mỹ Châu khoảng 10 triệu.
Các cộng đồng
Hồi Giáo tại Âu Châu và Mỹ Châu đã được
hình thành do những yếu tố hoàn toàn khác biệt. Do
đó, chúng ta sẽ bàn về các yếu tố hình thành
của các cộng đồng Hồi Giáo trên hai lục
địa này một cách riêng rẽ:
I.
HỒI GIÁO TẠI ÂU CHÂU
Khối lượng 25 triệu tín
đồ Hồi Giáo có mặt tại Âu Châu hiện nay do
hai yếu tố:
1.
Đa số người gốc Đông Âu đã có tổ
tiên theo đạo Hồi từ thời Trung Cổ. Ngoài ra, vì đế quốc
Hồi Giáo Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ cai trị
nhiều nước Âu Châu từ thế kỷ 8
đến đầu thế kỷ 20 nên có rất
nhiều người Ki Tô Giáo đã bỏ đạo
để theo Hồi Giáo. Nhiều người Bosnia
thuở xưa cải đạo đã được
đế quốc Ottoman cho giữ những chức vụ
cao cấp trong chính quyền. Các thủy thủ Hy Lạp
bỏ đạo Chính Thống theo đạo Hồi
để được đế quốc Ottoman tuyển
dụng và cho làm việc trên các hạm đội. Riêng
nước Tây Ban Nha là một nước lớn ở Âu
Châu nổi tiếng sùng đạo Công Giáo nhưng
nước này đã bị người Ả Rập
Hồi Giáo (Moors) cai trị trên 300 năm, từ thế
kỷ 12 đến thế kỷ 15. Ngày nay có nhiều
người Tây Ban Nha bề ngoài là Công Giáo nhưng bên trong
họ vẫn giữ niềm tin Hồi Giáo của tổ
tiên xa xưa của họ.
Có nhiều vùng đất
Âu Châu hiện nay theo Ki Tô Giáo, nhưng cách đây không lâu
lại là những lãnh địa của Hồi Giáo, đó
là đảo Sicily (Ý), Crete (Hy Lạp) các nước Hungary,
Bulgary, Albany và Herzegovina. Trong thế kỷ 19, vua Áo sùng
đạo Công Giáo đem quân tiêu diệt người
Hồi tại Hezegovina. Trong thế chiến thứ hai,
chính phủ Nam Tư, do giống người Croatian Công Giáo
lãnh đạo, đã giết hại 200.000 tín đồ
Hồi Giáo tại nước này.
Sau thế chiến thứ hai, chính phủ Nam Tư do
người Serbian theo Chính Thống Giáo lãnh đạo
đã giết hại hàng trăm ngàn người Hồi
Giáo tại Bosnia!
Hầu hết các
người Hồi Giáo tại Đông Âu đều có
tổ tiên theo đạo này từ thế kỷ 15.
Đại đa số người Bulgary theo đạo
Hồi là con cháu của một đợt di cư vĩ
đại của trên 1 triệu người Thổ Nhĩ
Kỳ vào Bulgary năm 1850.
2.
Các cuộc di dân ồ ạt của người Hồi
Giáo vào Tây Âu trong thập niên 1960.
Trong thập niên 1960, các
nước kỹ nghệ Tây Âu lâm vào tình trạng thiếu
nhân công rất trầm trọng. Do đó, các nước Tây
Âu đành phải chấp nhận cho nhập cư
nhiều đợt công nhân từ các nước Hồi
Giáo từ Bắc Phi và Thổ Nhĩ Kỳ. Sau một
thời gian, số công nhân này được phép bảo
lãnh thân nhân nhập cư theo để đoàn tụ gia
đình. Cho tới nay tại Tây Âu, số người
Hồi gốc Maroc là 1 triệu rưỡi, Thổ Nhĩ
Kỳ 2 triệu rưỡi. (Riêng ở Đức có 2
triệu người Thổ, 200.000 ở Bỉ, 200.000
ở Hòa Lan, trên 100.000 ở Pháp).
Điều đáng chú ý là
sự cải đạo Ki Tô sang đạo Hồi tại
Âu Châu. Riêng ở Pháp từ 1968 đến nay có trên 100.000
tín đồ Công Giáo theo đạo Hồi, trong số
đó có nhà thám hiểm hàng hải nổi tiếng là Jacques
Couteau.
Điều đáng chú ý
hơn nữa là từ 1982 đến nay có rất nhiều
người Hồi Giáo từ các "cựu thuộc
địa" xin nhập cư vào các "cựu mẫu
quốc" với tư cách di dân và đều
được chấp thuận:
- 700.000 người Hồi
Giáo từ Ấn Độ và Pakistan được
nhập cư vào Anh Quốc nâng tổng số Hồi Giáo
tại Anh lên 2 triệu.
- Hàng trăm ngàn cựu binh
sĩ Lê Dương gốc Hồi Giáo Bắc Phi, Congo,
Sénégal... xin vào Pháp.
- Hàng chục ngàn
người Hồi Giáo Nam Dương và Surinam xin vào
cựu mẫu quốc Hòa Lan.
Đến nay, hầu
hết các di dân đều đã trở thành công dân của
các nước cho nhập cư. Nhiều người trong
số con cháu của họ đã chiếm được
những chức vị cao trong các nước Tây Âu. Tại Anh Quốc năm 1993, 12
người Hồi gốc Ấn hoặc Pakistan đã
được bầu vào quốc hội Anh (12 trên tổng
số 117 nghị sĩ quốc hội).
Nước Đức không
có thuộc địa nhưng chính sách di dân rất cởi
mở đã tạo cơ hội cho nhiều sinh viên
ngoại quốc xin du học tại Đức. Trong
năm 1971, riêng số thanh niên Hồi Giáo xin du học
tại Đức là 50.000 người.
Số đền thờ
Hồi Giáo tại Tây Âu là 4.000 đơn vị, riêng
tại Đức 2.000. Sở dĩ tại Đức có
nhiều đền thờ Hồi Giáo vì số tín
đồ Hồi Giáo tại đây thuộc nhiều giáo
phái khác nhau và định cư rải rác khắp nơi
trên nước Đức. Tại Pháp có 1.000 đơn
vị, Anh 600...
3.
Trường hợp đặc biệt của Liên Xô.
Từ cuối thế kỷ
7 và trong thế kỷ 8, các đoàn kỵ binh Hồi Giáo
Ả Rập đã tiến chiếm một vùng lãnh thổ
rộng lớn ở Bắc Ấn và toàn vùng Trung Á ở
sát phía Nam của nước Nga. Tiếp theo đó là sự
theo đạo Hồi ồ ạt của dân tộc Bulgars
định cư tại vùng đồng bằng sông Volga
thuộc Nga. Sau này, dân tộc Bulgars đã tách rời
khỏi Nga để thành lập quốc gia riêng là Kazakstan.
Trong thế kỷ 13, dân tộc Tartars theo đạo
Hồi, sau đó họ thành lập một nước
độc lập là Uzbekistan.
Trong năm năm (1552-1557)
Nga hoàng Ivan IV đem quân tàn phá
vùng Golden Horn thuộc miền Tây Bắc Thổ Nhĩ
Kỳ và các vùng lân cận tàn sát hàng triệu người
Hồi Giáo và cưỡng bách những người sống
sót phải theo đạo Ki Tô Chính Thống (Orthodox
Christianity). Năm 1783, nữ hoàng Nga Catherine II xua quân
chiếm vùng Crimea giết hại 30.000 người Hồi
Giáo.
Trong thế kỷ 18 và 19,
các Nga Hoàng có thái độ khoan dung đối với
đạo Hồi đã cho phép các giáo sĩ Hồi Giáo
được tự do truyền đạo và hành đạo.
Nhờ đó, đạo Hồi đã mau chóng phát triển
tại Nga. Tới năm 1897, trên khắp nước Nga
đã có 600 trường học và 1555 đền thờ Hồi Giáo. Nga hoàng cho phép
người Hồi Giáo xây nhà thờ trên tiêu chuẩn 150 nam
tín đồ có một nhà thờ riêng.
Sau Cách Mạng Tháng
Mười Nga 1917, Đảng Cộng Sản Nga thành
lập Liên Bang Xô Viết gồm có 15 nước Cộng
Hòa, trong đó có 6 nước Hồi Giáo (1 thuộc Âu Châu
và 5 thuộc Trung Á) Liên Xô trở thành một nước có
65 triệu công dân theo đạo Hồi. Tuy nhiên, những
người Hồi Giáo đều là những tín đồ
hữu thần rất sùng tín nên đại đa số
không thể chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản
vô thần. Đứng trước nguy cơ nổi
loạn của tập thể Hồi Giáo với sự
hỗ trợ của nhiều thế lực đối
nghịch từ bên ngoài, chính phủ liên bang Xô Viết
đã công khai tuyên chiến với Hồi Giáo. Trước
hết chính phủ ra lệnh cấm truyền đạo
và hành đạo. Năm 1921, Staline tạo ra nạn đói
giết chết 2 triệu người Kazakhs và Kirghis.
Năm 1929, chính phủ Xô Viết ra lệnh tịch thu
hết súc vật của những dân du mục Hồi Giáo nổi
loạn tại Tây Á khiến cho trên một triệu
người bị chết đói.
Trước khi đảng
Cộng Sản nắm chính quyền năm 1917, toàn lãnh
thổ Liên Xô có 2600 đền thờ Hồi Giáo. Sau trên 70
năm cầm quyền, chính phủ Cộng Sản đã
phá hủy gần hết. Năm 1980, toàn liên bang chỉ còn
450 đền thờ mà thôi.
II. HỒI GIÁO
TẠI MỸ CHÂU
Tổng
số tín đồ Hồi Giáo tại Mỹ Châu chỉ có
10 triệu nhưng sự hiện diện của họ
tại lục đia này do nhiều yếu tố phức
tạp hơn ở Âu Châu rất nhiều:
1.
Những người Tây Ban Nha Hồi Giáo mới thực
sự là những người đầu tiên thám hiểm
Châu Mỹ: Ai cũng biết
Christophe Columbus thám hiểm Châu Mỹ trong thế kỷ 15.
Nhưng trước đó 3 thế kỷ, tức vào
thế kỷ 12, những đoàn thám hiểm Tây Ban Nha
được lãnh đạo bởi các nhà hàng hải giàu
kinh nghiệm của vùng Andalusia ở phía Nam Tây Ban Nha theo
đạo Hồi đã đến thám hiểm Châu Mỹ.
Tuy nhiên, vào thời đó ít có ai chú ý đến những
thành quả của họ.
Từ thế kỷ 15
trở về sau, những người Tây Ban Nha theo
đạo Hồi đã bị các vua chúa Công Giáo đàn áp
nặng nề nên họ phải ẩn dấu tôn giáo của
họ. Tiếng Tây Ban Nha có danh từ đặc biệt
để gọi những người này là MORISCOS (Spanish
Muslims). Trong các đoàn thủy thủ Tây Ban Nha xâm chiếm
Châu Mỹ có rất nhiều người Moriscos, trong
số đó có Rodrigo de Lope là phó tướng của
Christophe Columbus, tướng Estevanico de Azemor chiếm vùng
Arizona (Mỹ), tướng Estaval the Moor chiếm New Mexico và
Colorado năm 1540. Chính những người Moriscos là
những tín đồ Hồi Giáo đầu tiên trên Châu
Mỹ.
2.
Đa số nô lệ bị đưa đến Châu
Mỹ trong hai thế kỷ
17-18 là những tín đồ Hồi Giáo.
Trong thế kỷ 17 và 18,
bọn thực dân Âu Châu phát triển kỹ nghệ buôn bán
nô lệ (the slave trade) để kiếm lợi. Bọn
chúng thường đem quân đổ bộ lên vùng ven
biển Phi Châu bắt người da đen đem lên tàu
nhốt trong cũi như súc vật. Sau đó, bọn chúng
đem họ đến Châu Mỹ bán cho các chủ nông
trại. Hầu hết các chủ nô lệ đều là
những người Ki Tô Giáo da trắng trong khi phần
lớn những người nô lệ da đen là những
tín đồ Hồi Giáo. Do bị đối xử tàn
bạo và bị ép buộc phải bỏ đạo Hồi
theo đạo Ki Tô , những người da đen đã
vùng lên nổi loạn tại Bắc Mỹ năm 1758,
nhiều chủ nô lệ da trắng đã bị phe nổi
loạn trói vào cọc thiêu sống. Sau đó, báo chí Tây
Phương đã lên tiếng kết án chế độ
nô lệ.
Từ năm 1830,
để thay thế việc buôn nô lệ da đen, bọn
thực dân Anh và Hòa Lan dụ dỗ những người
nghèo ở Indonesia, Surinam và Mã Lai dưới hình thức
"mộ phu" và ký với họ những "giao kèo
lao động" rồi đưa họ đến
Mỹ Châu bán cho các chủ nông trại. Hầu hết
những người này là tín đồ Hồi Giáo. Họ
bị đối xử như nô lệ nhưng không bị
ép buôc phải bỏ đạo. Họ công khai hành
đạo tại Mỹ Châu. Từ đó, các tên riêng
của Hồi Giáo bắt đầu xuất hiện rộng
rãi khắp nơi như: Muhammad, Ali, Abu, Omar, Abdul, Ismael
v.v...
Cuốn
tiểu thuyết best-seller "Cội Nguồn" (Roots)
của Alex Harley là câu chuyện của những
người nô lệ da đen ở Brazil tìm về cội
nguồn của họ là xứ Hồi Giáo Phi Châu Gambia.
Họ bị thực dân Bồ Đào Nha đem đến
Nam Mỹ năm 1830.
3.
Do nhu cầu phát triển kỹ nghệ, nước Mỹ
mở cửa đón nhận nhiều đợt nhập
cư của các chuyên gia từ các nước Hồi Giáo:
a.
Đợt đầu tiên trong thập niên 1870 gồm
rất nhiều các nhân viên kỹ thuật từ các
nước Trung Đông như Syria, Lyban, Jordan và Palestine.
b. Sau đệ nhất
thế chiến (1914-1918) nước Mỹ tuyển
rất nhiều chuyên gia từ các nước Hồi Giáo
Đông Âu như Nam Tư, Albania, Bulgary v.v...
c. Sau đệ nhị
thế chiến, liền trong 15 năm (1945-1960) nước
Mỹ thâu nhận nhiều trăm ngàn chuyên gia thông thạo
Anh ngữ từ Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Thổ
Nhĩ Kỳ và Ai Cập.
Phần lớn những
chuyên gia và nhân viên kỹ thuật định cư tại
các khu kỹ nghệ như Detroit, Chicago, Los Angeles và
nhất là New York.
4.
Yếu tố cuối cùng hình thành cộng đồng
Hồi Giáo tại Mỹ là sự cải đạo theo
Hồi Giáo (Conversion to Islam).
Hầu hết mọi
người da đen tại Mỹ đều ý thức
rằng Hồi Giáo là tôn giáo truyền thống của
tổ tiên họ tại Phi Châu. Những cơ quan tuyên truyền
của người da đen cố ý đánh thức tâm lý
quần chúng da đen tìm về cội nguồn Hồi Giáo
của họ. Những khẩu hiệu vận động
trong cộng đồng người da đen thường
thấy là: "Hồi Giáo là đạo của
người da đen. Ki Tô Giáo là đạo của
người da trắng". (Islam, the religion of Blacks.
Christianity religion of Whites)
Những cuộc vận
động đó rất hữu hiệu vì nó đã làm cho
cộng đồng Hồi Giáo tăng vọt lên trong
thập niên 1950. Theo tuần báo Time ngày 01-11-2001 thì số
người Hồi Giáo tại Mỹ hiện nay là 7
triệu, người Mỹ da đen chiếm 40%, Ả
Rập 30% và Á Châu chiếm 30%.
Ngoài nước Mỹ ra,
Canada có nửa triệu người Hồi Giáo với 100
đền thờ, Trung và Nam Mỹ có 2 triệu
rưỡi người Hồi Giáo, đông nhất tại
Argentine và Brazil (mỗi nước có 500.000 tín đồ
Hồi Giáo). Năm 1990, người Hồi Giáo đầu
tiên được bầu làm Tổng thống Argentina là ông
Memem, gốc Syria.
Trước đây
nhiều người cho rằng Hoa Kỳ là một "lò
luyện kim" có thể nấu chảy mọi thứ
dị biệt trên đất nước này. Nhưng ngày
nay người ta nhận thấy có một thứ không
thể nấu chảy là tinh thần cuồng tín cực
đoan của người Hồi Giáo. Do vậy, Hoa Kỳ
đã phải xét lại chính sách di dân và phải có biện
pháp hạn chế đối với các di dân Hồi Giáo. Dù
sống tại Mỹ, những người Hồi Giáo
cực đoan vẫn thù ghét lối sống Mỹ và
họ rất sợ "mất linh hồn" trong môi
trường sống của Mỹ. Do đó, những
người Hồi Giáo thu mình lại như con ốc thu
mình trong cái vỏ khép kín của nó. Họ tự tách mình
khỏi xã hội Mỹ để tự giam mình trong
một hình thức ghettos.
Tập thể người
Mỹ da đen còn đi xa hơn nữa là họ vận
động tách rời khỏi nước Mỹ
để thành lập một quốc gia Hồi Giáo riêng
biệt. Phong trào "Quốc Gia Hồi Giáo" (Nation of
Islam) được phát động rầm rộ từ
năm 1930 bởi Wallace Fard. Năm
1934, Fard bị bắt và bị thủ tiêu bí mật.
Phong trào được
tiếp tục lãnh đạo bởi Elijah Muhammad, 37
tuổi. Ông gọi lãnh tụ Fard là "Chúa Cứu
Thế" và gọi dân da trắng là kẻ dữ (evils).
Ông tiếp tục đòi người da trắng phải
để cho người da đen tách rời thành một
nước riêng. Elijah qua đời vì bệnh năm 1975,
thọ 78 tuổi.
Người hoạt
động nổi tiếng nhất trong đầu
thập niên 1960 là Malcom X (1925-1965). Ông kêu gọi mọi
người da đen bỏ đạo Ki Tô để
trở về với đạo gốc của tổ tiên
là đạo Hồi, chỉ có đạo Hồi mới có
khả năng đoàn kết mọi người da đen
thành một khối mạnh mẽ. Ông gọi Thiên Chúa
của đạo Ki Tô là Chúa của Da Trắng, Chúa
ngoại lai và Chúa của chủ nghĩa nô lệ. Ông thành
lập "Hội Truyền Bá Đạo Hồi tại
Hoa Kỳ" (American Muslim Mission). Malcom X bị một nhóm
da đen Hồi Giáo bất đồng chính kiến ám sát
chết năm 1965.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét