Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013
Khuyết tật kinh tế nhìn từ góc độ xã hội
17:35
Hoàng Phong Nhã
No comments
Gần đây, các nhà
kinh tế học thường nói đến khái niệm "khuyết tật của nền kinh tế". Đã có
thời chúng ta tránh nói đến những từ này. Thực ra khái niệm "khuyết tật
kinh tế" không mới. Ngọc còn có vết. Đó là quy luật.
Từ khi có khái niệm "kinh tế" thì kinh
tế đã có khuyết tật. Bất cứ nền kinh tế hay mô hình kinh tế nào cũng có
những ưu việt và những khuyết tật của nó. Khuyết tật kinh tế mang tính
lịch sử. Khuyết tật kinh tế là biểu hiện của mâu thuẫn nội tại cũng như
mâu thuẫn có nguồn gốc ngoại lai của nền kinh tế. Giải quyết mâu thuẫn
là động lực để phát triển. Vấn đề cần quan tâm đặc biệt là trong mỗi
giai đoạn lịch sử, những khuyết tật đó có thể làm thay đổi những giá trị
xã hội, làm nổi lên những cơn sóng gió kinh tế, gây đau thương cho
nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt là lực lượng lao động làm công ăn lương.
Thậm chí nó làm lệch lạc tư duy của cả một bộ phận xã hội. Do đó,
khuyết tật kinh tế luôn là một thách thức mà bất cứ quốc gia nào cũng
phải đối mặt - dù muốn hay không. Ngày nay, khi toàn cầu hóa thì khuyết
tật kinh tế của một quốc gia mang tính quốc tế nên nó có thể lây lan ra
toàn thế giới, nó đe dọa tất cả các quốc gia, đe dọa tất cả người dân,
nó tấn công vào nền văn minh các quốc gia và văn minh nhân loại.
Trong xu thế đó, khuyết tật của nền kinh tế nước ta không nằm ngoài quy luật chung.
Không cần phải nhắc lại vai trò, vị trí
của nền kinh tế trong xây dựng và phát triển đất nước. Mỗi mô hình kinh
tế ở nước ta từng thời kỳ đều có mục tiêu cụ thể. Nếu như trong cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc, mô hình kinh tế nước ta nhằm mục đích
tất cả cho tiền tuyến (thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người) thì trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, mô hình kinh tế là
nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Chúng ta đi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa, quan liêu bao cấp (phù hợp với thời kỳ chiến tranh) chuyển sang mô
hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Do mục tiêu tất cả vì tiền
tuyến nên khuyết tật kinh tế thời kỳ chiến tranh thường được bỏ qua.
Nhưng trong thời kỳ hiện nay, khuyết tật kinh tế được thẳng thắn nhìn
nhận, bởi lẽ nó tác động trực tiếp và sâu rộng đến đời sống, nó đe dọa
mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta đang phấn đấu hướng tới.
Bên cạnh những ưu việt của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, những khuyết tật kinh tế ở nước ta hiện nay
cụ thể là những gì? Các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách đã
"điểm danh" những khuyết tật này (đa số là những mặt trái của kinh tế
thị trường), có thể tóm lược như sau: Gia tăng tình trạng tham nhũng;
bội chi ngân sách; cạnh tranh gay gắt cá lớn nuốt cá bé; mâu thuẫn tổng
cung và tổng cầu; khủng hoảng những mô hình kinh tế; gia tăng số lượng
DN phá sản; gia tăng tình trạng thất nghiệp, lạm phát; bất bình đẳng,
gia tăng khoảng cách giàu nghèo...
Nhìn từ góc độ xã hội, những khuyết tật kinh tế được thấy như thế nào ?
Trước hết, kinh tế thị trường coi trọng
lợi ích cá nhân, xem lợi ích cá nhân là lợi ích trung tâm trong các mối
quan hệ. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quan niệm ứng xử, quan niệm kinh
doanh của các chủ DN và mọi người dân. Người ta tìm mọi cách cạnh tranh
để có lợi nhuận cá nhân, đúng luật có, nhưng thường là lách luật, thậm
chí vi phạm pháp luật. Sự tiêu xài (theo lối hưởng thụ gấp) vượt quá số
đang có cũng như số làm ra, dẫn đến mất cân bằng của cải xã hội, từ đó
tạo nên những "cuộc phá sản" từ cá nhân đến các tổ chức kinh tế. Chúng
ta không thể không nói đến nạn hối lộ gia tăng ở nhiều nơi. DN hối lộ để
được hưởng chính sách ưu đãi, hối lộ để thoát hiểm khi vi phạm pháp
luật, hối lộ để có dự án, hợp đồng...
Tình trạng này phổ biến đến mức người ta
kết luận rằng, không hối lộ (mà họ gọi là "chi phí cần thiết", hay "bôi
trơn", dùng từ sang trọng là "chi phí cơ hội" - ngược lại với "Chi phí
cơ hội" đúng nghĩa trong kinh tế học) thì DN dù lớn hay nhỏ đều không
thể tồn tại và giàu có. Từ hối lộ, DN móc nối với công chức nhà nước để
làm biến tướng chính sách nhằm hưởng lợi cao, dựa tiếng tăm, dựa quyền
lực để đe nẹt người khác, để đi qua trót lọt các khung cửa hẹp. Để bảo
đảm có chỗ dựa vững chắc hơn, không ít chủ DN tư nhân "đầu tư vào chính
trị" như: móc nối để người quen thân của họ được tham gia vào hệ thống
quyền lực nhà nước các cấp hoặc lợi dụng "cơ cấu" để trực tiếp leo vào
hệ thống nhà nước với vai trò thành viên các tổ chức chính trị xã hội.
Thời gian qua, số lượng các DN có tính chất phát minh sản phẩm mới để
thay đổi chất lượng nền kinh tế chỉ đếm trên đầu ngón tay, nhưng số
lượng các DN dù là ngành nghề gì đi nữa vẫn tìm cách chiếm đất ngày càng
gia tăng. Các chủ DN nhà nước, DN tư nhân tìm mọi cách có được những dự
án bất động sản "khủng" nhất, ở những vị trí đắc địa nhất. Đất không
thể đẻ ra thêm nhưng đất đẻ ra quyền lực kinh tế. Từ đó họ tạo ra một
thị trường mới: thị trường của những nhà tài phiệt có trong tay hàng
trăm, hàng ngàn héc ta đất, gây lũng đoạn và thay đổi sự cân bằng xã
hội. Cũng từ quyền lực kinh tế của đất đai mà hình thành thị trường bất
động sản bong bóng đến mức có thời điểm nhà nhà kinh doanh đất, người
người kinh doanh đất. Thêm vào đó là sự vay mượn mô hình kinh doanh
chứng khoán đã đẻ ra bi kịch của người nghèo. "Phong trào" thành lập
ngân hàng, tổ chức tài chính, chứng khoán, kinh doanh ngoài ngành đã dẫn
đến những hệ lụy xã hội to lớn. Nhiều DN lớn (có vốn hàng ngàn tỷ đồng)
phá sản đã tác động rất xấu đến nền kinh tế và đời sống xã hội. Không
chỉ DN phá sản mà người nghèo cũng phá sản. Họ vay tiền đầu tư chứng
khoán, kinh doanh bất động sản nên khi bị tác động xấu đã mất nhà cửa,
tài sản khác, gia đình ly tán. Các phong trào kinh doanh bất chấp quy
luật của nhiều DN và cá nhân làm cho tiền nhà nước bị thất thoát không
có khả năng thu hồi, số người lao động thất nghiệp tăng lên, một số ngân
hàng vốn được coi là mạnh thì lâm vào khủng hoảng vì mất vốn. Mà khi
ngân hàng khủng hoảng thì dòng chảy vốn của nền kinh tế bị tắc nghẽn
hoặc bị rò rỉ. Và nữa, một số mô hình DN vốn được coi là năng động, là
tiêu biểu chuẩn, nay phá sản kéo theo những thiệt hại về tài chính, an
toàn xã hội, thất nghiệp, mất cân đối ngành nghề (ví dụ như trường hợp
Vinashin)...
Ở đây cũng cần thẳng thắn chỉ ra những
khiếm khuyết của lực lượng quản lý kinh tế. Tư duy nhiệm kỳ của không ít
các vị lãnh đạo kinh tế, của người đứng đầu DN nhà nước làm cho họ
không có tầm nhìn xa. Cũng từ tư duy nhiệm kỳ, vì sự vị kỷ, sợ trách
nhiệm của một số vị cán bộ lãnh đạo nên tình trạng đùn đẩy, "đá" trách
nhiệm cho nhau giữa các cơ quan chức năng của Nhà nước về quản lý kinh
tế diễn ra thường xuyên. Những chủ DN dù là của tư nhân hay của Nhà nước
luôn tính đến lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm hơn là lợi ích tổng thể.
Lợi ích nhóm khi ở trong bối cảnh thiếu minh bạch về thông tin kinh tế
đã ít nhiều chi phối khả năng dự báo, khả năng đối phó có tầm chiến lược
cũng như tình huống cụ thể của hệ thống quản lý, điều hành. Việc sử
dụng mệnh lệnh hành chính có tác dụng trong những trường hợp điều tiết
mạnh mẽ, tức thời đối với những biểu hiện đe dọa tới tiềm lực nền kinh
tế nước nhà, đe dọa sự ổn định xã hội, nhưng mặt khác, khi bị lạm dụng
lại tạo nên những bất hợp lý và sự thiên lệch trong điều hành kinh tế.
Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang chấn chỉnh quyết liệt
những hiện tượng lấy ngân sách để "cứu" một cách vô lối những DN làm ăn
thua lỗ.
Những ưu việt hay khuyết tật của nền
kinh tế luôn in dấu ấn lên đời sống xã hội từng thời kỳ và nó tạo nên
những quan niệm vừa "hợp thời" nhưng cũng có những yếu tố lệch lạc về
giá trị trong các tầng lớp xã hội.
Thời bao cấp, nam thanh nữ tú khi học
hết phổ thông đua nhau thi vào các ngành thương nghiệp, ngành thực phẩm
chỉ vì hình ảnh nhân viên bán hàng ở cửa hàng bách hóa, lương thực, thực
phẩm như biểu tượng của sự no ấm. Biểu tượng đó ăn sâu trong quan niệm
xã hội đến mức nhiều chàng trai ưu tú có tiêu chí là lấy vợ làm nhân
viên ngành thực phẩm, thương nghiệp, lương thực. Quan niệm đó phổ cập
đến nỗi các gia đình trở nên có vị thế trong làng, xã, khu phố khi có cô
con dâu làm ở ngành thương nghiệp (!?). Khi kinh tế phát triển theo cơ
chế thị trường thì nhà nhà làm kinh tế, người người làm kinh tế. Ai có
tí vốn thì dốc ra, ai không có thì đi vay để làm kinh tế. Những "cuộc
đầu tư" vào trồng trọt, chăn nuôi, xuất nhập khẩu như cơn bão, có vốn
nhỏ thì làm nhỏ, có vốn lớn thì làm lớn. Những thành công bước đầu mở
ra, của cải xã hội tăng lên, đời sống con người nâng cao. Thời kỳ này,
hình ảnh mới của người làm kinh tế xuất hiện như những người hùng. Đó là
những ông giám đốc, cán bộ các công ty xuất nhập khẩu (các DN có tên
gọi với đuôi là EX), là thủy thủ tàu viễn dương,... Họ có thu nhập cao,
có nhà lầu, xe máy đã qua sử dụng, quạt cây, xe đạp Nhật, tủ lạnh
Toshiba... Xã hội vì nể họ, lãnh đạo các địa phương trân trọng giám đốc
các công ty làm ăn nhiều tiền. Và đương nhiên, nam thanh nữ tú đổ xô đi
học thủy thủ, hàng hải, học các trường ngoại thương để hy vọng trở thành
một trong số của đội ngũ "ưu tú" đó. Và rồi, cũng như một thời, thanh
niên có phong trào lấy chồng là thủy thủ tàu viễn dương hoặc làm ở công
ty xuất nhập khẩu. Kinh tế phát triển, đời sống người dân được nâng lên,
nhưng những bi kịch xã hội lại diễn ra. Khi kiểu làm ăn nhập hàng cũ
của người thành hàng mới của mình, hay kiểu làm ăn chụp giật đã qua đi,
đòi hỏi có nền tảng, có căn cốt thì bục ra những thua lỗ, chiếm đoạt.
Các phiên tòa xét xử cả những người ngày nào là tấm gương điển hình của
tỉnh, thành phố, thậm chí là Anh hùng Lao động..., trở nên nhức nhối.
Bước vào thời kỳ mở cửa, hội nhập, các DN nước ngoài vào Việt Nam làm ăn
được trải thảm đỏ. Chúng ta có thêm vốn cho nền kinh tế, học hỏi được
phong cách làm việc công nghiệp, trình độ quản lý kinh tế, công nghệ...
Người làm việc trong các DN có vốn đầu tư nước ngoài có lương cao, ăn
mặc sang trọng, đi xe ô tô mang biển "LD", đã trở thành biểu tượng của
sự phồn thịnh. Cũng như trước đây, trong xã hội lại có phong trào lấy
vợ, lấy chồng là những nhân viên, cán bộ trong công ty liên doanh. Đầu
tư nước ngoài có những tích cực của nó nhưng cũng có những khuyết tật.
Thời kỳ đầu chỉ vì thu hút đầu tư bằng mọi giá, không sàng lọc kỹ nên bi
kịch đã xảy ra: vốn nhà nước bị nước ngoài thôn tính, công nhân bị đánh
đập, đặc biệt là môi trường bị xâm phạm nghiêm trọng... Ngày nay, khi
Nhà nước tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển, thì hình
ảnh các chủ DN có hàng trăm héc ta đất, đi xe ô tô cả chục tỷ đồng, có
những biệt thự hàng chục triệu USD, có máy bay riêng... lại trở thành
hình ảnh của sự giàu có, hấp dẫn không ít người. Gần đây nhất, do nhiều
lý do, không ít "đại gia" có tài sản hàng chục ngàn tỷ đồng lâm vào nợ
nần chồng chất, nguy cơ phá sản đang cận kề, lại làm cho những tiêu chí
phồn thịnh của mỗi cá nhân thay đổi.
Nói những chuyện trên đây để thấy rằng,
sự tác động của khuyết tật kinh tế đối với xã hội rất lớn, không chỉ
giới hạn trong một thời gian nhất định, không chỉ trong một tầng lớp xã
hội mà nhiều khi kéo dài nhiều năm, tác động đến nhiều tầng lớp.
Như đã nói, do xu hướng toàn cầu hóa
kinh tế nên hệ lụy của khuyết tật kinh tế cũng mang tính toàn cầu. Người
ta đang nói đến việc bản đồ kinh tế thế giới đã được vẽ lại với những
thay đổi vừa ngoạn mục vừa đau đớn: những mô hình kinh tế tưởng là chuẩn
trong một thời gian dài nay lung lay và sụp đổ, những nền kinh tế mạnh
nhất nhì toàn cầu đang bị đè nặng dưới gánh nợ khổng lồ, phải ngửa tay
nhờ các nước khác vốn lép vế lâu nay giúp đỡ. Vì vậy mà lý luận về kinh
tế nói chung cũng đang được thay đổi. Có nhiều học thuyết kinh tế đang
tiếp tục được hoàn thiện nhưng cũng có nhiều học thuyết bị phá sản do
thực tế diễn biến phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Thể chế kinh
tế và các học thuyết kinh tế cũng phải thay đổi, bộ môn kinh tế học ở
các viện nghiên cứu, các trường đại học cũng phải thay đổi, nhằm điều
chỉnh, hạn chế cũng như lý giải những khuyết tật kinh tế.
Đối với nước ta, dù là kinh tế có yếu tố
thị trường thì vấn đề giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập chủ
quyền, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải là
nhiệm vụ số một. Bởi vậy, việc khắc phục những khuyết tật kinh tế hiện
nay là bắt buộc và cấp bách. Việc cần phải làm ngay là hoàn thiện, bổ
sung hệ thống thể chế kinh tế. Đồng thời với đó là phải tái cơ cấu lại
nền kinh tế, tạo những điểm nhấn, những khâu đột phá, từ đó nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Việc định vị lại các tập đoàn kinh
tế nhà nước với chức năng cụ thể cùng với việc công khai, minh bạch,
tiết kiệm và cắt giảm chi tiêu ngân sách là việc cũng phải làm ngay. Do
đó, 5 mục tiêu, 13 giải pháp mà Nhà nước đưa ra khi tái cơ cấu tổng thể
nền kinh tế được xã hội đặc biệt quan tâm.
Bài học sâu sắc trong điều hành kinh tế
là phát hiện sớm những khuyết tật kinh tế phát sinh để xử lý tình huống,
đồng thời có tầm chiến lược để hoạch định tương đối chính xác xu hướng
vận động của nền kinh tế. Nhà nước phải xử lý nhanh và kiên quyết những
biểu hiện thôn tính vốn nhà nước cũng như những toan tính trục lợi của
các nhóm lợi ích làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, an toàn, ổn định xã hội.
Các "đại gia" có những đóng góp cho nền kinh tế nhưng không có nghĩa họ
có thể lũng đoạn xã hội. Việc điều chỉnh hệ thống thể chế kinh tế không
có nghĩa chỉ ưu tiên các chủ DN mà phải bảo đảm sự hài hòa lợi ích đất
nước, người dân và lợi ích DN. Bài học Vinashin gióng lên tiếng chuông
báo động về sự ảo tưởng siêu dự án, siêu đầu tư và siêu quyền lực kinh
tế khi nằm trong tay một nhóm DN. Công bằng cho mọi DN trên cơ sở luật
pháp không bao giờ thừa, vì nó hạn chế việc tạo ra những siêu quyền lực
kinh tế, tránh được những hệ lụy về kinh tế cũng như về xã hội. Điều
cuối cùng chúng tôi muốn nói đến là bài học về tư duy lãnh đạo kinh tế ở
các cấp. Không thể có sự quá tin cậy đến mức giao khoán quyền lực kinh
tế cho một cá nhân hay một nhóm, cũng không có chuyện buông lỏng quản
lý, hoặc ngược lại là hành chính hóa quản lý kinh tế. Kinh tế có đặc thù
của thị trường, có quy luật nhưng thực tế sự vận động kinh tế ngày nay
cũng đã phá vỡ nhiều quy luật được đúc kết trước đó. Quản lý kinh tế có
những nguyên tắc nhưng cũng năng động, có độ mở để điều chỉnh theo thực
tế... Không có mô hình kinh tế nào chuẩn cho mọi thời đại, mọi quốc gia.
Quản lý kinh tế cũng vậy!
TÔ PHÁN (HÀ NỘI MỚI)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét