Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013
Đôi nét về trường phái kinh tế học cổ điển
23:35
Hoàng Phong Nhã
No comments
Trường phái Kinh tế học cổ điển
hay Kinh tế chính trị cổ điển là một trong những xu hướng tư tưởng kinh
tế tiến bộ, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển các luận
thuyết kinh tế.
Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn lưu
giữ ý nghĩa đến tận ngày nay. Xu hướng tư tưởng của trường phái cổ điển
bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 17 và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ 18 đến
nửa cuối thế kỷ 19.
Những người sáng lập
Người đại diện đầu tiên và được xem là
ông tổ của kinh tế cổ điển là William Petty (1623 – 1687), người Anh.
Những công trình khoa học của ông chuyên về lĩnh vực thuế, hải quan và
thống kê. Là người được K. Marx đánh giá cao qua các phát minh khoa học
kinh tế.
Những tên tuổi lớn của trường phái này
gồm Adam Smith (1723-1790), David Ricardo (1772-1823), Thomas Malthus
(1766-1834), John Stuart Mill (1806-1873). Quan điểm về khoa học kinh tế
của họ, giống như các nhà nghiên cứu trước đó, là khoa học về sự giàu
có và cách thức nhân rộng của cải lên.
Phương pháp luận
Trường phái cổ điển đối lập với chủ nghĩa
trọng thương trên nhiều phương diện, trong đó sự khác biệt biểu hiện ở
phương pháp luận và đối tượng nội dung các luận thuyết. Thực tiễn giai
đoạn phát triển kinh tế công xưởng lên công nghiệp hóa thể hiện sự trỗi
dậy của lực lượng doanh nghiệp hoạt động trong sản xuất công nghiệp, đẩy
hoạt động buôn bán và cho vay vào hàng thứ yếu. Với lý do đó đối tượng
nội dung của nghiên cứu kinh tế học chuyển từ lĩnh vực giao thương sang
lĩnh vực sản xuất. Phương pháp nghiên cứu dựa trên việc đề xuất các định
đề thu nhận từ các quy luật sản xuất có thể quan sát. Có thể nói,
trường phái cổ điển biến kinh tế chính trị thành một môn khoa học thực
sự, nghiên cứu những vấn đề kinh tế về cạnh tranh tự do.
Đóng góp quan trọng của trường phái là
đặt phạm trù lao động – lực lượng khởi tạo nền kinh tế, và phạm trù giá
trị kinh tế – sự biểu hiện của giá trị chung, vào trung tâm của nghiên
cứu kinh tế; đã đề ra ý tưởng tự do kinh tế; nhiều tác phẩm khoa học về
các vấn đề giá trị thặng dư, lợi nhuận, thuế, địa tô được trình bày.
Chính từ trường phái này đã sản sinh ra môn khoa học kinh tế.
Những đặc điểm riêng biệt
1. Không công nhận chính sách bảo hộ mậu
dịch của nhà nước và chú trọng phân tích các vấn đề của lĩnh vực sản
xuất trong sự tách biệt khỏi lĩnh vực giao thương; đề xuất và áp dụng
các phương pháp nghiên cứu tiến bộ như phương pháp nguyên nhân-hậu quả,
suy diễn, quy nạp, logic trừu tượng. Tuy nhiên, việc đặt ra sự đối
nghịch giữa hai lĩnh vực sản xuất và giao thương đã làm cho các nhà kinh
tế học cổ điển đánh giá không đầy đủ những liên quan mật thiết giữa hai
lĩnh vực đó, trong đó có ảnh hưởng của các yếu tố giao thương lên quá
trình sản xuất.
2. Dựa trên phương pháp phân tích nguyên
nhân-hậu quả, tính toán các chỉ số kinh tế trung bình, các nhà “cổ điển”
tìm cách làm sáng tỏ cơ cấu hình thành giá trị hàng hóa. Họ cho rằng
dao động của giá cả trên thị trường không liên quan đến “bản chất tự
nhiên” của tiền và số lượng của chúng, mà liên quan đến các chi phí sản
xuất, hay nói cách khác, đến số lượng lao động bỏ ra.
3. Phạm trù giá trị vào thời đó được đánh
giá là mấu chốt của phân tích kinh tế, là gốc rễ để nảy mầm các phạm
trù khác. Vấn đề giá trị hàm chứa các câu hỏi như sau: giá trị biểu hiện
giống như một hiện tượng và các dạng thức của nó thế nào? Cơ sở, nguồn
gốc hay nguyên nhân nào của giá trị? Giá trị có đại lượng hay không và
cách xác định đại lượng đó như thế nào? Cái gì có thể dùng để đo giá
trị? Giá trị thực hiện chức năng nào trong lý thuyết kinh tế? Ngoài ra,
việc đơn giản hóa phân tích và hệ thống hóa đã làm cho khoa học kinh tế
hướng đến phát minh các quy luật mang tính cơ học, tương tự như trong
vật lý học, nghĩa là không tính đến các yếu tố tâm lý, đạo đức, luật
pháp và các yếu tố xã hội khác.
4. Tăng trưởng kinh tế và phồn thịnh xã
hội được cho là không phải dựa vào nguyên tắc xuất siêu, mà là sự năng
động và cân bằng trạng thái nền kinh tế quốc gia. Trong vấn đề này các
nhà “cổ điển” không vận dụng các phương pháp phân tích toán học hay mô
hình toán học để có thể chọn ra phương án tối ưu trong số các phương án
về tình trạng kinh tế. Trường phái cổ điển cho rằng cân bằng trong kinh
tế là có thể đạt được một cách tự động theo quy luật thị trường của
Jean-Baptiste Say
5. Từ lâu tiền tệ được cho là của con
người tạo ra một cách chủ ý. Đến giai đoạn của trường phái cổ điển tiền
tệ được cho là một dạng hàng hóa tách biệt từ trong thế giới hàng hóa,
và chúng không thể bị thay thế bởi những thỏa thuận giữa mọi người. Tuy
nhiên, chức năng của tiền chỉ được đánh giá là phương tiện trao đổi mang
tính kỹ thuật.
Các giai đoạn phát triển
Vấn đề xác định giai đoạn phát triển
trường phái cổ điển được xem xét từ lâu. Thời điểm mở đầu của trường
phái này được chấp nhận theo quan điểm của K. Marx và dường như không
gây tranh cãi trong giới nghiên cứu lịch sử kinh tế. Tuy nhiên thời điểm
kết thúc của nó thì Marx chỉ hạn chế bằng những tác phẩm của A. Smith
và D. Ricardo. Các luận thuyết của các nhà nghiên cứu tiếp theo không
được Marx công nhận là thuộc về trường phái này, và Marx gọi đó là Kinh
tế chính trị tầm thường, mà những người đứng đầu của khuynh hướng này là
Th. Malthus và J. B. Say. Quan điểm trên của Marx không được hưởng ứng
bởi các nhà nghiên cứu khác, ví dụ như J. K. Gelbreyt – giáo sư trường
đại học tổng hợp Harvard. Ông cho rằng ý tưởng của Smith và Ricardo vẫn
còn tiếp tục phát triển đến tận giữa thế kỷ 19 với những tác phẩm nổi
tiếng của J. S. Mill . Ý kiến này được các nhà nghiên cứu lịch sử tư
tưởng kinh tế Ben Celigmen, P. Samuelson và M. Blaug công nhận. Dựa vào
những đặc điểm chung, đúc kết từ các luận thuyết của các nhà nghiên cứu
tiêu biểu, có thể xem cách phân chia giai đoạn phát triển của trường
phái này như sau:
* Giai đoạn 1:
Từ cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, bắt đầu bằng những tác phẩm lý luận
của U. Petty – người Anh, và P. Buagilber – người Pháp, với những ý
tưởng đối lập chủ nghĩa trọng thương. Đó là những người đầu tiên tìm
cách giải thích nguồn gốc giá trị của hàng hóa và dịch vụ (bằng cách xác
định lượng thời gian lao động và công lao động đã bỏ ra trong sản
xuất). Họ đã khẳng định ý nghĩa tiên quyết của nguyên tắc tự do đối với
hoạt động kinh tế trong chính lĩnh vực sản xuất vật chất.
Tiếp theo đó là sự xuất hiện chủ nghĩa
trọng nông – một khuynh hướng thuộc về trường phái cổ điển mà đứng đầu
là Francois Quesnay và Anne-Robert-Jacques Turgot – với những phê phán
sâu sắc và đầy luận chứng đối với chủ nghĩa trọng thương, kéo dài trong
1/3 khoảng giữa thế kỷ 18.
Trong giai đoạn đầu tiên này chưa có nhà
kinh tế học đại diện nào có được lý luận đầy đủ về phát triển hiệu quả
sản xuất trong công nghiệp và cả trong nông nghiệp.
* Giai đoạn 2:
kéo dài trong 1/3 khoảng cuối thế kỷ 18, là giai đoạn gắn liền với tên
tuổi của nhà kinh tế học vĩ đại Adam Smith với tác phẩm “Sự giàu có của
các dân tộc” (1776), đã đưa Kinh tế chính trị đến mức hoàn chỉnh của một
môn khoa học. Những khái niệm “con người kinh tế” và “bàn tay vô hình”
đã thuyết phục được nhiều thế hệ nghiên cứu kinh tế. Đến tận những năm
30 của thế kỷ 20 nhiều nhà kinh tế học còn tin vào sự đúng đắn của quan
điểm laisez faire – không có can thiệp nhà nước vào tự do cạnh tranh.
Những luận thuyết của A. Smith đã trở thành cơ sở để xuất hiện các lý
thuyết hiện đại về hàng hóa, tiền tệ, tiền công lao động, lợi nhuận, tư
bản, lao động sản xuất và các phạm trù khác.
* Giai đoạn 3:
trong nửa đầu thế kỷ 19, là giai đoạn chuyển bước từ sản xuất dạng công
xưởng lên dạng nhà máy với việc cơ khí hóa các công đoạn sản xuất, diễn
ra đặc biệt ở các nước phát triển như Anh và Pháp. Tiếp tục tư tưởng
của Smith là các nghiên cứu của D. Ricardo, T. Malthus, N. Cenior, J.B.
Say, F. Bastia
* Giai đoạn 4:
trong nửa cuối thế kỷ 19 – giai đoạn kết thúc của trường phái cổ điển
với những tác phẩm của J. C. Mill và K. Marx. Tuy trong giai đoạn này
bắt đầu hình thành khuynh hướng tư tưởng mới mà sau này được gọi là
trường phái tân cổ điển, nhưng các lý luận phổ biến của các nhà cổ điển
vẫn còn ảnh hưởng rất lớn trong phạm vi nghiên cứu kinh tế thời gian
này.
Các nguyên lý cơ bản
* Con người chỉ được xem xét trên phương
diện kinh tế với một nguyện vọng duy nhất: hướng đến lợi ích tư hữu để
nâng cao vị thế của mình. Đạo đức, văn hóa, truyền thống và nhiều thứ
khác không nằm trong tầm quan sát.
* Mọi chủ thể tham gia vào quá trình kinh
tế đều tự do và công bằng trước pháp luật, kể cả trên phương diện khả
năng tiên liệu trước các vấn đề kinh tế.
* Mọi chủ thể kinh tế đều nhận được thông
tin đầy đủ về giá cả, mức lợi nhuận, tiền công lao động, giá thuê đất ở
bất kỳ thị trường nào, ngay tại thời điểm hiện tại hay trong tương lai.
* Thị trường đảm bảo ổn định tài nguyên: lao động và vốn có thể lập tức được đáp ứng tại nơi cần chúng.
* Độ đàn hồi của lượng lao động theo giá
tiền lương là không dưới 1, nghĩa là tiền công lao động tăng kéo theo
tăng số lượng lao động; ngược lại, tiền công giảm thì lượng lao động
cũng giảm.
* Mục đích duy nhất của nhà tư bản là tối đa lợi nhuận từ vốn.
S.T
* Trên thị trường lao động tồn tại sự mềm
dẻo tuyệt đối của tiền công lao động, nghĩa là giá lao động chỉ được
xác định bởi cung và cầu của thị trường lao động.
* Yếu tố quan trọng làm tăng số lượng của cải là tích lũy tư bản.
* Cạnh tranh phải là hoàn hảo, và nền
kinh tế phải là hoàn toàn giải phóng khỏi sự can thiệp nhà nước, ở đó
“bàn tay vô hình” sẽ điều phối tài nguyên một cách tối ưu.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét