Chế
độ phong kiến (và trước nữa) mọc lên từ nền văn minh nông nghiệp, trải
hàng chục ngàn năm, nay đã hết vai trò lịch sử khi loài người chuyển
sang nền văn minh công nghiệp dành cho một chế độ mới. Do quá trình tàn
lụi kéo dài hàng thế kỷ, chế độ cũ vẫn để lại những tàn dư, biến tướng,
kể cả trá hình, nhất là ở phương Đông. Đó là nơi chế độ phong kiến tồn
tại quá lâu, hơn nữa nó bị lật đổ không phải bằng sự lớn mạnh của giai
cấp tư sản, do vậy sự xoá bỏ khó mà triệt để - nhất là xoá bỏ nền kinh
tế tiểu nông: nơi sản sinh và nuôi dưỡng ý thức hệ phong kiến.
“Thích làm quan”?
Có
ý kiến chê trí thức thời nay mang tâm lý “thích làm quan”, mà ít nêu
cao sĩ khí, ít dám phản biện. Nếu đúng vậy, té ra họ chẳng khác gì lớp
tiền bối thời phong kiến – là thời các cụ ta đi học, đi thi, chỉ để làm
quan. Từ đó, “thăng quan, tiến chức” phải là nỗ lực cả đời.
Xã
hội xưa xếp người có học vấn cao vào giai tầng sĩ phu. Về mặt này, sĩ
phu tương ứng với trí thức trong xã hội dân chủ. Tuy nhiên, còn có những
khác biệt, khiến sĩ phu thời trước và trí thức thời nay chưa thật đồng
nhất về khái niệm. Nhưng làm quan thời xưa hoàn toàn có thể so sánh với
làm công chức cao cấp thời nay; do vậy có thể gọi chung họ là tầng lớp
quan chức.
Chưa
rõ trí thức thời nay có “thích làm quan” đến đâu, nhưng một sự thật là
trong vòng nửa thế kỷ vừa qua hầu hết trí thức của chế độ ta đều “có
chân” trong biên chế. Khi biên chế trở nên chật chội thì họ... “kiên trì
phấn đấu” để chen chân vào. Cũng chưa rõ trí thức thời nay có “nêu cao
sĩ khí” và “dám phản biện” hay không, nhưng rất gần đây vẫn có bài viết
trên báo nêu thẳng thừng: Không có tư duy phản biện không đáng gọi là
trí thức.
Dẫu
vậy, sĩ phu hay trí thức đều tự biết: Đã là quan chức, xin hãy quên đi
cái chuyện sĩ khí, hay phản biện. Bởi vì, ở đâu và thời nào cũng vậy, hệ
thống quan chức phải có kỷ cương, trên, dưới. Nguyên tắc cao nhất là
cấp dưới thực hiện chỉ thị của cấp trên và mọi cấp phải nói và làm theo
cấp tối cao – ngày xua là vua, nay là một tập thể. Với quan chức, cao cả
nhất là liêm khiết; dũng cảm nhất là dám từ quan để có thể giữ khí tiết
và hành xử theo lương tâm. Thế thôi!
Do
vậy, hơn ai hết, khi thấy mình bị phê là “thích làm quan” - hàm ý thủ
tiêu sĩ khí, tránh né phản biện – nếu còn chút phẩm cách trí thức, họ
không khỏi tự vấn. Nhưng, dựa trên hành động thực tế, họ cũng khó mà cãi
lại.
Liệu tự thân có sửa được?
Nếu
“thích làm quan” đã thấm vào máu thì nay khó sửa, nhưng nếu muốn vẫn
sửa được – vì đó không phải tật bẩm sinh. Trái lại, nếu do chế độ phong
kiến chỉ cho phép sĩ phu tiến thân trong chốn quan trường, thì nếu một
khi còn chế độ này (hoặc tàn dư, biến thể của nó), trí thức vẫn chỉ có
con đường làm quan, không sao sửa được.
Suy đi, nghĩ lại một chút...
Suy
đi... Thời thuộc Pháp, phong kiến vẫn còn. Cụ Hồ nhận định: Xã hội Việt
Nam (khi đó) là “thuộc địa, nửa phong kiến”. Vậy mà đa số trí thức đã
không chọn con đường làm quan, dù làm quan với chính quyền “bảo hộ” hay
với Nam Triều. Họ làm nghề tự do. Ví dụ, đa số bác sĩ khi đó sống bằng
hành nghề tư, kể cả các vị sau này làm bộ trưởng trong chính phủ ta
(Trương Đình Tri, Hoàng Tích Trí, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Hưởng...).
Vậy, không phải trí thức vốn dĩ có “máu làm quan”.
Rồi
nghĩ lại... Nhưng lạ thay, suốt 60 năm kể từ khi nước nhà độc lập, sách
giáo khoa Lịch Sử khẳng định chế độ phong kiến ở miền Bắc đã bị xoá bỏ
(1945 và 1955), vậy mà hầu hết trí thức - dù lớn hay nhỏ, cũ hay mới -
đều... vào biên chế. Từ đó, suốt đời họ chỉ còn một hoài bão không mấy
cao xa: mong “lên chức, lên lương”. Vậy thì, đổ tại chế độ phong kiến
cũng chưa ổn. Hay là, thử đổ tại tàn dư của nó? Để rồi coi!
Con đường độc đạo của sĩ phu xưa
Thời
phong kiến, sĩ phu được nhét vào giới trung lưu, chỉ biết một việc: đọc
sách; chỉ có một nghề: làm quan. Thời đó không một ai nhờ đọc sách mà
chiếm được vị trí thượng đỉnh (nếu muốn, phải bằng cách khác). Do vậy,
trên đầu họ là giới thượng lưu; dưới chân họ là giới hạ lưu.
Thượng
lưu gồm vua, tôn thất, công thần khai quốc hoặc tứ trụ... không cần đọc
sách vẫn có địa vị thượng đỉnh, đầy quyền uy. Còn hạ lưu, dẫu “đổ mồ
hôi, sôi nước mắt” vẫn chưa đủ no, thử hỏi tiền đâu mua sách, thì giờ
đâu đọc sách?
Giới
trung lưu mưu đồ sự nghiệp bằng đọc sách, làm quan. Muốn hay không, địa
vị của họ là phò tá thượng lưu và đè nén hạ lưu. Kịch bản cứ thế diễn
đi diễn lại cả ngàn năm, trách gì chuyện “thích làm quan” chẳng thấm vào
máu thịt?
Có
thể nói, làm quan là con đường độc đạo để sĩ phu có cuộc sống vật chất
ổn định; đặng nếu có tài thì trổ ra với đời. Thi thố tài năng là cái
bệnh cố hữu của người có thực tài, do vậy mà Đào Duy Từ thà chết cũng cứ
vượt đèo Ngang vào “đàng trong” phò chúa Nguyễn, mặc cho “đàng ngoài”
gọi đó là “ngụy”. Còn Ngô Thì Nhậm bất chấp hiểm nguy cứ phục vụ “ngụy”
Tây Sơn vì được vua Quang Trung biết tài. Không làm quan, chỉ còn cách
“ở ẩn”, chờ thời – nghĩa là chờ “minh chủ” xuất hiện, để ra... làm quan.
Khổng Minh và La Sơn Phu Tử đã từng ở ẩn, nhưng đâu có dễ. Ông trạng
Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng là xa lánh thế tục nhưng đã từng là vị quan
to của triều Mạc.
Chế
độ phong kiến cứ phải tồn tại đủ thời gian mà quy luật dành cho nó.
Vua, quan là sản phẩm tự nhiên của chế độ này. Nhưng tại sao sĩ phu thời
đó không chọn con đường khác? Trả lời: Chưa có nền kinh tế thị trường
đúng nghĩa.
Khi chế độ phong kiến bị xoá bỏ, thì...
Còn tuỳ, nó bị xoá bỏ đến mức nào, có triệt để? Hay vẫn tồn tại ở dạng khác?
Chế
độ phong kiến phương Tây bị cách mạng tư sản xoá bỏ từ rất sớm, trước
chúng ta nhiều thế kỷ. Đây là xoá bỏ đúng quy luật; do vậy, rất triệt
để. Xoá bỏ chính quyền chỉ cần một tháng; xóa bỏ cơ chế kinh tế cần vài
thập niên (cải cách điền địa, biến địa chủ thành tư sản kinh doanh nông
nghiệp); nhưng xoá bỏ ý thức hệ cần nhiều thời gian hơn – dài hay ngắn
tuỳ theo tốc độ phát triển công nghiệp và mức hoàn chỉnh của kinh tế thị
trường. Mặt này, Tây thuận lợi hơn Ta.
Còn
chế độ phong kiến phương Đông kéo dài quá lâu, vì giai cấp tư sản bị
đạo Khổng thít cổ, không sao lớn đủ tầm vóc để thay thế vai trò lịch sử
của giai cấp phong kiến.
Sự
xâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp tuy có tạo điều kiện
để giai cấp tư sản nước ta hình thành, nhưng sau 80 năm mà nó vẫn quặt
quẹo. Chính do vậy, giai cấp công nhân cũng chưa ra hình hài. Để tiêu
diệt chế độ phong kiến, chúng ta đã dùng cách khác, mà không theo quy
luật do Mác tìm ra.
Hễ
kinh tế tiểu nông còn mênh mông, tất ý thức hệ phong kiến còn bám rễ và
trường tồn. Trong hoàn cảnh đó, trí thức nước ta vẫn mang dáng dấp sĩ
phu thời phong kiến về cả thân phận và cách hành xử, không thể so sánh
với trí thức ở những nước đã trải qua cách mạng tư sản được.
Cụ
Hồ từng nói ở một Đại hội Đảng (đại ý): Đặc điểm lớn nhất của cách mạng
nước ta là “bỏ qua” giai đoạn tư bản chủ nghĩa, “tiến thẳng” lên chủ
nghĩa xã hội. Tình hình nhiều năm sau đó, tới 1986, chứng tỏ những người
tận tai được nghe trực tiếp câu trên chỉ nhăm nhăm “bỏ qua” để “tiến
thẳng”, mà không mấy ai hiểu đầy đủ thế nào là “đặc điểm lớn nhất” trong
lời Cụ nói.
Thật
vĩ đại, khi các bậc sĩ phu thời Đông Kinh Nghĩa Thục không những không
làm quan mà còn nhận ra sức sống dai dẳng của ý thức hệ phong kiến đang
là lực cản dân tộc ta tiến lên. Từ năm 1906, các cụ đã chủ trương phải
để thanh niên trí thức nước ta được “tắm gội bằng gió Mỹ, mưa Âu”. Qua
các sách “tân thư”, các cụ hiểu ra đa số trí thức bên trời Tây hành nghề
trong đủ mọi lĩnh vực dân sự, chỉ một thiểu số làm quan chức. Nay thì
ai cũng biết: Ở các nước này, một nhà khoa học đang ráo riết nghiên cứu
để hoàn thành công trình “cả đời người” thì đố ai thuyết phục nổi ông ta
“bớt chút thì giờ vàng ngọc” để làm bộ trưởng. Nếu đang là bộ trưởng,
ông ta dám quẳng bỏ chức tước nếu có bất đồng chính kiến với thủ tướng
hay tổng thống. Chế độ này mở ra vô số con đường cho mọi người tiến thân
qua sự đánh giá của kinh tế thị trường.
Còn
kinh tế tiểu nông trong chế độ phong kiến nặng về tự cung, tự túc; do
vậy nó rất kỳ thị kinh tế thị trường. Nó gọi người làm nghề thương mại
là “con buôn”. Do vậy, chế độ vua quan và kinh tế tự cấp tiểu nông là
hai thanh ray khiến đoàn tàu sĩ phu chỉ có một ga đến: ga Làm Quan.
Vài điều lạ thời hậu phong kiến... nhưng dễ hiểu
Sách
chính thức nói rằng chính quyền phong kiến ở nước ta bị thủ tiêu từ
giữa thập niên 40, còn giai cấp địa chủ bị xoá bỏ giữa thập niên 50.
Điều lạ là đến nay (thế kỷ XXI), vẫn còn thấy nhan nhản trường hợp trí
thức thà bỏ nghiên cứu nếu có cơ hội làm quan. Có người ham làm quan tới
mức dám đạo văn trong luận án tiến sĩ, thậm chí dám sử dụng bằng giả.
Nhưng lạ hơn nữa: Đã làm quan, sao không ngày đêm “lo việc
quan” để mà thăng quan? Sao cứ dây dưa, luyến tiếc cái danh trí thức?
Một bài nhan đề Trí thức là trí thức - Cán bộ là cán bộ có lẽ để phản ánh và phản đối tình trạng này.
Rất
dễ lấy những ví dụ, đại loại như... Ông thạc sĩ này đã làm vụ trưởng,
lại vẫn loay hoay lo kiếm cái bằng tiến sĩ ngay khi đang đương chức. Vị
tiến sĩ kia được bổ nhiệm thứ trưởng vẫn “phấn đấu” để có cái danh phó
giáo sư. Trong những hội nghị - dù không có ý nghĩa gì về khoa học (ví
dụ, lễ trao huân chương: đang diễn ra khắp nơi) - người ta cứ vô tư
“kính thưa giáo sư - bộ trưởng” mà người kính thưa và được kính thưa đều
không cần ngượng. Cũng lạ chứ! Bởi vì, để hoàn thành công việc của cả
hai chức vụ rất xa nhau này thì dẫu không ăn, không ngủ, vẫn phải có
“tài thánh” mới làm nổi. Nhân tiện, dưới đây xin bàn vài lời về các vị
“thánh”.
Nhưng
càng lạ hơn... té ra, ở những cương vị “trăm công, ngàn việc” này, họ
lại càng dễ dàng thăng danh về mặt khoa học mà một trí thức thật sự phải
tốn vô số mồ hôi chưa chắc làm nổi.
Thần thánh: Một sản phẩm đặc trưng của tư tưởng tiểu nông, phong kiến
Chế độ phong kiến sinh ra một số sản phẩm tinh thần có vai trò chi phối cách hành xử của sĩ phu, quan chức.
Ví
dụ, chủ nghĩa dân tộc. Một mặt, nó giúp củng cố tinh thần yêu nước,
chống ngoại xâm, bảo vệ ngai vàng; nhưng khi trở thành cực đoan, nó sẽ
bài ngoại, thậm chí kích động một dân tộc đi xâm lược dân tộc khác. Dân
ta trải hàng ngàn năm là nạn nhân của chủ nghĩa này.
Trong nền kinh tế tiểu nông, những cá nhân lỗi lạc hoặc
những lượng siêu nhiên dễ bị biến thành thần thánh, được đặt lên bệ thờ,
hoặc đưa vào lăng tẩm. Phía dân chúng cần thần thánh để cầu xin ân huệ
mong cải thiện số phận; nhưng phía thống trị cũng cần có thần thánh để
giao nhiệm vụ phù hộ cho sự hưng vượng của đương triều. Do vậy, nếu
thiếu thần thánh, cả hai phía đều có nhu cầu tạo ra thần thánh mới, kể
cả nhập khẩu. Chúng ta đã có đức thánh Trần, đức thánh Gióng... mà vẫn
rước cả đức thánh Quan tận bên Tầu sang. Các vị đều xuất thân đại danh
tướng, lừng lẫy một thời. Còn thần thì nhiều vô kể.
Chỉ
vua mới có quyền thay Trời phong thần, phong thánh. Do vậy, thần thánh
cũng có nhiều phẩm trật, thứ bậc, và tất nhiên có nhiệm vụ với vua – như
bất cứ ai được phong. Sẽ tới lúc việc phong thần thánh phải đi vào quy
chế, giao cho bộ Lễ thực hiện. Ngoài trường hợp phong bất thường, đặc
cách, bộ Lễ phải hàng năm lục tra các bản thần phả ở đình, đền, để vua
xét công, đặng ban thêm chức mới, tước mới. Đây là cách để vua nhắc nhở
uy quyền của mình trong lòng dân. Khi người dân tưng bừng mở lễ hội rước
một sắc phong về đình làng, họ cũng kính cẩn nhiều lần tung hô “vạn
tuế”. Cũng dễ hiểu, một triều đại mới lên (lòng dân chưa phục) hoặc một
triều đại đang suy (lòng dân ly tán) thì càng phải lạm phát các sắc
phong, thậm chí phải tạo ra vị thánh mới cho phù hợp với tình hình mới.
Chính đây là dịp để sĩ phu tâng công với đức vua: Họ phải thảo ra những
văn bản hết lời tán tụng; đồng thời họ cũng “giáo dục” để dân thấm nhuần
ơn vua bằng những lễ nghi đón sắc thật trọng thể. Cuối cùng, họ giúp
dân thảo ra lá sớ tạ ơn...
Chớ
nên coi thường tàn dư của ý thức hệ phong kiến. Nước Đức vào giữa thế
kỷ XX dù đã đạt trình độ công nghiệp hoá rất cao, vậy mà Hít-le vẫn lợi
dụng được chủ nghĩa dân tộc cực đoan, từ đó dân Đức tôn tác giả lên bậc
“thánh sống”, gây ra biết bao tai hoạ cho thế giới và cho chính dân Đức.
Một vị thánh vua cũng phải kính nể
Đó
là đức thánh Khổng (Khổng Tử), xuất thân đại trí thức nên cũng thích
làm quan như ai, nhưng vì không được trọng dụng mà sau khi mất đã được
tôn thánh. Sinh thời, ngài sống long đong, không kém số phận lận đận của
Các Mác – cũng là một đại trí thức, cũng sáng tạo học thuyết, cũng lưu
lạc nhiều nước...
Khổng
tử đi đi du thuyết các nước thì nói chẳng ai thèm nghe. Nhưng về sau,
đám vua quan nhận ra học thuyết của ngài giúp phát triển và củng cố chế
độ phong kiến, nên đề cao. Chế độ càng suy yếu, thuyết của ngài càng
được đề cao.
Thuyết của đức thánh Khổng có thể chia nhiều phần:
- Phần
dạy đạo đức cá nhân, cách ứng xử cá nhân (kể cả đạo đức cầm quyền): sẽ
trường tồn vì hầu hết đúng với mọi nơi, mọi thời; nếu cần chỉ phải sửa
đổi chút ít về khái niệm (ví dụ, câu kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân: điều
gì mình không muốn thì chớ có làm cho người khác - sẽ không bao giờ
sai). Khái niệm về Đức và Tài của ngài được cô đọng bằng “Tiên học lễ,
hậu học văn”; về sau có người đổi thành Hồng và Chuyên... v.v. Phụ nữ
cần tứ đức: Dung, Công, Ngôn, Hạnh... v.v.
- Phần
dạy tu dưỡng làm người để trở thành hiền nhân, quân tử: rất được sĩ
phu, trí thức tâm niệm (ví dụ, làm người phải tu thân, tề gia...; phải
có Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Áp dụng cho người làm tướng, cụ Hồ đổi
thành Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm).
- Phần dạy cai trị sao cho hợp đạo đức, được lòng dân...
- Phần dạy củng cố chế độ phong kiến. Điển hình, ngài dạy: Ái Quốc thì phải Trung Quân; rất được giai cấp thống trị truyền bá...
|
Dân
thường, sĩ phu, vua quan xưa đều ca ngợi toàn phần hoặc từng phần học
thuyết của Khổng Tử. Sau 1949, tại quê hương ngài, số phận học thuyết
này cũng “ba chìm, bảy nổi”.
Khi
quan niệm “trung quân – ái quốc” còn thịnh, giai cấp phong kiến đòi hỏi
mọi người phải thấm nhuần rằng phò vua chính là giữ nước. Vua với nước
là một; hễ vua còn thì nước còn. Do vậy, khi gian thần cướp ngôi thì
trung thần mang vua đi trốn để có “danh chính” mà cướp lại ngai vàng. Dù
quân xâm lược đã chiếm được nước nhưng chưa bắt được vua thì mưu đồ
phục quốc chưa thể bị dập tắt. Tội phản quốc và tội bất trung được coi
như nhau...
Học thuyết và chủ nghĩa bị biến thành “đạo”
Đây
cũng là một đặc trưng của xã hội tiểu nông, phong kiến. Người thực hiện
việc này không ai khác mà chính là tầng lớp sĩ phu dưới sự sai phái của
vua. Vốn ham đọc sách, họ hào hứng tìm hiểu các học thuyết, bổ sung và
phát triển chúng theo hướng củng cố quyền thống trị của giới thượng lưu.
Là quan chức, họ phải tuân lệnh. Đổi lại, họ được giới thượng lưu tín
nhiệm, gia ân.
Học
thuyết là sản phẩm của những trí thức lớn. Học thuyết chính trị cũng
vậy. Nhiều học thuyết chính trị được lớp trung lưu bổ sung, phát triển
để thành một chủ thuyết (chủ nghĩa). Khi dân trí quá thấp, nhiều chủ
nghĩa bị lợi dụng để biến thành “đạo” (tôn giáo), nhằm mê hoặc khối quần
chúng khổng lồ.
Xa
xưa nhất có các học thuyết xử thế mà tác giả là đức Như Lai, Giê-su,
Ala... đã bị biến thành đạo (tôn giáo), thậm chí được giới thống trị coi
là quốc đạo. “đạo”: đạo Phật (Phật giáo), đạo Gia Tô (Công giáo), đạo
Hồi (Hồi giáo)...
Sau
này có Khổng Tử, Mác, Tôn Trung Sơn, Lênin... là tác giả của những chủ
nghĩa khác nhau, nhưng chỉ có thuyết của Khổng Tử biến thành đạo, vì nó
ra đời trong chế độ phong kiến.
Trên
giấy (tức là về mặt lý thuyết) mọi chủ nghĩa đều nêu lên các lý tưởng
cao đẹp, nhân bản. Về cấu trúc: học thuyết nào cũng chặt chẽ, logic, đầy
thuyết phục. Nó hứa hẹn cả tính hiện thực. Khi giác ngộ một chủ nghĩa,
người ta dám hi sinh cả tính mạng để bảo vệ và thực hiện lý tưởng của
nó. Nhưng khi bị biến thành một đạo, người sáng lập sẽ được tôn ngôi
giáo chủ (hoặc thánh), học thuyết thành giáo lý (cứng quèo, khó ai dám
sửa), mọi người xử sự như tín đồ...
Trong
lịch sử, khi một chủ thuyết được coi là quốc đạo, các đạo khác thường
bị đàn áp. Biểu hiện đặc trưng của một quốc đạo là nó được vào chương
trình dạy trong trường như một môn bắt buộc.
Học thuyết Khổng tử
Dưới
chế độ phong kiến phương Đông, học thuyết cao cả của Khổng tử đã bị
biến thành “đạo”, gọi là Khổng giáo (đạo Khổng, hay đạo Nho), từng có có
địa vị quốc đạo, độc tôn ở Trung Hoa và Việt Nam.
Trong
chế độ phong kiến, giới thượng lưu có thể sùng đạo ở mức độ nào đó,
nhưng không cần hiểu biết thấu đáo giáo lý, lại càng không phải là giới
nghiên cứu phát triển giáo lý. Điều duy nhất cần thiết là họ nhận ra đạo
này củng cố địa vị cầm quyền của họ. Còn việc nghiên cứu, bổ sung, phát
triển giáo lý, họ giao cho giới trung lưu, tức sĩ phu. Trong tình hình
như vậy, sĩ khí là điều hiếm hoi; còn phản biện giáo lý là chuyện không
thể có.
Tàn dư phong kiến
Thời
Hùng Vương nếu chưa phải là phong kiến thì chế độ này bám rễ ở nước ta
cũng không hề ngắn. Đến nay, nông nghiệp nước ta vẫn manh mún. Trí thức
nước ta vẫn mang dáng dấp sĩ phu: thích và buộc phải làm quan. Không ai
dám nói ý thức hệ phong kiến đã được gột sạch; có người còn nói nó chỉ
biến tướng hoặc trá hình do những nhóm lợi ích thực hiện.
Do
được du nhập từ phương Tây vào nước ta - vốn nặng căn phong kiến - nên
chủ nghĩa Mác rất dễ bị biến thành “đạo”. Đó là điều giới lý luận nước
nhà phải hết sức đề phòng. Phải đối xử với chủ nghĩa Mác như nó là một
hệ thống lý luận khoa học; phải coi Mác là nhà khoa học, nhà cách mạng
vô thần.
Tiến
bộ ngoạn mục gần đây, ai cũng thấy: Nhờ sự hình thành cơ chế thị trường
và sự ra đời của giai cấp tư sản mới (các nhà kinh doanh) mà bệnh
“thích làm quan” trong giới trí thức, khoa học, đã giảm đáng kể.
Nguồn: Chungta.com
Posted in: Nguyễn Ngọc Lanh
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét