người đã thú nhận hơn 100 tội lỗi của Giáo hội Công giáo La Mã.
Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014
BƯỚC QUA NGƯỠNG CỬA VÔ MINH ?
Vài nhận định về cuốn
Bước Qua Ngưỡng Cửa
Hy Vọng.
Trần Chung Ngọc
Trước hết,
nếu có thể, tôi xin được
tự ý đổi lại chủ đề của
tuyển tập thành “Nhận
Định về cuốn Bước Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng
Của John Paul II”, vì
“Đối Thoại Với John Paul
II” có thể nói là một
điều rất khó thực hiện
nếu không muốn nói là
bất khả thực hiện. Có ít
ra là 4 lý do để cho một
cuộc đối thoại như trên
không nên có, và không
thể thực hiện được:
1. John Paul II là chủ
chăn của 1 số tín đồ
đông đảo. Ngài ở địa vị
cao quý, sống trên nhung
lụa, và Ngài còn phải để
toàn thời gian (full
time) để phục vụ dân
nghèo theo như lời dạy
của GiêSu Kitô (Giêsu
Christ), cho nên Ngài
không thể hạ mình để đối
thoại với những cư sĩ
Phật giáo nghèo khổ, địa
vị thấp kém, coi vật
chất như huyễn, không
tiếng tăm như chúng ta.
2. Tâm cảnh (mind-set)
của 1 cư sĩ Phật giáo
bình thường, sống trước
thềm một thiên niên kỷ
mới, tự bao giờ vẫn đồng
hành với nền văn minh
nhân loại, ý thức được
những tiến bộ của khoa
học, không vướng mắc vào
những chuyện huyền hoặc
hoang đường, thật quả là
bất khả tương hợp
(incompatible) với một
tâm cảnh của thời Trung
Cổ.
3. Phật giáo chống đối
vô minh nhưng không
chống người bị màn vô
minh che phủ, và Phật
giáo quan niệm vô minh
chỉ có thể phá vỡ bằng
giáo dục và chuyển hóa
chứ không thể phá vỡ
bằng cách trực diện
chống đối.
4. Phật Pháp vốn không
tranh cải với các thế
gian pháp.
Tuy không thể đối thoại,
nhưng nếu chúng ta muốn
có vài nhận định về cuốn
Bước Qua Ngưỡng Cửa
Hy Vọng thì đây là
điều chúng ta có thể làm
được, và nên làm, vì đây
là một quyền căn bản của
chúng ta trong thế giới
tự do. Thật ra thì Giáo
Hoàng (GH) John Paul
(JP) II đáng thương hơn
là đáng trách. Thiền Sư
Nhất Hạnh có nói rằng: “Có
hiểu thì mới thương”,
cho nên, vấn đề chính là
chúng ta nên tìm hiểu
những động cơ nào đã
thúc đẩy John Paul II
viết cuốn sách trên. Và
khi hiểu rồi thì tình
thương sẽ giải quyết tất
cả, chúng ta sẽ không
còn bận tâm về những
chuyện không đáng để tâm
nữa.
Để làm công việc tìm
hiểu trên tôi đã đọc kỹ
từ đầu tới cuối cuốn
Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy
Vọng của Giáo Hoàng
John Paul II. Nhưng thay
vì làm công việc “điểm
sách”, trước hết, bỏ qua
những lời “mẹ hát con
khen hay” hoang tưởng,
thiếu thực tế, thiếu suy
nghĩ trong phần “Lời Cảm
Tạ” và “Lời Giới Thiệu”
ở đầu cuốn sách (bản
Việt ngữ), tôi xin trích
dẫn những lời John Paul
II viết về Đức Phật và
Phật giáo, rồi đi thẳng
vào nhận xét về Giáo
Hoàng John Paul II của
vài trí thức, Gia-tô
cũng như phi Gia-tô, sau
đó sẽ khai triển và bình
luận thêm về những nhận
xét này.
*
Ở trang 43, John Paul II
viết về Đức Phật như
sau:
“Đức Phật đúng khi ngài
không thấy trong việc
tạo dựng có thể có sự
cứu rỗi, nhưng ngài lầm
khi, vì lý do đó mà ngài
phủ nhận việc tạo dựng
có một giá trị nào cho
nhân loại”.
(Buddha is right when he
does not see the
possibility of human
salvation in creation,
but he is wrong when,
for that reason, he
denies that creation has
any value for humanity).
Và ở trang 85 – 86, John
Paul II viết về Phật
giáo như sau:
“Giáo lý về sự cứu rỗi
của Phật giáo tạo thành
điểm trọng yếu, hay đúng
hơn, điểm duy nhất của
hệ thống này. Tuy nhiên,
truyền thống Phật giáo
và những phương pháp dẫn
xuất từ đó, cả hai đều
có hầu như đơn độc một
“thuyết cứu rỗi qua Chúa
Kitô” (soteriology) tiêu
cực. Sự “giác ngộ” chứng
nghiệm bởi Đức Phật bắt
nguồn từ điều xác tín
rằng thế giới này là xấu
xa, là cội nguồn xấu ác
và đau khổ của nhân
loại. Để giải phóng mình
ra khỏi sự xấu ác này,
con người phải tự giải
thoát ra khỏi thế giới
này, điều này cần thiết
là phải đoạn tuyệt với
những ràng buộc nối
chúng ta với thực tế bên
ngoài - những ràng buộc
hiện hữu trong bản chất
con người, trong tâm
thức, trong thân thể
chúng ta. Càng thoát
khỏi những ràng buộc đó
bao nhiêu, chúng ta càng
thờ ơ với mọi thứ trong
thế giới, và chúng ta
càng thoát khỏi sự khổ,
sự xấu ác mà cội nguồn
là từ trong thế giới.
Chúng ta có thể tới gần
Thần Gia-tô (God) bằng
con đường này không?
Điều này không được kể
tới trong sự “giác ngộ”
mà Đức Phật đã thông
tri.
Phật giáo đại để là một
hệ thống “vô thần”. Con
người không tự giải
thoát khỏi cái xấu ác
qua cái thiện từ nơi
Thần Gia-tô; mà chỉ tự
giải thoát qua sự cất bỏ
ràng buộc với thế giới
xấu xa. Sự vô chấp rốt
ráo đó không phải là sự
hiệp thông với Thần
Gia-tô, mà gọi là Niết
Bàn, một trạng thái thờ
ơ toàn hảo đối với thế
giới. Tự cứu có nghĩa
là, trên hết, tự giải
thoát khỏi sự xấu ác
bằng cách trở thành thờ
ơ với thế giới, nguồn
gốc của sự xấu ác. Đây
là tột điểm của quá
trình tu tập tinh thần”.
(The Buddhist doctrine
of Salvation constitutes
the central point, or
rather the only point,
of this system.
Nevertheless, both the
Buddhist tradition and
the methods deriving
from it have an almost
exclusively negative
soteriology. The
“enlightenment”
experienced by Buddha
comes down to the
conviction that the
world is bad, that it is
the source of evil and
of suffering for man. To
liberate oneself from
this evil, one must free
oneself from this world,
necessitating a break
with the ties that join
us to external reality –
ties existing in our
human nature, in our
psyche, in our bodies.
The more we are
liberated from these
ties, the more we become
indifferent to what is
in the world, and the
more we are freed from
suffering, from the evil
that has its source in
the world. Do we draw
near to God in this way?
This is not mentioned in
the “enlightenment”
conveyed by Buddha.
Buddhism is in large
measure an “atheistic”
system. We do not free
ourselves from evil
through the good which
comes from God; we
liberate ourselves only
through detachment from
the world, which is bad.
The fullness of such a
detachment is not union
with God, but what is
called Nirvana, a state
of perfect indifference
with regard to the
world. To save oneself
means, above all, to
free oneself from evil
by becoming indifferent
to the world which is
the source of evil. This
is the culmination of
the spiritual process).”
Giáo hoàng Gioan Phaolồ
II (1920-2005),
người đã thú nhận hơn 100 tội lỗi của Giáo hội Công giáo La Mã.
người đã thú nhận hơn 100 tội lỗi của Giáo hội Công giáo La Mã.
Link: https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Gioan_Phaol%C3%B4_II#cite_note-15 ;http://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_c%C3%A1c_l%E1%BB%9Di_xin_l%E1%BB%97i_c%E1%BB%A7a_Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Gioan_Phaol%C3%B4_II
Chúng ta để ý rằng John
Paul II đã cố ý dùng một
số danh từ có ý nghĩa
đặc thù trong Gia-tô
Giáo, những danh từ rất
xa lạ hoặc có nghĩa khác
hẳn trong Phật giáo, để
viết về Phật giáo, thí
dụ như “Salvation = Cứu
rỗi” ; và “Soteriology =
Thuyết cứu rỗi qua Chúa
Kitô” (Soteriology = the
branch of theology
concerned with the
doctrine of salvation
through Christ (theo tự
điển) = Một ngành trong
môn Thần Học nói về
thuyết lý cứu rỗi qua
Chúa Kitô; hoặc theo
định nghĩa chính thức
của Gia-tô trong cuốn
Catholic Word Book
do Catholic Information
Service, Knights of
Columbus ở New Haven,
Connecticut xuất bản:
Soteriology = The
division of Theology
which treats of the
mission and work of
Christ as Redeemer) để
rồi hỏi một câu vô
nghĩa, ít ra là đối với
các Phật tử: “Chúng ta
có thể tới gần Thần
Gia-tô bằng con đường
này không? Điều này
không được nói tới trong
sự “giác ngộ” mà Đức
Phật đã thông tri”.
Trước khi Jesus Christ
ra đời hơn 500 năm, Đức
Phật đã giác ngộ và đưa
ra con đường tự lực tự
cường, dũng mãnh phá vỡ
vô minh qua óc suy lý và
thực hành Bồ Tát Đạo,
cứu nhân độ thế. Vậy
Phật tử không tin ở sự
cứu rỗi của một Thần
Gia-tô (để cho được
chính danh, tôi đã dịch
chữ God trong đạo Giatô
là “Thần Gia-tô” vì John
Paul II đã dùng danh từ
“vô thần” để chỉ Phật
giáo), vậy ai cần tới
gần Thần Giatô? Và “giác
ngộ” là một trạng thái
tâm linh không thể nghĩ
bàn, vượt qua mọi đối
đãi nhị nguyên, Thánh
phàm như một, Thần hay
không cũng chẳng khác gì
nhau, vậy nói tới việc
tới gần Thần Gia-tô để
làm gì? Hơn nữa, đã ở
trạng thái vô chấp rốt
ráo, nghĩa là đã “Ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm”
rồi thì còn hiệp thông
với Thần làm cái gì?
Nhưng thôi, chúng ta hãy
đi vào nhận xét của một
số trí thức về những lời
phê bình trên của John
Paul II:
Nalin de Silva, một
thành viên của “Liên
Minh các Hiệp Hội Phật
giáo” tại Tích Lan, cho
rằng “những nhận xét lắt
léo với ác ý của Giáo
Hoàng (về Phật giáo) có
vẻ như là phản ứng trước
sự bành trướng của Phật
giáo và Hồi Giáo gần đây
ở Âu Châu”. De Silva
nói: “Ông ta đang cố
gắng chống đỡ đức tin
của ổng, Hồi Giáo và
Phật giáo là 2 thách
thức chính đối với Ki-tô
Giáo”.
(A
Federation member, Nalin
de Silva, said the
Pope’s remarks were
malicious and appeared
to be a reaction to the
recent spread of
Buddhism and Islam in
Europe. “He is trying to
defend his faith,” de
Silva said, “Islam and
Buddhism are the main
challenges to
Christianity.”)
Ken Tanaka, một giáo sư
của viện Phật Học ở
Berkeley phát biểu rằng:
“Rõ ràng là Giáo Hoàng
đã không chịu làm bài
tập” (nghĩa là không
chịu tìm hiểu vấn đề cho
cặn kẽ) và đã trình bày
“một quan điểm quá đơn
giản về Phật giáo”. Giáo
sư Tanaka nói: “Cốt tủy
của Phật giáo là thoát
khỏi sự ràng buộc vào
tham, sân, si chứ không
phải là thoát khỏi thế
giới. Nhờ đó mà con
người ngộ được một trình
độ tỉnh thức cao hơn”.
(Rev. Ken Tanaka, a
professor at the
Instiute for Buddhist
Studies in Berkeley,
said it is clear that
the Pope “hasn’t done
his homework” and
presents “a very
simplistic view of
Buddhism”. Essentially,
Buddhism is about
becoming detached from
greed, hatred, and
ignorance and not from
the world,” Tanaka said.
“That’s how one awakens
to a higher level of
awareness”.)
Thomas Hand, một linh
mục Gia-tô, nói rằng ông
ước mong Giáo Hoàng “có
thể nói về Phật giáo dựa
vào những kinh nghiệm
bản thân. Ta không thể
nói về bất cứ cái gì sâu
sắc hiển nhiên như Phật
giáo mà không tự mình đi
vào trong đó”.
(Rev. Thomas Hand, a
Catholic priest, said he
wished the pope “were
able to speak about
Buddhism from
experience. You can’t
speak about anything as
obviously profound as
Buddhism without getting
into it.”)
Alan Senauke, một thiền
sư, nói rằng những lời
phê bình của Giáo Hoàng
về Phật giáo chẳng hơn
gì mấy cái chuyện “dựng
lên những hình nộm, rồi
quật chúng xuống”. Ông
nói: “Dù là không biết
hay cố ý, đó cũng là một
sự trình bày sai lầm
nghiêm trọng về Phật
giáo.”
(Alan Senauke, a Zen
priest, said the pope’s
comments on Buddhism
were little more than
“setting up straw men,
then knocking them
down.” “Whether through
ignorance or intention,
it is a serious
misrepresentation of
what Buddhism is all
about,” he said.)
Lama Ole Nydahl không
lấy gì làm ngạc nhiên về
những lời phê bình của
Giáo Hoàng. Người hỏi
rằng: “Sao mà một người
như Giáo Hoàng có thể
đồng ý được với một tôn
giáo như Phật giáo, một
tôn giáo đưa con người
vượt qua cảnh giới nhị
nguyên và tạo ra một mối
liên hệ lành mạnh với
thân và ý?”.
(Lama Ole Nydahl was not
surprised with the
pope’s comments. “How
could a man like he
possibly agree with a
religion like Buddhism,
which takes people
beyond dualism and
produces a healthy
relationship with their
bodies and minds?” he
asked.)
Chúng ta thấy rằng những
nhận xét của Ken Tanaka,
Thomas Hand, và Alan
Senauke cùng nói lên một
điểm: Giáo Hoàng không
đủ kiến thức để bình
luận về Phật giáo nên đã
đưa ra những nhận xét
sai lầm nghiêm trọng về
Phật giáo. Nhưng nhận
xét của Tỳ Kheo Nalin de
Silva và Lạt Ma Ole
Nydahl mới thực sự đi
vào nguồn gốc của vấn
đề: tâm cảnh của Giáo
Hoàng John Paul II không
thể lĩnh hội được cái
sâu sắc của Phật giáo,
Giáo Hoàng đã viết về
Phật giáo một cách lắt
léo ác ý và lý do là để
chống đỡ niềm tin của
Giáo dân. Sau đây tôi sẽ
phân tích vấn đề trên
một cách rộng rãi hơn để
làm sáng tỏ những uẩn
hàm (implications) trong
lời phê phán của de
Silva và Ole Nydahl.
* * *
Thật vậy, nếu chúng ta
đọc kỹ cuốn Bước Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng
của Giáo Hoàng John Paul
II thì chúng ta có thể
nhận ra hai điểm chính:
1. Giáo Hoàng lo sợ
trước sự bành trướng của
Phật giáo và Hồi Giáo
trên thế giới nên đã đưa
ra những nhận xét một
chiều, kiêu căng, hoàn
toàn dựa theo giáo lý
Gia-tô, với mục đích hạ
thấp các tôn giáo lớn
khác, để giữ giáo dân.
2. Đây là một nỗ
lực có mục đích củng cố
quyền lực của Giáo
Hoàng, Tòa Thánh, và
giới giáo sĩ lãnh đạo
Gia-tô để duy trì truyền
thống “hệ thống chăn
chiên theo cấu trúc Kim
Tự Tháp” của Gia-tô
Giáo. Cấu trúc này sẽ
được sáng tỏ qua lời mô
tả của Penny Lernoux
trong một đoạn sau.
Với mục đích trên, Giáo
Hoàng đã trích dẫn khá
nhiều từ Thánh Kinh,
nhắc lại một số tín điều
và coi đó như là những
chân lý bất biến mà giáo
dân, những người không
đọc Thánh Kinh hay chỉ
đọc những đoạn các linh
mục chọn lựa để giảng,
phải tin.
Tất cả những toan tính
trên đều có lý do. Nhưng
trước hết tôi xin có một
nhận xét tổng quát về
cuốn Bước Qua Ngưỡng
Cửa Hy Vọng. Bỏ qua
một phần nhỏ của cuốn
sách nói về các tôn giáo
khác, phần còn lại là về
Gia-tô Giáo La Mã và ta
có thể nói phần này
trình bày mặt ngoài của
một chiếc mề đay. Đối
với mỗi điểm trên cái
mặt ngoài này chúng ta
có thể tìm ra một hay
nhiều điểm đối nghịch
trên mặt trái. Công việc
chứng minh rất dễ dàng,
nằm ngay trong Thánh
Kinh và lịch sử gần 2000
năm của Giatô La Mã
Giáo. Tuy nhiên, tạm
thời chúng ta hãy để vấn
đề này qua một bên và
xét đến những lý do
đưa đến việc Giáo Hoàng
viết cuốn sách trên.
* * *
HAI LÝ DO VIẾT SÁCH.
A. LÝ DO THỨ NHẤT
khiến cho Giáo Hoàng
John Paul II phải bận
tâm là đà suy sụp của
Gia-tô Giáo và quyền lực
của Giáo Hoàng cùng tòa
Thánh Vatican trên thế
giới. Điều này thể
hiện trong số lượng công
du của ngài từ khi đăng
quang, với mục đích vớt
vát, duy trì niềm tin
của giáo dân qua những
tác phong khả ái của một
vị lãnh tụ tôn giáo kiêm
kịch sĩ nhà nghề. Thật
vậy, trong một cuộc
phỏng vấn của đài PBS
năm 1977, Ngài thú nhận
với J. Michener là Ngài
"được huấn luyện để diễn
xuất trên sân khấu khi
còn trẻ. Đúng vậy, tôi
muốn trở thành một kịch
sĩ."
("I trained for the
stage as a young man,"
he admitted to J.
Michener of their PBS
series in 1977: "Yes, I
wanted to be an actor.")
Cho nên chúng ta không
lấy làm lạ khi Ngài cố
gắng nói trọ trẹ vài câu
tiếng Việt để làm nức
lòng giáo dân Việt Nam
trong những cuộc tiếp
xúc với người Gia-tô
Việt Nam lưu vong. Điều
này sẽ được sáng tỏ
trong phần trình bày sau
đây. Sự suy sụp
của Giatô Giáo La Mã mà
biểu tượng là hệ thống
quyền lực Vatican, có
rất nhiều nguyên nhân,
sau đây tôi chỉ đưa ra
vài nguyên nhân chính:
1.
Nguyên nhân thứ nhất
và chính yếu được trình
bày trong nhận xét của
Malachi Martin trong
cuốn
The Keys of This Blood :
"Trong hầu hết các nước
ở Âu Châu, phong trào
hiện thực sống đời thế
tục hầu như đã hoàn toàn
thắng. Trong vùng này,
các tôn giáo có tổ chức
- Giatô, Tin Lành và Do
Thái - được coi như là
giống nhau ở điểm cùng
nhấn mạnh trên những
tuyệt đối. Những tôn
giáo này được coi là
đóng góp rất ít hoặc
không đóng góp gì cho
đời sống chính trị, kinh
tế và văn hóa hiện thời
ở các nước Tây phương.
Giáo Hoàng biết rất rõ
rằng, trong thế kỷ tới,
Gia-tô Giáo sẽ chỉ còn
tồn tại ở các nước trong
thế giới thứ ba. Từ bao
giờ, Giatô Giáo chỉ nẩy
nở trong đám dân chúng
nghèo khổ và ít học. Tây
phương phức tạp không
còn tiếp nhận sự hẹp hòi
của Gia-tô Giáo nữa.
Giáo Hoàng biết rõ như
vậy."
(In most European
countries, secularism
has already triumphed
completely. In that
region, organized
religions – Catholic,
Protestant and Jewish –
are regarded as alike in
their insistence to
absolutes. They are
considered to have
little or nothing to
contribute, therefore,
to the current
political, economic and
cultural life of Western
European countries… The
Pope is well aware that,
in the next century,
catholicism has always
flourised only in poor
population of low
educational quality. The
sophisticated West can
take Catholicism's
narrowness no longer.
The Pope realizes that.)
Malachi Martin là một
nhà thần học sáng danh
vào bậc nhất, đã từng là
giáo sư của Viện Nghiên
Cứu Thánh Kinh ngay tại
Vatican, ắt hẳn không
viết một cách vu vơ.
Thực tế là, 70% số giáo
dân Giatô hiện thời trên
thế giới là dân ở Nam
Mỹ, Châu Mỹ La Tinh,
Châu Phi và Phi Luật Tân
ở Á Châu. Mức sống kinh
tế của số dân này ra
sao, và trình độ học vấn
ra sao, chắc chúng ta
cũng đều đã biết.
Cho nên, chúng ta không
lấy gì làm ngạc nhiên về
phần lớn các cuộc công
du của John Paul II là
nhắm vào thế giới thứ
ba, ve vuốt thú nhận một
cách mơ hồ những lỗi lầm
của Giáo hội trong quá
khứ và tạ tội với một số
dân tộc trong thế giới
thứ ba, mong họ hãy quên
đi quá khứ, hãy quên đi
những bất hạnh mà Gia-tô
giáo đã mang tới cho dân
tộc họ, hãy quên đi chủ
trương tiêu diệt nền văn
hóa cổ truyền địa phương
để thay vào đó bằng một
nền văn hóa hẹp hòi tàn
độc của một tôn giáo Tây
phương. Và đặc biệt
đối với Việt Nam, lợi
dụng khối người Gia-tô
chống cộng lưu vong,
ngài đã "khuấy động" ảo
tưởng về một viễn tưởng
lật ngược thế cờ ở Việt
Nam giống như ở Ba Lan,
nơi mà 90% dân số theo
Gia-tô Giáo, nhưng quên
rằng hơn 90% dân Việt
Nam là phi Gia-tô, và
người Việt Nam vẫn chưa
quên vai trò của người
Gia-tô Việt Nam trong
thời Pháp thuộc, trong
thời kháng chiến, và
dưới thời Ngô Đình Diệm
ở miền Nam. Ngài
không có hi vọng gì ở
các nước văn minh tiến
bộ, vì nơi đây dân trí
cao, tín đồ không còn
quỳ xuống hôn chân "Đức
Thánh Cha" nữa mà trực
diện chất vấn John Paul
II về những giáo lý đi
ngược thời gian, không
phù hợp với thực trạng
xã hội.
Đoạn sau đây trong cuốn
Cry of the People
của Penny Lernoux sẽ làm
sáng tỏ phần nào quan
điểm của Malachi Martin:
"Từ lúc đầu, xã hội Mỹ
La Tinh được xây dựng
giống như một Kim Tự
Tháp, với vài người Âu
Châu đến định cư và
hưởng mọi quyền lợi của
đế quốc, và quần chúng
thổ dân, da đen, giai
cấp thấp, không có một
quyền nào. Cái tháp tồn
tại được là vì khối nhân
dân ở dưới đáy được nhắc
nhở rằng họ ngu si, lười
biếng, và thấp kém.
Những nhà truyền giáo
ngoại quốc góp phần nhồi
vào óc dân bản xứ ý
tưởng là họ nghèo và ngu
dốt là do ý muốn của
Thần Gia-tô. Như Tổng
giám mục ở Lima bảo các
thổ dân rằng: "Nghèo khổ
là con đường chắc chắn
nhất đi tới hạnh phúc."
Người thổ dân nào hay
dân Phi Châu nào mà liều
lĩnh nghi ngờ điều dạy
khôn ngoan đó bằng cách
chống lại hệ thống đều
bị giết ngay… Giáo hội
Gia-tô phải gánh rất
nhiều trách nhiệm về
tình trạng này. Giống
như những kẻ chiến thắng
Tây Ban Nha trong thế kỷ
16, hầu hết các nhà
truyền giáo Âu Châu tới
Châu Mỹ La Tinh tự coi
như là những kẻ mang
những văn hóa cao hơn
nền văn hóa của dân tộc
bản xứ nhiều. Những nhà
truyền giáo ít quan tâm
đến việc hòa nhập với
các thổ dân Phi Châu mà
chỉ muốn thuần phục họ
vào những cấu trúc của
tôn giáo Âu Châu".
(From the beginning,
Latin-American society
was constructed like a
pyramid, with a few
Europeans settlers
enjoying all the
privileges of empire and
a mass of Indians,
blacks, and half-castes
having no rights at all.
The pyramid survived
because the mass at the
bottom was repeatedly
told that it was stupid,
lazy, and inferior.
Foreign missionaries
helped drum these ideas
into the native's heads
by claiming that it was
God's will that they
should be poor and
ignorant. As the
Archbishop of Lima told
his Indians: "Poverty is
the most certain road to
felicity." Any Indian or
African who had the
temerity to doubt such
wisdom by rebelling
against the system was
promtly put to death…
The Catholic Church must
accept a lot of the
blame for this
situation. Like the
conquistadors, most of
the European
missionaries who came to
Latin – America saw
themselves as bearers of
cultures vastly superior
to those of the natives.
The missionaries were
less interested in
integrating the Indians
and Africans than on
subjugating them to the
European religious
structures.)
Đọc đoạn trên không biết
có đọc giả nào thấy nó
khá quen thuộc với những
việc đã xảy ra trong một
giai đoạn lịch sử Việt
Nam không nhỉ?
Và, sau đây là nhận xét
của một số học giả và
linh mục Gia-tô về cùng
vấn đề: Trong cuốn
Freedom's Foe – The
Vatican (Vatican:
Thù nghịch Của Tự Do),
Adrian Pigott viết như
sau:
"Những người theo đạo
Giatô La Mã thực tình
ngạc nhiên khi họ thấy
rằng đồng bào của họ
thường nghi ngờ họ. Có
vẻ như họ không ý thức
được rằng, nếu họ chọn
để bước trong đoàn quân
của Giáo Hoàng, họ phải
chấp nhận những hậu quả.
Những tướng lãnh của họ
(các giám mục) và vị chỉ
huy tối cao của họ (Giáo
Hoàng), quan tâm thiết
yếu đến sự an sinh của
Vatican hơn là sự an
sinh của nhân loại.
Chẳng trách là những
giáo dân Giatô La Mã
không được biết đến
trong số người thông
minh và tiến bộ; họ
không thể trở thành
những công dân hạng nhất
vì sự trung thành nước
đôi này. Thật là không
được công bằng khi ta
trách cứ cá nhân Giatô
La Mã là vô tình họ đã
làm hại tới sự tiến bộ
của nhân loại. Họ được
nuôi nấng trong cái mà
Tiến Sĩ Barnado gọi là
"Bóng tối dày đặc của Ý
thức hệ La Mã"… Thất học
luôn luôn thịnh hành
trong các nước theo
Giatô La Mã giáo - nhờ
đó mà tập đoàn Giáo sĩ
có thể nảy nở."
(Roman Catholics are
often genuinely
surprised to find that
they are frequently
regarded with suspicion
by their fellow
citizens. They do not
seem to realize that, if
they elect to march in
the papal army, they
must expect to receive
the consequences. Their
Generals (the bishops)
and their
Commander-in-Chief (the
pope), concentrate upon
the welfare of the
Vatican rather upon the
welfare of mankind. No
wonder that Romanists
are unpopular with
progressive and
intelligent people; they
cannot become
first-class citizens
owing to their dual
allegiance… It is unfair
to blame individual
Roman Catholic for being
(unconsciously)
detrimental to human
progress. They have been
brought up in what Dr.
Barnado called "The
thick darkness of
Romanism" .. Illiteracy
is always prevalent in
Romanist countries – to
enable Priestcraft to
flourish.)
Cha Joseph McCabe, trong
cuốn Rome Puts a
Blight on Culture
(La Mã hủy hoại Văn Hóa)
đã viết như sau:
"Nếu chúng ta đồng ý dân
chủ là một dạng chính
trị lý tưởng thì chúng
ta cũng phải đồng ý là
giáo dục quần chúng để
họ suy nghĩ với óc phê
phán và tìm hiểu một
cách không hạn chế là
con đường duy nhất để
cho họ có những hành
động thỏa đáng. Luật lệ
của Giáo Hội Giatô trái
ngược hẳn lại. Giáo dân
không được tìm hiểu
ngoài tín ngưỡng của
mình và không được có
đầu óc phê phán ngay cả
trong phạm vi tín ngưỡng
của họ".
(If we are agreed that
democracy is the ideal
political form, we agree
also to teach all people
to think critically and
inquire without
restriction is the only
way to get it to work
satisfactorily. The law
of the Catholic Church
is just the opposite.
You must not inquire
outside your own creed
and you must not think
critically even within
its range.)
Cha McCabe đã để ra
nguyên một chương để
phân tích ảnh hưởng của
Giatô Giáo La Mã trên
các nền văn hóa, đưa ra
rất nhiều thống kê ở
nhiều nơi trên hoàn cầu
và kết luận: "La Mã chỉ
khoái những kẻ thất học.
Họ bị thuyết phục quá dễ
dàng để đi thiêu sống
các kẻ "tà đạo" và hôn
hít những thánh tích giả
tạo." (Rome loves the
illiterate. They are so
easily persuaded to burn
"heretics" and kiss
bogus relics.)
Trong cuốn Crime and
Immorality in the
Catholic Church (Tội
Ác và Vô Luân trong Giáo
Hội Gia-tô) Cha Emmett
McLoughlin cũng viết như
sau:
"Với kinh nghiệm của tôi
trong hệ thống giáo dục
Giatô, với 15 năm làm
linh mục, và 13 năm
thường xuyên quan sát và
tích cực nghiên cứu sau
khi rời khỏi Giáo hội,
lòng xác tín thành thật
và quan niệm vững chắc
của tôi là, ảnh hưởng
của Giatô trên mọi nền
văn minh thật quá nhiều
xấu hơn là tốt. Về
phương diện trí thức,
Giáo Hội La Mã đã làm
hết sức để bóp nghẹt đầu
óc con người và làm
nghẹt mọi sáng kiến.
Giáo hội phải làm như
vậy nếu muốn sống còn.
Không một người nào có
đầu óc suy nghĩ, thông
minh, biết rõ về những
sự kiện lịch sử, đặc
biệt là một người Mỹ yêu
tự do, lại có thể trở
thành hoặc vẫn còn là
tín đồ của Giatô La Mã."
(It is my contention and
my sincere conviction,
from my experience in
the Catholic educational
system, my life of 15
years in the pries
thood, and 13 years of
constant observation and
intense study since
leaving the Church, that
its influence on all
civilization has been
far more evil than of
good. Intellectually the
Church of Rome has done
its best to strangle the
human mind and stiffle
mental initiative. It
must do this if it is to
survive. No thinking,
intelligent,
historically studious
person, especially a
freedom-loving American,
can become or remain a
Roman Catholic.)
Cùng một ý tưởng, trong
bài “Phật giáo và Người
Việt Nam Hiện Đại”, Như
Hạnh chuyển ngữ, Tiến Sĩ
J.C.Cleary, tốt nghiệp
đại học Harvard về Ngôn
Ngữ và Văn Minh Đông
Phương, cũng viết như
sau:
“Người Việt Nam hẳn sẽ
ngạc nhiên khi khám phá
ra rằng đối với những
người Tây Phương có đầu
óc tiến bộ, chính Thiên
Chúa Giáo mới là một mớ
huyền thoại lỗi thời, mê
tín dị đoan, và những
nghi lễ vô nghĩa lý.
Người Tây Phương thừa
hiểu rằng, chẳng có mấy
người đầu óc tiến bộ mà
lại tin nơi Thiên Chúa
Giáo. Những ai có kiến
thức về lịch sử Âu Châu
đều biết rằng, Giáo Hội
Giatô La Mã đã làm đủ
cách trong quyền lực của
họ để ngăn chặn sự phát
triển của khoa học cũng
như lối sống và suy nghĩ
mới. Ở Mỹ hiện nay,
những tín đồ Thiên Chúa
Giáo cực đoan là những
kẻ đứng đầu trên giới
tuyến chống lại các tạp
quán mới và thế giới
khoa học. Do đó trong
tâm thức Tây Phương,
Thiên Chúa Giáo được gắn
liền với một thứ chủ
nghĩa truyền thống lạc
hậu, một thứ nuối tiếc
thời đã qua. Ở Tây
Phương, phần đông các
tín đồ Thiên Chúa sùng
tín thường là những kẻ
ít học nhất, những thành
phần thấp, kém kinh tế
trong quần chúng, những
kẻ chẳng còn có gì để
trông ngóng nữa cả”.
Và, cách đây gần 100
năm, Toàn Quyền Đông
Dương J.L.de Lanessan,
trong cuốn Les
Missions et leur
Protectorat, trích
dẫn bởi Patrick
J.N.Tuck, cũng viết về
thực trạng truyền giáo
tại Á Đông như sau:
“Thật ra, trong hơn 2
thế kỷ mà các hội truyền
giáo Giatô hoạt động ở
Trung Hoa và bán đảo
Đông Dương có lẽ họ
không cải tạo được quá
10 học giả. Toàn thể
giới cầm quyền có học
của dân chúng đã tránh
né sự truyền đạo của họ.
Đại cương thì các nhà
truyền giáo chỉ tuyển mộ
được tín đồ trong những
giai cấp thấp nhất, và
phần lớn là những kẻ, vì
lý do này hay lý do
khác, đã bị xã hội An -
Nam ruồng bỏ.”
(In fact during the two
centuries and more that
the Catholic Missions
have been operating in
China and the
Indochinese peninsula
they have probably not
converted more than ten
scholars in all. The
entire educated and
governing class of the
population has evaded
their proselytism. In
general Catholic
missionaries only
recruit from among the
lowest classes, and
mainly among those who,
for various reasons have
been rejected by
Annamese society.)
Trên đây chỉ là vài tài
liệu để chứng minh rằng,
nhận xét của nhà thần
học Giatô lỗi lạc
Malachi Martin không
sai. Và bây giờ chúng ta
đã hiểu là tại sao Tòa
Thánh Vatican lại chống
Hội Nghị về Dân Số vừa
qua ở Ai Cập. Động cơ
chống không nằm nơi đạo
đức mà nằm nơi số con
chiên ở các nước trong
thế giới thứ ba và quyền
lực áp đặt trên số này.
Những người sống trên
nhung lụa, ăn sung mặc
sướng ở Vatican, làm sao
có thể thông cảm được
với những kẻ khốn cùng
trong các xã hội nghèo
khổ. Trong cuốn
Vicars of Christ
(Đại diện của Kitô),
Peter de Rosa đã viết :
“Những người mặc quần áo
lụa tía, sống trong lâu
đài, ngồi trên ngai -
thật khó có thể hành
động như là những kẻ
phục vụ cho những kẻ
phục vụ Thần Giatô hoặc
đại diện cho cái Người
Nghèo ở Nazareth đối với
những người nghèo đói
trong thế giới.”
(Those who dress in
purple silk, live in
palaces, sit on thrones
– it is not easy for
them to act as servants
of the servants of God
or to represent the Poor
Man of Nazareth to the
poor and starving of the
world.)
Những kẻ phục vụ Thần
Giatô là tín đồ, và
Người Nghèo ở Nazareth
chính là Giêsu. Trong
các xã hội này, sinh đẻ
bừa bãi không hạn chế sẽ
đưa đến cảnh cả triệu
trẻ em chết về thiếu
dinh dưỡng, bệnh tật
v.v... Cái tội này ai ra
đó mà gánh vác? Hay là
quy cho ý muốn của Thần
Giatô vì Thần có những
hành động bí hiểm mà con
người không thể hiểu
được (God acts in a
mysterious way that man
cannot possibly
understand) theo như
niềm tin của một số
người khuyết tật, trong
óc thiếu hẳn một số lớn
tế bào thần kinh
(neurons)?
2. Nguyên nhân
thứ nhì là,
phong trào tranh đấu của
các giáo hội Giatô địa
phương để được độc lập,
không chịu quyền thống
trị tư tưởng cũng như
vật chất của Vatican
càng ngày càng lên cao.
Phong trào này đã bắt
đầu từ nhiều thế kỷ và
bộc phát trong thập niên
1960 với phong trào “Thần
Học Giải Phóng” xuất
phát từ Châu Mỹ La Tinh
và lan sang Phi Châu
cùng Á Châu. Trong lịch
sử Giáo Hội Giatô, ngay
từ thế kỷ thứ 17 nhiều
giáo hội Giatô địa
phương đã phủ nhận quyền
lực của Giáo Hoàng.
Phong trào Ga-Li-can
(Gallicanism) ở Pháp là
một phong trào của những
giáo sĩ Giatô Pháp đòi
hỏi giới hạn quyền hành
của Giáo Hoàng và các
giáo hội địa phương được
tự trị về hành chánh.
Giáo hội Ga-Li-can Pháp
là một giáo hội quốc gia
(hay quốc doanh?) công
nhận Giáo Hoàng nhưng
phủ nhận tín điều “Giáo
Hoàng không thể sai lầm”
và quyền lực trung ương
của Giatô La Mã.
(French Gallicanism was
a national church which
acknow-ledged the pope
but denied papal
infallibility and
central authority.)
Năm 1790, quốc hội Pháp
bác bỏ đề nghị coi Giatô
Giáo là Quốc Giáo dù hơn
80% dân Pháp theo Giatô
Giáo. Trong cuốn The
Papacy and the Modern
World (Giáo Hoàng
Triều và Thế Giới Hiện
Đại), Karl Otmar von
Aretin viết rằng: “Sự
nổi lên của các giáo
hội quốc gia là vấn đề
đe dọa quyền lãnh đạo
tinh thần tối cao của
các Giáo Hoàng trong thế
kỷ thứ 18. Ở La Mã không
có gì bị chống đối một
cách quyết liệt như là
những khuynh hướng thành
lập giáo hội quốc gia
trong thế kỷ thứ 19,
ngay cả tới ngày nay, La
Mã coi khuynh hướng tự
do như là kẻ thù lớn
nhất của Giáo hội La
Mã.”
(The emergence of
national churches was
the problem threatening
the spiritual of the
popes in the eightenth
century. In Rome nothing
met with such
relentlessly thorough
opposition as the 19th
century national church
tendencies, while to
this day liberalism is
seen by Rome as the
greatest enemy of the
Catholic Church.)
Trong chương “What
Catholicism Has Done To
Catholics” (Giatô Giáo
Đã Làm Những Gì Cho
Người Giatô), Cha Emmett
McLoughlin viết như sau:
“Trào lưu Cải Cách của
Luther trong thế kỷ 16
chỉ là cao điểm thắng
lợi của nhiều thế kỷ
tranh đấu của hàng triệu
người thực tình bất đồng
ý với những đạo đức cũng
như giáo lý của La Mã.
Nếu hoàn cảnh chưa chín
mùi để nổi dậy, phong
trào cải cách của Luther
và nhiều người khác
không thể lan rộng một
cách nhanh chóng như vậy
trong các quốc gia cấp
tiến ở Âu Châu. Tất cả
các dân tộc này đều theo
Giatô La Mã nhưng họ
không chấp nhận tội ác
và vô luân của La Mã,
của Giáo Hoàng và giáo
sĩ đoàn.
Không phải chỉ vì ngẫu
nhiên mà những dân tộc
Kitô Giáo đó, sau khi đã
phủ nhận La Mã, đã trở
thành và vẫn còn là
những dân tộc đạo đức và
tôn trọng luật pháp nhất
trên thế giới: Na Uy,
Thụy Điển, Ai Nhỉ Lan,
Đan Mạch, Phần Lan, Anh
Quốc, Tô Cách Lan và
Thụy Sĩ, họ đã hiểu được
là, hãy tin tưởng vào
Thần Giatô, vào ý chí
của chính họ, chứ không
phải là tin tưởng vào sự
xưng tội, luyện ngục, xá
tội, tràng hạt, mề đay
và các thứ tương tự”.
(Luther’s Reformation in
the 16th
century was merely the
successful climax of
centuries of struggle of
sincere millions who
disagreed as much with
the morals of Rome as
they did with its
doctrine. If the soil
were not ripe for
revolt, the Reformation
movement of Lutherans...
and others could not
have spread so rapidly
through the most
progressive nations of
Europe. All of these
peoples were Roman
Catholics rejecting the
crime and immorality of
Rome, its pope and its
clergy. It is more than
a coincidence that the
Christian peoples that
rejected Rome became and
still are the most moral
and lawabiding in the
world. Norway, Sweden,
Iceland, Denmark,
Finland, England,
Scotland and
Switzerland... They have
learned to rely on God
and their own will
power, and not on
confession, purgatory,
indulgences, rosaries,
medals and the like.)
Và, trong cuốn
American Freedom and
Catholic Power (Tự
Do Của Hoa Kỳ và Quyền
Lực Giatô), Paul
Blanshard cũng cổ súy
việc Giáo hội Giatô Mỹ
độc lập với Vatican như
sau:
“Điều quan trọng là phải
phân biệt giữa những tín
đồ Giatô Mỹ và những
linh mục của họ bị La Mã
kiểm soát. Người Giatô
Mỹ chiến đấu và chết cho
cùng một quan niệm về tự
do như những người Mỹ
khác; họ tin vào cùng
những lý tưởng căn bản
về dân chủ. Nếu họ có
thể kiểm soát được giáo
hội của họ, thì vấn đề
Giatô sẽ biến đi ngay
vì, trong bầu không khí
tự do của Mỹ, họ sẽ điều
chỉnh những đường lối
của Giáo hội theo những
thực tế của Mỹ. Bất hạnh
thay, dân Giatô ở Hiệp
Chủng Quốc không phải là
những công dân mà là
những “thuộc hạ” trong
đoàn thể giáo dân của
chính họ. Đường lối sống
đạo và sống đời của giáo
hội họ đều được quy định
ở La Mã, một tổ chức xa
lạ với họ về tinh thần
và sự điều khiển. Người
Giatô Mỹ không được
quyền chọn lựa đại diện
của họ, ở địa phương của
chính họ hay là ở cấp
lãnh đạo tại La Mã; và
vì cấu trúc độc đoán của
giáo hội, họ bị bắt buộc
chấp nhận những chính
sách về đạo cũng như đời
áp đặt trên họ từ nước
ngoài.”
(It is important,
therefore, to
distinguish between the
American Catholic people
and their
Roman-controlled
priests. The Catholic
people of the United
States fight and die for
the same concept of
freedom as do other true
Americans; they believe
in the same fundamental
ideals of democracy. If
they controlled their
own Church, the Catholic
problem would soon
disappear because, in
the atmosphere of
American freedom, they
would adjust their
Church’s policies to
American realities.
Unfortunately, the
Catholic people of the
United States are not
citizens but “subjects”
in their own religious
commonwealth. The
secular as well as the
religious policies of
their Church are made in
Rome by an organization
that is alien in spirit
and control. The
American Catholic people
themselves have no
representatives of their
own choosing either in
their own local
hierarchy or in the
Roman high command; and
thy are compelled by the
very nature of their
Church’s authoritarian
structure to accept
nonreligious as well as
religious policies that
have been imposed upon
them from abroad.)
Paul Blanshard xuất bản
cuốn sách trên năm 1949
và từ đó ý thức về một
giáo hội quốc gia tại Mỹ
càng ngày càng lên cao,
và trong thực tế thì dân
chúng Mỹ càng ngày càng
bất chấp những lệnh của
Vatican, công khai chống
đối Vatican trên nhiều
địa hạt. Điều này thể
hiện trên những thống kê
về phản ứng của dân
Giatô Mỹ trước những
giáo điều xuất phát từ
Vatican và trước những
biện pháp độc tài của
Vatican đối với những vị
lãnh đạo Giatô Mỹ. Điển
hình là vụ Vatican trừng
phạt Tổng Giám Mục
Raymond Hunthausen ở
giáo phận Seattle năm
1985 vì không đồng ý với
Vatican, đã khiến trong
số những giáo dân bày tỏ
ý kiến về vụ này thì 99%
ủng hộ Tổng Giám Mục
Hunthausen, với 13.000
chữ ký phản đối sự bất
công của Vatican, và
90% trong số 280 linh
mục trong giáo phận
Seattle làm kiến nghị
phản đối Vatican làm cho
Vatican phải phục quyền
cho Tổng Giám Mục
Hunthausen.
Vụ điển hình thứ hai là
trường hợp Linh Mục
Charles E. Curran, giáo
sư thần học tại Đại Học
Giatô Hoa Kỳ (Catholic
University of American)
đã bị Vatican cất chức
năm 1967 vì không đồng ý
với những giáo điều liên
hệ tới vấn đề ngừa thai
và nhiều vấn đề xã hội
khác của Vatican. Sinh
viên phản đối, và 400
trong số 418 đồng nghiệp
của cha Curran bỏ phiếu
đồng ý bãi khóa cho tới
khi Cha Curran được phục
chức. Cuộc bãi khóa kéo
dài 3 ngày, nhà trường
phải không những phục
hồi mà còn hứa sẽ thăng
chức cho Cha Curran lên
giáo sư diễn giảng.
Nhưng Vatican thù dai,
tháng 8 năm 1976, nghĩa
là 9 năm sau, Cha Curran
không được phép dạy môn
“thần học về đạo đức”
(moral theology) tuy vẫn
ở chức vụ giáo sư và
được phép dạy môn khác
nếu thích hợp. (Xin đọc
cuốn The Pope and the
Mavericks (Giáo
Hoàng và những người lạc
đạo) của Louis Baldwin).
Có lẽ người Giatô Việt
Nam nên học kinh nghiệm
của các nước ở Bắc Âu và
các nước tân tiến như
Anh, Pháp, Mỹ về tinh
thần quốc gia và độc
lập, nếu muốn có một chỗ
đứng vững vàng trong
lòng đại khối dân tộc
Việt Nam.
Bây giờ chúng ta hãy trở
lại đề tài “Thần Học
Giải Phóng”. Cụm từ
này làm cho nhiều người
Giatô cũng như phi Giatô
ngỡ ngàng. Người ta
thường nói tới giải
phóng nô lệ, giải phóng
con người khỏi ách thống
trị, khỏi cảnh áp bức
độc tài, v.v... chứ ít
ai nghe tới Thần Học
Giải Phóng.
Trong Giatô Giáo La Mã,
Thần Học là một môn học
đặc thù thâu tóm một
cách có hệ thống những
suy tư, diễn giải về đức
tin Thần Giatô và những
uẩn hàm (implications)
của đức tin này. Những
người chuyên về ngành
học này, thường là ở Âu
Châu, được huấn luyện để
trở thành những nhà thần
học, những cán bộ chỉ
đạo của Giatô giáo để
luận về những chủ đề đặc
thù của Giatô Giáo như
Thần, Sự Sáng Tạo,
Giêsu, Giáo Hội, Ân
Sủng, Bí Tích, Tín Lý,
v.v... Và theo truyền
thống dân chủ tự do đặc
biệt của Vatican thì bất
cứ một sự diễn giải
thần học nào mà không
phù hợp 100% với sự diễn
giải của Vatican thì đều
bị cấm phổ biến, và tác
giả sẽ phải chịu những
biện pháp trừng phạt của
Vatican để kéo họ trở
lại “chánh đạo”. Vì vậy
mới có thành ngữ “Roma
locuta, causa finita”
(La Mã đã nói lên ý
kiến, vấn đề đã giải
quyết). Nhưng thành ngữ
cổ lỗ này đã trở thành
lạc hậu và ngày nay
không còn áp dụng được
nữa. Vì ngày nay thần
học không còn là đặc
quyền của La Mã mà người
ta thấy xuất hiện nào là
“thần học giải phóng”,
“thần học của phái nữ”,
“thần học của dân da
đen”, “thần học của Á
Châu”, v.v...
Nhưng cụm từ “thần
học giải phóng” có
một ý nghĩa đặc biệt vì
đó là một phong trào
giải phóng con người
khỏi những sự áp đặt một
chiều và vô nghĩa lý của
Vatican. Từ đâu nảy sinh
ra phong trào “thần
học giải phóng”? Như
trên đã nói, thần học
giải phóng phát xuất từ
châu Mỹ La Tinh trong
thập niên 1960 và lan
sang Phi Châu và Á Châu.
Có vài lý do chính như
sau:
1. Từ khi bắt đầu xuất
hiện ở Tân Thế Giới,
Giáo hội Giatô La Mã đã
giúp một phần trong việc
chinh phục các thổ dân
bằng nỗ lực của Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha, và áp
đặt nên thuộc địa trên
vùng đất này.
2. Giáo hội Giatô nói
một đàng, làm một nẻo.
Thánh kinh dạy phải phục
vụ người nghèo nhưng
giáo hội luôn luôn thi
hành chính sách giành
dân chiếm đất, vơ vét
của cải. Điều này thật
rõ ràng qua lời than vô
cùng ý nhị của Mục sư
Desmond Tutu, người đã
đoạt giải Nobel về Hòa
bình năm 1984:
“Chúng tôi có đất đai và
họ tới với cuốn Thánh
Kinh của họ. Chúng tôi
tin họ, cầm cuốn Thánh
Kinh trên tay, nhắm mắt
cầu nguyện. Khi chúng
tôi mở mắt ra thì chúng
tôi có cuốn Thánh Kinh
và họ có đất đai của
chúng tôi.”
(We have our lands and
they came with their
Bible. We believed in
them and we pray with
the Bible in our hands
and our eyes closed.
When we open our eyes,
we have the Bible and
they have our lands.)
3. Giáo hội Giatô là một
tổ chức dựa vào luật lệ
tôn giáo, chuyên chế,
độc quyền giải thích
Thánh Kinh, đặt ra những
luật lệ không phù hợp
với dân tộc tính địa
phương và áp đặt những
luật lệ này trên khối
tín đồ thiếu hiểu biết.
Vì những lý do chính yếu
trên mà phong trào
thần học giải phóng
ra đời. Danh từ giải
phóng nói lên ý nghĩa
của mục đích giải phóng
con người khỏi những bất
công của xã hội, khỏi
những áp bức của khối
thống trị, về tư tưởng
cũng như về vật chất,
khỏi những ảnh hưởng của
ngoại lai. Cho nên,
thần học giải phóng là
cách diễn giải đức tin
Thần Giatô theo kinh
nghiệm của dân nghèo,
tìm hiểu Thánh Kinh và
các giáo lý Giatô theo
quan điểm của dân nghèo.
Con người sinh ra không
phải ngẫu nhiên nghèo
hay vì thần Giatô muốn
vậy, mà phần lớn vì tổ
chức xã hội. Do đó thần
học giải phóng lên án
cái cấu trúc kinh tế ở
Châu Mỹ La Tinh dung
dưỡng một thiểu số đi
máy bay sang Miami hay
Luân Đôn sắm đồ trong
khi đa số dân chúng
không có đủ nước lành để
uống. “Đặc biệt là những
nhà thần học giải phóng
lên án ý thức hệ tôn
giáo dung dưỡng những sự
bất công biểu hiện bởi
những hành động khủng
bố, tra tấn dân lành của
các nhà độc tài quân
phiệt với lý do bảo vệ
cái mà họ thường ưa
thích gọi là “Nền Văn
Minh Kitô Giáo Tây
phương”.
“Những dân nghèo, không
phải là da trắng, và
phái nữ đang tìm thấy ý
nghĩa mới trong niềm tin
Kitô và cùng lúc phơi
bày những sự thiếu sót
trong cách trình bày đức
tin này của những người
da trắng Tây phương.
Thần học giải phóng là
một tuyên ngôn khẳng
định sự độc lập về văn
hóa và tri thức”.
(The poor, nonwhites,
and women are finding
new meaning in Christian
faith as revealing the
short comings of
interpretation made by
Western males.
Liberation theology is a
kind of declaration of
Cultural and
Intellectual
Independence. ‘Ibid.’)
Tương tự trong cuốn A
Vision of Hope:
The Churches and Change
in Latin America
(Một Viễn Tượng của Hy
Vọng: Giáo hội và Sự
thay đổi ở Châu Mỹ - La
Tinh), Trevor Beeson &
Jenny Pearce cũng viết
như sau:
“ Đó không phải là một
môn thần học mới, mà là
cách mới để khảo sát về
thần học trong phạm trù
Châu Mỹ La Tinh – nghĩa
là trong phạm trù tranh
đấu giải phóng. Sự kiện
chính yếu là trong phạm
trù tranh đấu giải
phóng. Sự kiện chính yếu
là trên khắp lục địa
ngày càng có nhiều người
Kitô Giáo tham gia cuộc
đấu tranh cho sự giải
phóng chính trị, xã hội,
kinh tế, văn hoá và tinh
thần dân tộc họ.”(It
is not “a new theology”
which has been
discovered, but “a new
way of doing theology”
in the Latin America
context – in the
context, that is, of the
struggle for liberation.
The primary fact is
growing number in the
struggle for the
political, social,
economic, cultural and
spiritual liberation of
their people).
Trong phong trào THGP có
những bộ óc thượng thặng
Giatô như Gustavo
Gutíerrez, Juan Luis
Segundo, Leonardo Boff …
và những thần học nổi
tiếng đã góp phần tích
cực trong Cộng Đồng
Vatican II như Karl
Rahner, Edward
Schilebeeckx, Hans Kueng
… Trong số này thì Hans
Kueng và Leonardo Boff
nổi tiếng hơn cả, nổi
tiếng vì Vatican đã dùng
mọi quyền lực để tìm
cách “khoá miệng” hai vị
này. Đại cương thì luận
cứ của Hans Kueng, một
giáo sư thần học người
Đức nổi tiếng ở Châu Âu,
như sau :
Đọc Tân Ước, người
ta thấy rõ ràng là
chính Giêsu không có
thành lập một giáo
hội, nhưng đời sống
và cái chết của
Người đã đưa tới một
phong trào mà theo
thời gian đã trở
thành một tổ chức
đầy luật lệ (giáo
hội). Nếu sự tổ chức
giáo hội ngày nay,
với những chức sắc
như giám mục và linh
mục, không được dẫn
xuất từ chính ý của
chúa Giêsu, thì có
thể có nhiều hình
thức khác nhau. Thí
dụ, việc loại phái
nữ ra khỏi những
chức quyền trong
giáo hội không có
một căn bản nào từ
Thánh Kinh. Ngoài
ra, Hans Kung và
nhiều nhà thần học
khác, thí dụ như
Edward
Schillebeeckx, đã
chỉ trích giáo điều
“bất khả sai lầm”
(infaillibility) của
Giáo Hoàng, cho rằng
giáo điều này không
dựa trên bất cứ căn
bản nào ở trong
Thánh Kinh và chỉ
được xây dựng trên
một sự hiểu biết
thiếu sót về chân
lý. Hans Kueng đặt
vấn đề: ngừa thai có
phải là một chủ đề
thích hợp để đưa ra
một giáo điều không?
Giáo Hoàng có đủ tư
cách xứng đáng
(competent) để diễn
giải một định luật
thiên nhiên (natural
law) hay không? GH
thật sự có quyền đơn
phương đưa ra một
giáo điều mà không
cần sự đồng ý của
hội đồng giám mục
không?” và Kueng đưa
ra kết luận “Giáo
hội càng tỏ ra quyền
hành bao nhiêu thì
càng đưa tới sự chia
rẽ nội bộ bấy
nhiêu”.
Những tư tưởng này
dĩ nhiên đe dọa
quyền của toàn thể
hệ thống giáo hội La
Mã, ít nhất là trên
quan điểm của La Mã.
Cho nên chúng ta
không lấy làm lạ khi
Vantican tuyên bố là
Hans Kung không được
dạy giáo lý Giatô
nữa và cấm các
trường Giatô mời ông
làm giáo sư. Tuy
nhiên, rất nhiều nhà
thần học thần học
đang dạy trong các
đại học Giatô đồng ý
với Hans Kung. (Xin
đọc Liberation
Theology của Philip
Berryman và The Pope
and the Maverichkas
của Louis Baldwin).
Nhà thần học Ba Tây,
Leonardo Boff, có
viết về một cuốn
sách nhan đề
“Church: Charisma
and Power” nổi tiếng
hoàn cầu. Nổi tiếng
vì không những Cha
Boff quan niệm giáo
hội phải là giáo hội
của dân nghèo, mà
ngài còn chỉ trích
cái cấu trúc độc
đoán của Vatican, và
nhất là, ngài đưa ra
vấn đề nhân quyền
ngay trong nội bộ
giáo hội. Boff đã
viết một đoạn dài để
so sánh từng điểm
một giữa kiểu cai
trị của điện Cẩm
Linh (Kremlin) và
Vatican, so sánh GH
với Tổng Thư Ký đảng
Cộng sản, cơ quan
hành chánh Trung
Ương La Mã với bộ
chính trị của Liên
Bang Sô Viết. Lẽ
dĩ nhiên, Vatican
cũng tìm cách khoá
miệng Leonardo Boff
và cấm Cha Boff
không được phát biểu
ý kiến, không được
viết sách …. Nhưng
trứơc sự đồng lòng
phản đối của giới
lãnh đạo Giatô trên
thế giới, nhất là ở
Ba Tây, sau một thời
gian ngắn Vatican
đành phải huỷ bỏ cái
lệnh mang tính chất
Trung Cổ kia đi (Xin
đọc The Silencing of
Leonardo Boff (Bịt
miệng Leonardo Boff)
của Harvey Cox).
Có lẽ chúng ta cũng
nên biết tổ chức
quyền hành của giáo
hội Giatô La Mã ra
sao. Tổ chức này
được Cha Leonardo
Boff mô tả khá kỹ
như sau :
Leonardo Boff,
“Cấu trúc quyền lực
trong giáo hội ngày
nay là vay mượn từ
những khuôn mẫu của
nhiều thế kỷ trước,
và có hai khuôn mẫu
đặc biệt đáng nói
tới: kinh nghiệm đối
với quyền lực La Mã
và cấu trúc phong
kiến. Tuy nhiên
quyền lực La Mã
trong giáo hội ngày
nay là một trong
những nguồn xung đột
chính với sự thức
tỉnh của tâm thức
con người về vấn đề
nhân quyền.
Đặc tính quyền lực
phong kiến La Mã là,
thứ nhất, một hệ
thống bao cấp riêng
biệt; thứ nhì, bản
chất hệ thống này là
phục vụ cá nhân.
Người nào ở trong
địa vị quyền hành
thì ở đó suốt đời; ý
muốn của họ là luật
trong cấp của họ
nhưng luôn luôn bị
ràng buộc bởi sự
tuân phục của cấp
trên. Thứ ba, đó là
một hệ thống thiêng
liêng mênh mông. Nói
cách khác, tính hợp
pháp của hệ thống
này không do từ dưới
mà là từ trên xuống,
từ ý muốn của Thần
Giatô. Trong hệ
thống này, người nào
càng ở cấp cao bao
nhiêu thì càng gần
Thần Giatô bấy nhiêu
và càng được Thần
chia xẻ cho nhiều
Thần quyền bấy
nhiêu. Tuân phục cấp
trên có nghĩa là
tuân phục Thần, do
đó sự tuân phục là
một giáo luật. Thứ
tư, chế độ quyền lực
này bất khả xâm phạm
và không cho phép
một sự chỉ trích nội
bộ nào. Chỉ có cấp
trên mới có quyền
chỉ trích. Một thắc
mắt của cấp dưới
được coi như là
tương đương với
một cuộc cách mạng
trong vũ trụ. Do đó,
bất cứ ý kiến đề
nghị thay đổi nào
cũng được coi như là
một hình thức đả phá
Thần Giatô, tác giả
của hệ thống và của
cấu trúc quyền lực
thiêng liêng.”
Trong khi ở các nước
văn minh tiến bộ, hệ
thống quyền lực mô
tả ở trên không còn
đất dụng võ, thì bất
hạnh thay ở một số
quốc gia chậm tiến
thề giới thứ ba, hệ
thống quyền lực trên
vẫn đươc duy trì vì
dân trí nơi đây chưa
được phát triển, vẫn
còn tin ở chuyện
hoang đường, thí dụ
như chỉ có GH và Tòa
thánh Vatican mới có
quyền cho phép con
người hiệp thông
thần với Thần Giatô,
vì đó là những người
ở gần Thần nhất,
được sự mặc khải của
Thần, và được quyền
thay Thần để quyết
định ai được lên
Thiêng Đàng, ai
không.
Nói tóm lại, phong
trào giáo hội quốc
gia độc lập và phong
trào THGP đã nói lên
điểm chính yếu:
không có lý do nào
mà các dân tộc ở
Châu Mỹ La Tinh, ở
Trung Mỹ, ở Châu Phi
và ở Á Châu phải
chấp nhận giáo quyền
của Vatican có thực
sự thông minh và đạo
đức hơn những người
ở trong thế giới thứ
ba không, nếu chúng
ta xét tới lịch sử
của giáo hội Giatô,
của các Giáo Hoàng,
với những cuộc thánh
chiến, với những Tòa
án xử dị giáo, và
với sự kiện là sự
kiện Tòa Thánh phải
mất 359 năm để thú
nhận sai lầm về vụ
xử oan Galileo? Mỗi
nền văn hoá đều khá
nhau. Không có một
lý do nào mà các nền
văn hoá Châu Mỹ La
Tinh, Châu Phi và Á
Châu phải rập theo
khuôn của nền văn
hoá Tây phương (Á
châu). Chấp nhận sự
lệ thuộc vào văn hoá
Tây Phương, bất kể
dưới hình thức nào,
cũng là biểu lộ óc
nô lệ, thiếu tự tin
của những người bản
xứ thiếu tinh thần
quốc gia nếu không
muốn nói là phản bội
quốc gia. Ý thức
dân chủ càng ngày
càng lên cao ở các
quốc gia trong thế
giới thứ ba, và ý
thức dân chủ này
cũng được áp dụng
trong lãnh vực tôn
giáo, không chỉ thu
hẹp trong phạm vi xã
hội. Những ý thức
hợp lý này đã đe doạ
hệ thống quyền lực
tôn giáo ở Vatican,
nên Giáo Hoàng cần
phải có phản ứng.
3. Nguyên nhân thứ
ba
là ngày càng có
nhiều linh mục và
giáo dân rời giáo
hội Giatô La Mã.
Nhìn vào số thống kê
giáo dân của giáo
hội thì người ta
không thấy gì vì
giáo hội chỉ tính
những người rửa tội
mà không tính những
người bỏ đạo. Giáo
hội quan niệm rằng
“một khi đã là dân
Giatô thì sẽ mãi mãi
là dân Giatô” (One a
Catholic, always a
Catholic). Tuy
nhiên, kết quả khảo
cứu của các nhà xã
hội học Giatô qua
phương pháp thâu
thập dữ kiện, phân
tích và dự phóng
khoa học, đã đưa ra
những con số rất
đáng lo ngại đối với
Vatican.
Một thí dụ điển hình
là trong cuốn Full
Pews and Empty
Altars ( Nhà thờ đầy
bục giảng và trống
trơn), kết quả công
trình nghiên cứu
trong 6 năm của hai
học giả xã hội học
Richard Schonherr và
Lawrence Young của
đại học Wisconsin
Madison, tác giả
khuyến cáo đạo Giatô
là: “Sự thiếu hụt
linh mục ở Mỹ đang
làm cho nền tảng của
giáo hội Giatô La Mã
sụp đổ” (The
shortage of priests
in the US is
crumbling the
foundation of the
Roman Catholic
Church) và
đưa con số dự phóng:
“từ năm 1966 tới
năm 2005, con số
linh mục sẽ giảm
40%, từ 35.000 xuống
còn 21.000 trong khi
GH vẫn giữ vững lập
trường không cho
phái nữ làm linh
mục.”
Điểm đặc biệt trong
vụ này là, nguồn tài
trợ cuộc nghiên cứu
từ năm 1984 này lại
do chính một cơ sở
Giatô đài thọ, hãng
dược phẩm Lilly.
Nhưng năm 1990 khi
các tác giả đưa ra
kết quả của cuộc
nghiên cứu thì lập
tức phần tài trợ
cuối cùng bị cắt. Lý
do?
Hồng y Tổng giám mục
Los Angeles tuyên
bố: “Chúng ta là
đệ tử của Giêsu
Kitô, chúng ta sống
do ân huệ của Thần
Giatô, và tương lai
của chúng ta được
xếp đặt bởi sự chỉ
định của Thần cho
giáo hội, chứ không
bởi các nhà xã hội
học”.
Cardinal Archbishop
Roger Mahony of Los
Angeles said at the
time: “we are
disciples of Giêsu
Christ, we live by
God’s grace, and our
furute is shaped by
God’s design for his
Church – not by
sociologists”.
Đó là tâm cảnh của
một vị Hồng Y Giatô
Mỹ, và đó cũng là
thái độ của Giatô
đối với khoa học
hiện nay, trứơc
ngưỡng cửa thế kỷ
21.
Thật ra vì kết quả
nghiên cứu trên cũng
không có gì đặc biệt
vì sự kiện các linh
mục bỏ đạo đã trở
nên trầm trọng từ
lâu. Giáo Hoàng đã
biết vậy và đang tìm
cách lật ngược chiều
hướng này bằng sự
tuyển mộ và cầu
nguyện (Pope JP II
is trying to reverse
thies trend
primarily through
recruitment and
prayer). Trong cuốn
Shattered Vows:
Priests Who Leave
(Lời nguyện bị tan
vỡ: Những linh mục
Mỹ bỏ đi). Tác giả
David Rice là một
ông Cha dòng Đô – MI
– Níc và ngài đã đi
khắp nơi tổng cộng
38.000 miles để
phỏng vấn và tìm
hiểu đời sống của
các linh mục sau khi
bỏ giáo hội, đã viết
như sau:
“100.000 linh mục
Giatô đã rời bỏ giáo
hội trong 20 năm qua
– cứ mỗi 2 giờ đồng
hồ lại có hơn 1 linh
mục ra đi. Hầu như
phân nữa số linh mục
Mỹ sẽ bỏ đi – thường
là để lập gia đình –
chưa tới 25 năm sau
khi được tấn phong.
Vatican không nói
tới cuộc di dân này,
nhưng đó chính là
cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng nhất mà
giáo hội phải đối
diện, kể từ khi có
cuộc Cải Cách Tin
Lành”
(100.000 Roman
Catholic Priests
have walked out in
the last 20 year –
more than one than
one every two hours.
Almost half of all
American priests
will leave – most
often, to marry –
before the 25th
anniversary of
their ordination.
The Vatican won’t
told about this
exodus, yet it is
the most grievous
crisis to face the
Church since the
Protestant
Reformation.)
4. Nguyên nhân
thứ tư là
hình ảnh xì – căng –
đan vang dội thế
giới. Từ sự ký kết
những thoả hiệp với
Hitler và Mussolini
trong thế chiến II
cho tới những vụ
tiền bạc thâm lạm ở
nhà băng dính líu
với Mafia, bao che
tội phạm trong
Vatican, làm thông
hành giả cho tội
phạm trong Vatican,
làm thông hành giả
cho tội phạm chiến
tranh dùng đường dây
chuột (ratlines) qua
ngã Caritas ..v..v..
tất cả đã làm cho
Giáo hội Giatô mất
đi tính cách tôn
giáo mà nặng nề về
chính trị hoạt đầu.
(Xin đọc The
Vatican’s Holocaust
(Lò Sát Sinh của
Vatican) của Avro
Manhattan.
Genocide in
Satellite Croatia,
1941- 1945
(Chính Sách Diệt
Chủng ở Chư Hầu
Croatia) của Edmond
Paris. The
Vatican Empire
(Đế Quốc Vatican)
của Nino Lo Bello,
The Vatican
Connection (Sự
Dính Líu Của
Vatican) của Richard
Hammer, và
Priests and
Politicians
(Linh Mục và Chính
Trị Gia) của
B.S.Rajneesh.)
Với chủ trương “cứu
cánh biện minh cho
phương tiện”, chỉ lo
sự tồn vong của
Vatican bất kể đạo
đức và sự an sinh
của nhân loại, giáo
hội Giatô đang đi
trên con đường tự
hủy diệt. Trong thế
giới tự do, với
quyền báo chí hiện
nay, với các phương
tiện truyền thông
tân kỳ, giáo hội
Giatô không có cách
gì che đậy hay dấu
diếm những hoạt động
của giáo hội. Ngoài
ra, về phương diện
đạo đức, vụ kiện 1,2
tỷ đô la (1.2
billion dollar
lawsuit) liên hệ đến
những lạm dụng phi
luân trong một cô
nhi viện ở Canada,
trong đó các “sơ mặc
áo xám” (graynuns)
hành hạ trẻ em cho
đến chết, và cố ý
làm cho một số em bị
tật nguyền
(disabled), thí dụ
như chọc thủng màng
tai, để lãnh của
chính phủ $2.50 thay
vì 75 xu một ngày
cho mỗi em khỏe mạnh
bình thường, được
phanh phui trong
chương trình Prime
Time trên TV, và mới
đây cuốn phim “The
Boys of St.Vincent”
(Những Em Nhỏ ở Cô
Nhi Viện St.
Vincent) nói về các
vụ hành hạ và hiếp
dâm các trẻ em trong
cô nhi viện St.
Vincent ở
Newfoundland bên
Canada đã làm cho
quần chúng ghê tởm
những hành động phi
luân của các giáo sĩ
và nhất là sự bao
che của giáo hội cho
những kẻ phạm pháp.
Nhưng mang tiếng hơn
cả là hơn 400 linh
mục phạm tội hiếp
dâm nữ tín đồ và trẻ
em được giáo hội bỏ
ra hơn 400 triệu đô
la để dàn xếp ngoài
tòa cho mọi sự được
ếm nhẹm, và dùng
tiền bạc thuê luật
sư để tố ngược lại
cha mẹ nạn nhân với
lý do không săn sóc
con cái. Về những vụ
này, trong cuốn A
Gospel of Shame:
Children, Sex Abuse
and the Catholic
Church (Một phúc
âm nhục nhã: Vấn đề
lạm dụng tình dục và
trẻ em trong Giáo
Hội Giatô) Elinor
Burkett và Frank
Bruni, mô tả như
sau:
“Cuốn sách dùng
những cuộc phỏng vấn
các nạn nhân để khảo
sát vị trí dễ bị lạm
dụng duy nhất của
trẻ em trước các
linh mục, và các
linh mục phạm pháp
để tìm hiểu về đời
sống cô độc nguy
hiểm của họ. Cuốn
sách đưa ra những
tài liệu về sự bất
lực của công tố
viên, quan tòa, tâm
lý gia và ký giả
trong việc theo dõi
kiểm soát các giám
mục, những người đã
dùng cả triệu đô la
để bảo vệ tiếng tăm
của giáo hội hơn là
bảo vệ các tín đồ.”
(The book uses
interviews with
victims to examine
children’s unique
vulnerability to
priests and with
priests abusers to
explore their
dangerous isolation.
It documents the
failure of
prosecutors, judges,
psychologists and
reporters to monitor
bishops, who spend
million of dollars
to protect the
church’s image
rather than its
believers.)
Cùng một đề tài
nghiên cứu, trong
cuốn Lead Us Not
into Temptation:
Catholic Priests and
the Sexual Abuse of
Children (Xin
Đừng Dẫn Chúng Con
Vào Sự Cám Dỗ: Các
Linh Mục Công Giáo
và Vấn Đề Hiếp Dâm
các Em Nhỏ), Jason
Berry đã đưa ra kết
quả của 1 cuộc
nghiên cứu là:
“Ở Bắc Mỹ, từ 1984
tới 1992, 400 linh
mục Giatô đã bị tố
cáo là hiếp dâm trẻ
con. Cho tới nay
(1992) Berry ước
tính là Giáo Hội đã
bỏ ra 400 triệu đô
la để giải quyết
những vụ trên. Một
sự nghiên cứu dự
phòng là Giáo hội sẽ
phải tiêu 1 tỷ đô la
trước khi thế kỷ này
chấm dứt.”
(In fact, between
1984 and 1992, 400
Catholic priests in
North America have
been reported for
molesting children.
To date, Berry
estimates, $400
million has been
paid by the Church
to resolve these
cases. One source
projects that $1
billion may be paid
by century’s end).
Nhận định về cuốn
sách này, Cha Andrew
M. Greeley, giáo sự
tại đại học Chicago,
viết rằng:
“Tôi biết nhiều vụ
và tình trạng mà
Jason Berry viết.
Tôi có thể bảo đảm
với độc giả là, theo
sự hiểu biết của
tôi, những gì Berry
đưa ra là chính xác
và dè dặt, nếu không
muốn nói là quá thận
trọng. Ấn tượng vững
chắc của tôi là tình
trạng thực sự tệ hơn
là những điều viết
trong sách. Tôi cho
rằng, khi đọc qua
những trang sách
này, chúng ta sẽ cảm
thấy thật là giận,
không hẳn chỉ là
giận những kẻ gây ra
tội lỗi vì chính họ
cũng thường, nếu
không muốn nói là
luôn luôn, là nạn
nhân khi còn nhỏ
tuổi, mà là giai cấp
lãnh đạo Giatô. Các
Giám Mục có vẻ như
được đào luyện giống
nhau để cùng dấu
diếm, che chở, hối
lộ, lạnh lùng, và
thường là lại bổ
nhiệm trở lại giáo
phận những người mà
họ biết là mối nguy
hại cho đám tín đồ.”
(I am familiar with
many of the cases
and situations about
which Jason Berrt
writes. I can assure
the reader that to
the best of my
knowledge his
reporting is
accurate and
restrained, indeed
if anything almost
too conservative. It
is my strong
impression that the
situation is
actually much worse
than it appears in
this book. One will
become very angry, I
suspect, as one
reads through its
pages, not so much
at the victimizers,
who themselves were
often, if not
always, victims when
thay were children,
but at Catholic
leadership. Bishops
have with that seems
like programmed
consistency tried to
hide, cover up,
bribe, stonewall,
often they have sent
back into parishes
men whom they knew
to be a danger of
the faithful.)
Bốn nguyên nhân
chính ở trên đã tạo
nên đà suy sụp bất
khả nghịch chiều
(irreversible) của
giáo hội La mã trên
thế giới và đó cũng
là lý do chính thúc
đẩy John Paul II
viết cuốn
Bước Qua Ngưỡng Cửa
Hy Vọng.
* * *
B. LÝ DO THỨ NHÌ
là sự bành
trướng của Phật
giáo và Hồi Giáo ở
Âu Châu và Mỹ Châu.
Tôi không biết gì về
Hồi Giáo, nhưng về
Phật giáo thì tôi
thấy rõ sự phát
triển của tôn giáo
này ở Âu Mỹ. Cách
đây 25 năm, khi còn
đang học ở Mỹ, tôi
chỉ thấy lơ thơ vài
cuốn sách về Phật
giáo như bộ Thiền
Luận của Daisetz
T. Suzuki, cuốn A
Buddhist Bidle
của Dwight Goddard,
cuốn Zen Keys
của Thích Nhất Hạnh,
và một số sách của
vài tác giả quen
thuộc như Edward
Conze, Christmas
Humpfreys, Sir Edwin
Arnold, Theodore
Stcherbatsky, Alan
Watts, Charles Luk,
Sangharakshita, John
Blofeld và Philip
Kapleau. Nhưng ngày
nay, ra 1 tiệm sách
lớn thì ta thấy cả
một rừng sách về
Phật giáo. Năm 1993,
cuốn The Miracle
of Mindfulness
(Phép Lạ Của Sự Tỉnh
Thức) của Thích Nhất
Hạnh là một trong
những cuốn bán chạy
nhất (best sellers).
Sách về Phật giáo
Tây Tạng ra cũng
nhiều và càng ngày
càng có nhiều người
đọc, nhất là từ sau
khi Đức Dalai Lama
được trao tặng giải
thưởng Nobel về Hòa
Bình.
Ảnh hưởng của Phật
giáo và những xã hội
Âu Mỹ đã được phát
triển trên ba phương
diện bởi ba nhân vật
điển hình có tên
tuổi: Daisetz T.
Suzuki với Thiền
Tông, Đức Dalai Lama
với Mật Tông, và Hòa
Thượng Thích Nhất
Hạnh với quan niệm
“Phật giáo Nhập Thế”
và dòng “Tiếp Hiện”,
lẽ dĩ nhiên với sự
góp sức của rất
nhiều Tăng Sĩ và Cư
sĩ Phật giáo khác.
Gần đây chương trình
“60 Minutes” của đài
truyền hình CBS có
cho biết là hiện nay
ở Hoa Kỳ có hơn 2
triệu người Mỹ theo
Phật giáo hay chịu
ảnh hưởng của Phật
giáo, chưa kể tới
những người gốc Á
Châu như Nhật Bản,
Trung Hoa, Việt Nam,
Đại Hàn v.v... Đài
truyền hình NBC cũng
cho biết riêng ở Los
Angeles có khoảng
300 trung tâm Phật
giáo (Buddhist
Centers), Boston có
khoảng 50, v.v...
Trong cuốn How
The Swans Came To
The Lake, Rick
Fields viết về lịch
sử phát triển Phật
giáo ở Hoa Kỳ với
những sự đóng góp
của Đức Dalai Lama,
Hòa Thượng Thích
Nhất Hạnh trong
nhiều cộng đồng.
Muốn biết sự phát
triển của Phật giáo
ở Âu Châu, xin đọc
Buddhism in
Europe của Kosho
Yamamoto, Zen
Comes West của
Christmas Humphreys.
Tenzin Gyatso
Đạt-lai Lạt-ma thứ
14 năm 2012,
Ảnh hưởng của Đức
Dalai Lama càng
ngày càng lên cao,
nhất là từ ngày Ngài
được giải thưởng
Nobel về hòa bình,
đã khiến cho Giáo
Hoàng John Paul II
phải lo ngại và viết
như sau, trang 104:
“Ngài đem Phật
giáo đến với những
người Kitô Giáo Tây
phương, “khuấy động”
(stirring up) sự
quan thiết
(interest) về cả
đường hướng tu đức
lẫn những phương páp
cầu nguyện của Phật
giáo” và sau đó “lưu
ý các Kitô Hữu phải
thận trọng trong
việc nồng nhiệt đón
nhận một vài tư
tưởng đến từ những
truyền thống truyền
giáo của Viễn Đông”
(trang 108). Ở đây,
chúng ta nên nhận rõ
hai điều: thứ nhất,
sự phát triển của
Phật giáo trên thế
giới từ xưa tới nay
luôn luôn nằm trong
tinh thần từ bi bác
ái và hòa bình, chưa
hề làm đổ một giọt
máu, cho nên dù có
“khuấy độﮧ” thì cũng
chẳng có phương hại
gì tới bất cứ ai;
thứ nhì, lịch sử
Giatô trong 2000 năm
qua đã chứng minh
rằng, bất cứ nơi nào
mà Giatô Giáo đến
“khuấy động” là nơi
đó có máu đổ, có sự
chia rẽ, có sự đối
nghịch với nền văn
hóa địa phương, và
thường các giáo sĩ
thừa sai Giatô là
đoàn quân tiên phong
đến lập một đoàn
quân thứ năm của
người bản xứ để hỗ
trợ cho đoàn quân
thực dân kéo tới
sau.
Và, để cho tín đồ
Giatô khỏi bị khuấy
động bởi Phật giáo,
John Paul II đã phê
bình Phật giáo là
một hệ thống “vô
thần”. Chính câu
này đã làm cho Tỳ
Kheo Nalin de Silva
cho rằng đó là những
lời nhận xét lắt léo
với ác ý (malicious
remarks). Lý do?
Trong nhiều năm qua,
Giatô Giáo đối
nghịch với Cộng Sản
và luôn luôn kết hợp
CS với vô thần để
khích động lòng căm
thù của giáo dân đối
với CS. Tín đồ Kitô
và những người phi
Cộng Sản không hiểu
rằng, CS là một ý
thức hệ chính trị,
kinh tế, và xã hội;
trong khi Vô Thần là
một lập trường tâm
linh đối với tôn
giáo.
Vô thần đã có từ cả
mấy ngàn năm nay,
trong khi CS mới
xuất hiện chưa đầy
100 năm. Tuyệt đại
đa số dân Nga theo
Chính Thống Giáo,
cũng như tuyệt đại
đa số dân các nước
Âu Châu theo Giatô
La Mã. Chủ nghĩa CS
được phát động và
phát triển ở những
nơi này chính vì sự
liên kết của tôn
giáo và chính quyền
để bóc lột dân
nghèo, và những
người CS chống tôn
giáo là vì tôn giáo
đã hiệp với quyền
hành thế gian, dung
dưỡng những bất công
trong xã hội.
Ý Đại Lợi là nước
ngoan đạo nhất và
đoàn quân của
Garibaldi tiến vào
La Mã tước bỏ các
lãnh thổ của Giáo
Hoàng, thu hẹp lãnh
thổ này trong phạm
vi thị trấn nhỏ
Vatican, đều là tín
đồ Giatô. Cuộc cách
mạng 1789 của Pháp
tước đoạt quyền hành
của các giám mục,
đưa một số linh mục
lên máy chém cũng là
do dân Giatô thực
hiện. Các thể chế CS
ở Đông Âu cũng do
dân Giatô lãnh đạo,
họ tin ở Thần Giatô
và Giêsu Kitô nhưng
không chấp nhận
những lạm dụng quyền
hành của tôn giáo.
Vậy họ chống những
kẻ lợi dụng tôn giáo
để mưu đồ quyền lợi
cá nhân nhưng không
phải họ là vô thần.
Cộng Sản Việt Nam
không nhìn ra điều
này, nhắm mắt nhắm
mũi áp dụng chính
sách chống tôn giáo
của Nga Sô và các
nước Cộng Sản Đông
Âu mà không hiểu
rằng suốt trong dòng
lịch sử Việt Nam,
các tôn giáo dân
tộc, nhất là Phật
giáo, là linh hồn
của dân tộc mà chưa
bao giờ Phật giáo
đứng về phe chính
quyền để bóc lột dân
nghèo. Chỉ có giai
cấp có quyền hành,
thực dân Pháp và tay
sai mới bóc lột giai
cấp công nông, chứ
Phật giáo không chủ
trương bám víu vào
của cải quyền lực
thế gian thì làm sao
có thể bóc lột bất
cứ ai. Ngoài ra, ở
các nước Giatô, giáo
dân được ru ngủ để
cho giới giáo sĩ
được nảy nở, nắm
giữ quyền hành,
nhất là ở các thuộc
địa, chứ ở Việt Nam
Phật giáo luôn luôn
đứng đầu trong việc
xây dựng nước và
chống ngoại xâm,
cho nên bảo rằng
Phật giáo là thuốc
phiện ru ngủ dân
chúng để mà đàn áp
cũng lại là một kiểu
nhắm mắt nhắm mũi
theo một ý thức hệ
ngoại lai mà không
biết đến những bối
cảnh lịch của dân
tộc. Đó là chính
sách sai lầm nghiêm
trọng của Cộng Sản
Việt Nam và của giới
lãnh đạo già nua
trong óc đã hao hụt
nhiều tế bào thần
kinh (neurons).
Trở lại câu phê bình
của GH John Paul II
mà Tỳ Kheo de Silva
gọi là lắt léo.
Thật vậy, John Paul
II là người đã tham
dự và tích cực đóng
góp cho cộng đoàn
Vatican II. Trong
bản tuyên ngôn về
liên hệ giữa Giáo
Hội và các tôn giáo
phi Kitô
(Declaration on the
Relationship of the
Church to
Non-Christian
Religions) có một
đoạn nói về Phật
giáo như sau:
“Phật giáo, trong
những dạng khác
nhau, nhận biết sự
thiếu sót của thế
giới hằng chuyển
này. Phật giáo dạy
một con đường theo
đó con người, với
một tinh thần tin
tưởng và nhiệt tâm,
có thể hoặc đạt tới
một trạng thái tự do
tuyệt dối hoặc hoàn
toàn giác ngộ, do
chính sự tinh tấn
của mình hay với trợ
lực của đấng cao
hơn.”
(Buddhism in its
multiple forms
acknowledges the
radical
insufficiency of
this shifting world.
It teaches a path by
which men, in a
devout and confident
spirit, can either
reach a state of
absolute freedom or
attain supreme
enlightenment by
their own efforts or
by higher
assistance.) (The
Documents of Vatican
II by Walter M.
Abbott, General
Editor).
Đó là một sự mô tả
Phật giáo tương đối
đúng, và John Paul
II chắc chắn đã đọc
đoạn này. Nhưng ngài
vẫn cố ý viết về một
“thuyết cứu rỗi”
tưởng tượng của Phật
giáo, phê bình Đức
Phật sai lầm vì phủ
nhận giá trị của
việc “tạo dựng”, và
Phật giáo là một hệ
thống “vô thần”,
ngầm kết hợp Phật
giáo với Cộng Sản để
khai thác lòng thù
hận CS mà giáo hội
đã reo rắc vào tâm
hồn giáo dân từ bao
lâu nay. Nếu chúng
ta theo dõi tình
hình hải ngoại thì
đây cũng là luận
điệu của nhóm Giatô
Cần Lao bấy lâu nay
trên diễn đàn báo
chí và điện tử ở
ngoại quốc. Trên
những diễn đàn hải
ngoại, bất cứ người
nào viết về Giatô
Giáo, tuy là sự
thực, cũng bị chụp
lên đầu cái mũ thân
Cộng, hay nằm trong
chính sách phá Giatô
Giáo, gây chia rẽ
tôn giáo của Cộng
Sản Việt Nam. Những
kẻ buôn nón cối này
(hat dealers) không
chịu đọc sách nên
không hiểu rằng
những tác giả viết
về Giatô Giáo đều là
những học giả, giáo
sư đại học, và những
ông Cha Giatô, những
nhà thần học Giatô,
hoàn toàn không dính
dáng gì tới Cộng
Sản.
Người Việt Nam, sau
hơn 80 năm dưới sự
đô hộ của người
Pháp, không nhiều
thì ít cũng quen
thuộc với sử Pháp.
Chúng ta khó có thể
quên Léon Gambetta,
một chính trị gia
lỗi lạc của Pháp,
trong cuộc hô hào
đoàn kết quốc gia,
đã hét lên “một
lời tuyên chiến:
Giáo Sĩ đoàn đặc
quyền, đó chính là
kẻ thù” (Un cri de
guerre: Le
Cléricalisme, voilà
l’ennemi!), và
Emile Combes, một
nghị sĩ đã phát biểu
giữa nghị trường
Pháp như sau:
“Không phải là chúng
ta tấn công tôn giáo
mà là những giáo sĩ,
những người muốn
dùng tôn giáo làm
một công cụ thống
trị.”
(Ce n’est pas à la
religion que nous
nous attaquons,
c’est à ses
ministres, qui
veulent s’en faire
un instrument de
domination.)
Chúng ta cũng khó có
thể quên Jean Bossu,
khi tranh đấu cho
nền dân chủ của Pháp
đã tuyên bố :
“Chống giáo sĩ đoàn
đặc quyền là nền
tảng căn bản của
tinh thần dân chủ.
Đối với chúng ta,
giáo sĩ đoàn đặc
quyền, chính là Giáo
hội, chính là Giatô
Giáo mà từ trước tới
nay luôn luôn là kẻ
đối nghịch của mọi
thứ tự do.”
(L’anticléricalisme
est la base
fondamentale de
l’esprit
démocratique... Pour
nous, le
cléricalisme, c’est
l’Église, c’est la
Catholicisme, qui a
toujours été
l’adversaire de
toute liberté.)
Các nhà trí trức
Pháp đã nhận thấy sự
quan trọng của một
nền giáo dục Giatô
trên nhiều phương
diện, và họ đã thành
công trong việc giật
con em họ ra khỏi
vòng tay “giáo dục”
của các giáo sĩ
Giatô, và vạch trần
những đạo đức giả
của Giáo hội
(Arraché l’enfant au
moine, dévoilé les
hypocrisies de
l’Église.) So với
nền giáo dục khai
phóng, Giáo dục
Giatô là loại giáo
dục mà những nhà trí
thức Pháp coi như là
chống lại tổ quốc và
tiến bộ, như Bộ
Trưởng Giáo Dục Pháp
Charles Dupuy đã
phát biểu:
"Chúng ta xác quyết
rất thẳng thắn là,
đối với chúng ta
thật là điều không
thể nhân nhượng được
trong chiều hướng
giáo dục tự do, bất
cứ người nào lại có
thể dạy dỗ trẻ con
để chống lại tổ quốc
của chúng và cản sự
tiến bộ của chúng."
(Nous le déclerons
très franchement, il
nous parait
intolérable qu’à la
faveur de la liberté
d’enseignement, qui
que ce soit puisse
élever des enfants
contre leur pays et
contre leur temps.)
Và, Gustave Tery,
sáng lập viên nhật
báo L’Oeuvre cũng
đưa ra một đường lối
hành động như sau :
"Tôi đã hiểu rằng
không chiến đấu
chống Giáo hội Giatô
chính là phục vụ cho
Giáo hội, và rằng im
lặng là hèn nhát.
Tôi hiểu rằng chỉ
không để cho bị lừa
bịp thì chẳng đủ
chút nào, mà còn
phải luôn luôn tố
cáo sự dối trá."
(J’ai compris que ne
pas combattre
l’Église, c’est la
servir, et que le
silence est lâche.
J’ai compris qu’il
ne suffit point de
ne pas être dupe,
mais qu’il faut à
toute heure dénoncer
le mensonge.)
Nhưng rõ ràng hơn cả
là 2 nhận định sau
đây của đại văn hào
Victor Hugo :
1. "Chỉ có hai tội
phạm, Xê-Da và
Phê-Rô ; Xê-Da thì
giết người (hủy diệt
thân xác), Phê-Rô
thì nói láo (hủy
diệt tinh thần)...
Người linh mục đã,
hoặc có thể, bị
thuyết phục và thành
thật. Chúng ta có
nên trách họ không?
Không. Chúng ta có
nên chống họ không?
Nên." (Il n’y a que
deux coupables,
César et Pierre ;
César qui tue,
Pierre qui ment...
Le prêtre est, ou
peut être, convaincu
et sincère. Doit-on
le blâmer? Non.
Doit-on le
combattre? Oui.)
2. "Nền văn minh,
ánh sáng này, có thể
bị tắt đị bởi hai
cách bị chìm đắm;
hai sự xâm lăng nguy
hiểm đối với nền văn
minh, sự xâm lăng
của các quân lính và
sự xâm lăng của các
linh mục Giatô. Sự
xâm lăng của các
linh mục đe dọa con
chúng ta, tương
lai."
(Le civilisstion,
cette lumière, peut
être éteinte par
deux modes de
submersion ; deux
invasions lui sont
dangereuses,
l’invasion des
soldats et
l’invasion des
prêtres. L’une
menace notre mère,
la patrie ; l’autre
menace nos enfants,
l’avenir).
Victor Hugo
Không phải là bây
giờ hay gần đây con
người mới ý thức
được những sự dối
trá của giáo đoàn
đặc quyền Giatô và ý
thức được sự cần
thiết của tự do tư
tưởng, song song với
sự tiến bộ của văn
minh nhân loại, mà
trong suốt bao nhiêu
thế kỷ, cái khát
vọng tự do này của
con người đã phát lộ
khắp nơi trên thế
giới. Tìm hiều về
những nhân vật nổi
danh trên thế giới
như : Asimov,
Beethoven,
Berthelot, Charles
Bradlaugh, Brahms,
Einstein, Anatole
France, Jules Ferry,
Sigmund Freud,
Galileo, Victor
Hugo, Thomas Huxley,
Robert Ingersoll,
Thomas Jefferson,
Lafayette, Mozart,
Lincoln, Nietzche,
Thomas Paine,
Bertrand Russel, Sir
Walter Scott, Mark
Twain, Voltaire,
H.G.Wells v.v...
chúng ta sẽ thấy họ
đều là những nhà tự
do tư tưởng
(freethinkers) và
cùng chung một hướng
đi: tranh đấu cho tự
do tư tưởng của con
người và chống đối
những huyền thoại
dối trá phản tiến
hóa của Giáo hội
Giatô mà biểu tượng
là Vatican. Cho
nên, chụp mũ những
người viết về sự
thực của Giatô Giáo
hay Vatican là thân
Cộng, là tay sai của
Cộng Sản, là dùng
sách lược chống
Giatô của Cộng sản,
là chia rẽ tôn giáo
để giảm tiềm năng
chống Cộng v.v... là
luận điệu của những
người không chịu tìm
hiểu, không đọc
sách, không đọc lịch
sử khách quan của
Giáo hội Công giáo
cũng như lịch sử thế
giới, mang Cộng sản
ra làm cái bung xung
để khai thác lòng
thù hận của những
người đối nghịch với
Cộng sản, bẻ
quẹo vấn đề, không
đủ khả năng thảo
luận, không đủ can
đảm để nhận những sự
thực lịch sử, và
thiếu tính lương
thiện và sĩ khí của
những người trí
thức.
* * *
Bình luận về vài
điểm
trong cuốn Bước
Qua Ngưỡng Cửa Hy
Vọng của GH John
Paul II.
Sau đây, tôi xin
sang phần bình
luận về vài điểm
trong cuốn Bước
Qua Ngưỡng Cửa Hy
Vọng của GH John
Paul II. Thật tình
thì tôi chẳng muốn
đi vào tín ngưỡng
của bất cứ ai, vì
tín ngưỡng là quyền
tự do của con người,
kể cả niềm tin thuộc
loại mê tín dị đoan.
Nhưng Giáo Hoàng,
với cương vị của
lãnh tụ tối cao một
tôn giáo lớn mà lại
dựa vào niềm tin của
mình để phê bình sai
lầm về một tôn giáo
khác hay về Giáo Chủ
của một tôn giáo
khác là một điều khó
có thể chấp nhận. Do
đó sau đây tôi sẽ
luận về lời phê bình
Đức Phật của John
Paul II: "Đức
Phật đúng khi Ngài
không thấy sự cứu
rỗi trong việc tạo
dựng, nhưng Ngài đã
lầm khi, vì lý do đó
mà Ngài phủ nhận sự
tạo dựng có một giá
trị nào cho nhân
loại."
Điểm then chốt ở đây
là thuyết "tạo
dựng" trong
Giatô Giáo, một
thuyết mà Phật giáo
không bao giờ để ý
tới. Có thể tham cứu
kinh “Khởi thế nhân
bổn”, Trường bộ kinh
số 27 do HT Minh
Châu dịch, có nói
khá rõ về cách hình
thành loài người và
thế giới, không phải
do một đấng Thượng
đế Toàn năng nào
tạo dựng ra (link:
http://buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-truongbo/truong27.htm
). Hơn nữa, quan
niệm về "thế giới
thành tựu" trong
Kinh Hoa Nghiêm khác
hẳn với thuyết tạo
dựng của Giatô. Thật
vậy, trong Kinh Hoa
Nghiêm, phẩm "Thế
Giới Thành Tựu", Bồ
Tát Phổ Hiền tuyên
thuyết về 10 đặc
tính của các thế
giới như Nhân duyên
khởi, hình trạng
v.v... không có chỗ
nào nói về việc tạo
dựng thế giới do một
siêu nhân. Đặc biệt
là Phật giáo quan
niệm có hằng hà sa
số thế giới có hình
trạng khác nhau như
trong đoạn kinh văn
sau đây:
"Lúc đó Phổ Hiền Bồ
Tát bảo đại chúng
rằng: Chư Phật tử!
Thế giới hải có
nhiều hình tướng sai
khác, hoặc tròn hoặc
như nước xoáy...
hoặc hình như hoa...
có vi trần số hình
sai khác như vậy",
khác hẳn Giatô Giáo
quan niệm thế giới
chúng ta đang sống
là thế giới duy nhất
do Thần Giatô tạo
ra, và trái đất là
trung tâm của thế
giới này, mặt trời
và các hành tinh
khác đều do các
thiên thần xoay vần
xung quanh trái đất.
Quan niệm Giatô này,
dựa trên Thánh Kinh
được coi như là
những lời của Thần
Giatô nên không thể
sai lầm, đã đưa
Giordano Bruno lên
dàn hỏa thiêu sống,
và biệt giam Galileo
tại gia nhiều năm
cho đến khi chết,
chỉ vì những khoa
học gia này, dựa vào
thực nghiệm, đưa ra
thuyết trái đất và
các hành tinh xoay
xung quanh mặt trời,
và ngoài thế giới
chúng ta đang sống
còn có nhiều thế
giới khác nữa.
Bức tranh Galileo
đối mặt với Toà án
dị giáo La Mã
năm 1857 của
Cristiano Banti.
Chúng ta cũng không
nên quên là phải mất
359 năm, tới năm
1992, tòa Thánh
Vatican mới công
nhận là sai lầm về
vụ xử Galileo. Cho
nên, người ta đã đặt
câu hỏi: nếu Thánh
Kinh đã có những
điều sai lầm thì có
gì bảo đảm là thuyết
tạo dựng trong Thánh
Kinh không sai lầm?
Và nếu phải mất hơn
3 thế kỷ rưỡi mới
công khai nhận lầm
về một sự thật
hiển nhiên, thì làm
sao bây giờ họ có
thể nhận ra được
những tội ác cũng
rất hiển nhiên của
họ trong gần 100 năm
vừa qua trên các dân
tộc Á-Phi-Mỹ La
Tinh?
Chúng ta biết rằng
thuyết tạo dựng của
Giatô Giáo dẫn đến
quan niệm Adam và
Eve là tổ tông của
loài người, rồi vì
cưỡng lời Thần ăn
đại một trái táo nên
Adam sa ngã và kết
quả là đời đời kiếp
kiếp con cháu về sau
phải bị đày ải với
tất cả những khổ đau
ở trên đời vì mang
tội tổ tông,
rồi đến Thần Giatô
sai người con duy
nhất của ngài xuống
trần để chuộc tội
tổ tông cho thế
gian, và con người
muốn giữ một chỗ
trên Thiên Đàng sau
khi chết chỉ cần đặt
hết lòng tin vào
Thần Giatô thì sẽ
được cứu rỗi.
Và sau đây là vài
điểm trong cuốn
Bước Qua Ngưỡng Cửa
Hy Vọng liên
hệ tới việc "tạo
dựng" mà tôi muốn
phân tích, hoàn toàn
dựa vào những lý
luận thông thường mà
tôi cho rằng bất
cứ người nào có
một trình độ học vấn
tối thiểu cũng có
thể hiểu được:
1.) "Khi đức KiTô
nói về tình yêu mà
Chúa Cha đã ban cho
nhân loại, ngài muốn
làm vang vọng lời
xác quyết đầu tiên
trong sách Sáng Thế
Kỷ nói về việc tạo
dựng "Chúa thấy nó
tuyệt hảo – Ngài
thấy nó rất tốt đẹp,
Gen: 1:12-31"
(Trang 77). Câu trên
nói về việc tạo dựng
mà Thần Giatô cho là
"tuyệt hảo", "rất
tốt đẹp" và tình yêu
Thần đã ban cho nhân
loại.
Chúng ta hãy đi
thẳng vào chương
Sáng Thế Kỷ
(Genesis) trong Cựu
Ước trong "The New
King James Version"
:
Kinh thánh Do thái
Tanakh,
Link:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tanakh;
http://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%B1u_%C6%AF%E1%BB%9Bc
(Cựu Ước)
1. Thoạt kỳ thủy
Thần Giatô tạo dựng
nên trời đất.
2. Trái đất thì
không có hình dạng
và trống không; và
bóng tối ở trên mặt
vũng sâu. Và Thần
thức lơ lửng trên
mặt các vùng nước.
3. Và Thần nói: “Hãy
có ánh sáng”, và ánh
sáng có liền.
4. Thần trông thấy
ánh sáng và thấy nó
tốt đẹp; và Thần
chia ánh sáng ra
khỏi bóng tối.
5. Thần gọi ánh sáng
là Ngày, và bóng tối
là Đêm. Đó là ngày
thứ nhất với buổi
chiều và buổi sáng.
(1. In the beginning
God created the
heavens and earth.
2. The earth was
without form, and
void; and darkness
was on the face of
the deep. And the
Spirit of God was
hovering the face of
the waters. 3. The
God said, “Let there
be light”; and there
was light. 4. And
God saw the light,
that it was good;
and God divided the
light from the
darkness. 5. God
called the light
Day, and the
darkness He called
Night. So the
evening and the
morning were the
first day.)
Trái đất không có
hình dạng và trống
không thì nước được
giữ ở đâu mà Thần
thức lơ lửng trên
các vùng nước. Khi
đó chỉ có mình Thần
vậy thì ai ở đó mà
nghe “Thần nói” để
mà viết lại trong
Thánh Kinh là “Và
Thần nói:” như vậy?
Ánh sáng là các sóng
điện từ, có màu sắc
khác nhau là do tần
số dao động khác
nhau, và bóng tối là
không có ánh sáng
chứ làm sao có thể
chia ánh sáng ra
thành sáng và tối
được. Một trẻ em
tiểu học ngày nay
cũng hiểu rằng có
ngày có đêm là do sự
chuyển vận của trái
đất xung quanh mặt
trời.”Ngày thứ nhất”
chưa tạo ra mặt trời
thì lấy đâu ra ngày
và đêm?
Bỏ qua những đoạn
nói về lịch sử tạo
dựng mà nhiều khoa
học gia ngày nay đã
chứng minh rằng thứ
tự tạo dựng các sinh
vật hoàn toàn trái
ngược với thực tế,
ta hãy đi vào chuyện
của Adam và Eve:
“Sau khi bất tuân
thượng lệnh ăn đại
một trái trên “cây
hiểu biết” (để khỏi
bị vĩnh viễn ngu
đần) Adam và Eve bị
đày ra khỏi vườn
Eden và sinh được 2
người con trai là
Cain và Abel. Cain
chuyên về trồng trọt
và Abel chuyên về
chăn nuôi. Cain mang
phần hoa mầu dâng
lên Thần nhưng Thần
chê, ngược lại Thần
tán thưởng phần thịt
mỡ béo bổ mà Abel
dâng lên Thần. Cain
bực mình vì bị đối
xử không công bằng,
rủ em vào rừng rồi
giết tốt người em
ruột. Sau đó Cain
ngủ với vợ và sinh
ra Enoch. Rồi Adam
và Eve lại sanh ra
một đứa con trai là
Seth, quà của Thần
tặng để thay thế
Abel. Con của Seth
là Enosh...” (Gen.
3: -4:)
Đọc Kinh Thánh tôi
vẫn nghĩ không ra ai
là vợ của Cain và
Seth? Lúc bấy giờ
trên thế gian chỉ có
người đàn bà duy
nhất là Eve. Chẳng
có lẻ Cain và Seth
ngủ với mẹ ? Cũng có
thể lắm vì trong Cựu
Ước còn có chuyện 2
người con gái của
Lot phục rượu cho
cha say và ngủ với
cha và sau đó sinh
con (Gen. 19:30
-38).
Tạo dựng ra một thế
giới gồm những sinh
vật cắn xé nhau để
ăn thịt lẫn nhau,
những cảnh cá lớn
nuốt cá bé, những
con rắn rết, những
vi trùng và siêu vi
trùng có tác dụng
làm cả ngàn người
chết trong những
trận dịch tả, dịch
hạch, v.v... , và
riêng về loài người
thì thế hệ đầu tiên
đã không tuân lời
(Adam), thế hệ thứ
hai là sát nhân
(Cain) và loạn luân
(Cain, Seth) mà Thần
Giatô thấy nó “tuyệt
hảo” và “rất tốt
đẹp” thì quả thật
quan niệm về tốt đẹp
và tuyệt hảo của
Giatô Giáo phải khác
thường. Nhưng phiền
một cái là hơn 4
phần 5 dân số trên
thế giới, nghĩa là
vào khoảng 4 tỷ rưỡi
người, lại nhất định
không cho là việc
tạo dựng trên là
tuyệt hảo, là tốt
đẹp và vẫn bướng
bỉnh không chịu tin
là Thần Giatô đã tạo
dựng ra thế giới
này, dù bị tra tấn,
thiêu sống hay giết
hại như lịch sử 8
cuộc Thánh Chiến và
400 năm xử dị giáo
của Giatô đã chứng
minh. Vậy mà John
Paul II lại phê bình
Đức Phật là sai lầm
vì phủ nhận giá trị
của sự “tạo dựng”.
Đức Phật đâu có để ý
đến thuyết “tạo
dựng”, cho nên làm
gì có chuyện công
nhận hay phủ nhận
giá trị của thuyết
này?
2.) “Thế gian mà
con người tìm thấy
khi mặc lấy xác
phàm, xứng đáng với
sự trừng phạt, vì
tội lỗi đã thống trị
toàn bộ lịch sử, bắt
nguồn từ sự sa ngã
của nguyên tổ”
(trang 78).
Đây là nói về tội
tổ tông: chỉ vì
một trái táo mà nhân
loại bị đày ải với
tất cả những khổ đau
ở trên đời. Thế mới
biết tình yêu của
Chúa Cha đã ban cho
nhân loại là như thế
nào. Luận về tổ tông
thì có vài vấn đề
cần được sáng tỏ:
Thứ nhất, theo di
truyền học thì các
giống người khác
nhau là do di
truyền. Không ai có
thể thấy một cặp vợ
chồng người da trắng
lại sinh ra một đứa
con đen kịt. Dù ông
chồng xấu số có ông
hàng xóm đen kịt đi
chăng nữa thì đứa
con sinh ra cũng lờ
lờ chứ không thể đen
kịt. Vậy thì, Adam
và Eve là tổ tông
của giống người nào?
Da trắng? Da đen? Da
vàng? Da đỏ v.v... ?
Nếu có là tổ tông
thì chỉ có thể là tổ
tông của một giống
người chứ không thể
là tổ tông của cả
loài người.
Thứ nhì, chúng ta đã
biết Giêsu là người
Do Thái, và trong
Tân Ước (Luke 3:
23-38) tất cả những
thế hệ tiếp nối Adam
cho tới Giêsu toàn
là tên Do Thái,
không hề thấy một
tên Congo hay tên
Việt nào, vậy thì
nếu Adam là tổ tông
thì chỉ có thể là tổ
tông của dân Do
Thái, hay cùng lắm
là tổ tông của các
sắc dân quanh vùng
Do Thái chứ không
thể là tổ tông của
cả nhân loại. Đã
không phải là tổ
tông của loài người
thì làm gì có tội tổ
tông. Không có tội
tổ tông thì cần gì
ai chuộc tội hay cứu
tội? Vai trò của
Giêsu trở thành thừa
thãi và khôi hài.
Nói tóm lại, điều
chắc là Adam không
thể là tổ tông của
người Việt, vậy thì
có lý do gì người
Việt phải chịu tội
của một người mà
không phải là tổ
tông của nòi giống
Việt. Cho nên,
chuyện tổ tông, nếu
có, của những dân da
trắng mũi lõ tóc
quăn thì cứ để họ lo
với nhau, người Việt
chẳng nên dính dáng
vào những huyền hoặc
hoang đường mà nên
quay về với Tổ Hùng
Vương, vừa đẹp, vừa
hợp dân tộc tính,
hợp tình, hợp cảnh,
hợp lý hợp với đại
khối dân tộc, khỏi
phải sống trong khu
riêng (ghetto) như
người ngoại quốc
trên đất nước của
mình.
3.) “Thiên Chúa
quá thương yêu thế
gian đến nổi ban con
duy nhất của Ngài,
để những ai tin vào
Người sẽ không bị
luận phạt, nhưng
được sống đời đời.”
(trang 76)
Chúng ta đã biết
Thần Giatô thương
yêu thế gian như thế
nào qua việc đầy ải
loài người, nhất là
khi Ngài trừng phạt
đàn bà phải chịu sự
đau đẻ và làm nô lệ
cho đàn ông (Khoa
học và sự văn minh
tiến bộ của loài
người ngày nay đã
phủ quyết lời nguyền
rủa (curse) của Thần
Giatô đối với phái
nữ: khi sinh đẻ có
thuốc chích cho khỏi
đau và đàn bà thường
lại ở địa vị “nhất
vợ nhì Trời”, Trời ở
đây cần hiểu là theo
nghĩa rộng), và tạo
nên lụt cả để giết
vô số chúng sinh,
vậy tôi xin miễn bàn
thêm.
Nhưng không biết
John Paul II có đọc
Thánh Kinh hay không
chứ thực tình tôi
không hiểu ngài nói
con duy nhất là con
nào, vì trong Thánh
Kinh có tới hai
Giêsu khác hẳn nhau,
một Giêsu trong
Matthew và một Giêsu
trong Luke. Matthew
và Luke đều nói
Giêsu là giòng dõi
Vua David (thực sự
không cần thiết vì
Giêsu là con của
Thánh Ma (Holy
Ghost) thì đâu cần
phải kể giòng họ cao
sang làm chi). Tuy
Matthew kể ngược 42
thế hệ tới Abraham
và Luke kể ngược 76
thế hệ tới tận Thần
Giatô, người tạo ra
Adam, nhưng chúng ta
chỉ cần đi ngược lại
tới Vua David tới
Giêsu như sau:
“David Solomon,
Rehoboam, Abijah,
Asa, Jehoshaphat,
Jehoram, Uzziah,
Jotham, Ahaz,
Hezekiah, Manasseh,
Amon, Josiah,
Jeconiah, Shealtiel,
Zerubbabel, Abiud,
Eliakim, Azor,
Zadok, Akim, Eliud,
Eleazar, Matthan,
Jacob, Joseph,
Giêsu”. Tất cả là 27
thế hệ. Nhưng theo
Luke 3:23-38 thì các
thế hệ tiếp nối từ
Vua David tới Giêsu
như sau:
“David, Nathan,
Matthata, Menna,
Melea, Eliakim,
Jonam, Joseph,
Judah, Simeon, Levi,
Matthat, Jorim,
Eliezer, Joshua, Er,
Elmadam, Cosam,
Addi, Melki, Neri,
Shealtiel,
Zerubbabel, Rhesa,
Joanan, Joda,
Josech, Semein,
Matthathias, Maath,
Naggai, Esli, Nahum,
Amos, Matthathias,
Joses, Jannai,
Melki, Leci,
Matthat, Eli,
Joseph, Giêsu”. Tất
cả là 42 thế hệ.
Trong 2 danh sách
trên nói về nguồn
gốc gia phả Giêsu
chỉ có vài tên giống
nhau còn hoàn toàn
khác nhau, vậy thì
khi John Paul II nói
tới đứa con duy nhất
của Thần Giatô sai
xuống trần thì ngài
muốn nói đứa con
nào? Con trong
Matthew hay con
trong Luke. Và, vấn
đề được đặt ra là,
Matthew đúng hay là
Luke đúng, hay là cả
Matthew và Luke đều
sai, hay là cả
Matthew và Luke đều
đúng? Cái gì bảo đảm
là ai đúng ai sai và
nếu vấn đề này sai
thì có gì bảo đảm là
những chuyện khác
trong Kinh Thánh
không sai?
Trên đây tôi chỉ
bình luận vài điểm
trong cuốn Bước
Qua Ngưỡng Cửa Hy
Vọng của Giáo
Hoàng John Paul II
liên hệ tới lời phê
bình của ngài về Đức
Phật. Thật ra, muốn
phê bình cả cuốn
sách trên chúng ta
cần ít ra là một
cuốn dày gấp ba cuốn
đó, nhưng tôi nghĩ
không có ai dại dột
đi làm cái chuyện
điên rồ tốn thời giờ
vô ích này. Có một
điều là, không hiểu
Giáo Hoàng John Paul
II viết cuốn sách
trên để cho ai đọc,
vì tôi không nghĩ
giới tín đồ thông
thường và ngay cả
giới trí thức Giatô
có thể hiểu đuợc
những điều Giáo
Hoàng viết trong
cuốn sách đó, ngoài
những điều Giáo
Hoàng nhắc lại những
tín lý Giatô. Nhưng
đây lại không phải
là chuyện hiểu mà
chỉ là chuyện
tin, tin mà
không cần hiểu. Vì
trong cuốn sách này,
Giáo Hoàng đã tránh
né không trả lời
trực tiếp những câu
hỏi của nhà báo
Vittorio Messori
như: “Nếu Thiên Chúa
là tình yêu, tại sao
lại có quá nhiều sự
dữ trong thế giới”,
“Tại sao Thiên Chúa
lại dung túng đau
khổ”, “Tại sao nhân
loại cần được cứu
rỗi”, v.v...
Mỗi câu trả lời là
một khẳng định dựa
trên một niềm tin,
và như vậy bặt hết
lý luận. Thí dụ như:
“Thiên Chúa quá
thương yêu thế gian
đến nỗi ban con duy
nhất của ngài, để
những người tin vào
người sẽ không bị
luận phạt, được sống
đời đời, “ “Thánh
Phao Lồ ý thức thâm
sâu rằng Chúa KiTô
là căn nguyên, là
tuyệt đối” và “Chúa
Kitô là bí tích của
Thiên Chúa vô hình”,
“Giáo Hoàng là một
bí nhiệm”, “Điều mặc
khải này dứt khoát,
con người chỉ còn có
thể hoặc chấp nhận,
hoặc chối bỏ”. Một
khi đã khẳng định
những điều không thể
giải thích được thế
nào cho suông sẻ là
bí tích và bí nhiệm
và dứt khoát thì vấn
đề hiểu trở nên thừa
thãi. Đó chính là
“Phúc cho những kẻ
nào không thấy
(hiểu) mà tin”.
Ngoài những điều
khẳng dịnh mà tín đồ
phải tin, không cần
hiểu, Giáo Hoàng còn
nhắc tới, chỉ nhắc
qua thôi, thần học
và triết lý của các
thánh Augustine,
Aquina và các triết
như Descartes, Kant,
Hegel, Aristote,
Plato, Pascal,
Husserl, Heidegger
v.v... (lẽ dĩ nhiên
là không nhắc tới
thánh Francis, người
chủ trương phục vụ
dân nghèo, hay
Voltaire, Diderot,
Nietzche, Khổng tử,
Lão Tử v.v... )
nhưng không hiểu có
bao nhiêu linh mục
và tín đồ nắm vững
được các môn thần
học và triết lý của
các nhân vật kể
trên.
Thật vậy, Cha James
Kavanaugh, trong
cuốn A Modern
Priest Looks at His
Outdated Church
(Một linh mục hiện
đại nhận xét về Giáo
hội lỗi thời) có kể
về sự huấn luyện các
linh mục như sau:
“Trong học trình của
tôi, rất hiếm khi
bàn đến những nghi
vấn hay quan niệm mà
thường là hoặc trắng
hoặc đen. Thí dụ
như, trong môn triết
học, chúng tôi học
qua Berkeley, Hume,
và Kant chỉ trong
vòng 1 tuần lễ... Đó
là một nền giáo dục
không có sự đồng
tình, một sự huấn
luyện không có sự
giúp đỡ. Tôi nghe
những gì họ muốn tôi
nghe, và nói những
gì ban giám đốc mong
muốn tôi nói như
vậy. Người nào chống
đối thì bị gạt ra
ngoài. Chỉ có những
người phục tùng luật
lệ, hay những kẻ
ngây thơ, tiêu cực
mới tồn tại. Sáng
kiến không được
khuyến khích trừ phi
đi theo đường lối đã
được chấp nhận. “Tà
đạo” là danh từ để
chấm dứt mọi luận
cứ, và “Giáo hội dạy
rằng” là nghị trình
nhỏ hẹp của mọi
tranh luận. Tôi
không được giáo dục
mà được nặn thành.
Tôi không được
khuyến khích suy
nghĩ mà chỉ được
huấn luyện để chống
đỡ. Người ta không
muốn tôi suy tư mà
chỉ muốn tôi học
thuộc lòng”
(My studies spoke
seldom of doubts or
opinions and most
frequently of blacks
and whites... In
philosophy, for
example, we could
handle Berkeley,
Hume, and Kant in a
single week... It
was an education
without sympathy, a
training without
recourse. I heard
what I was supposed
to hear, and said
what the
administration
expected me to say.
Rebels were weeded
out. Only the strong
and legal-minded, or
the naive and
passive, could last.
Creativity was
discouraged unless
it pursued the
accepted patterns
wich cautious minds
approved. “Heresy”
was a word which
ended every
argument, and “the
Church teaches” was
the narrow outline
of every debate. I
was not educated, I
was formed. I was
not encouraged to
think, but trained
to defend. I was not
asked to reflect,
but to memorize.)
Cho nên, đã có một
ký giả phê bình như
sau:
“ Cuốn
Bước Qua Ngưỡng
Cửa Hi Vọng của
Giáo Hoàng John Paul
II chắc chắn sẽ là
một cuốn sách bán
chạy nhất (best
seller) vì tín đồ sẽ
được khuyến khích để
mua. Có thể mỗi nhà
tín đồ Giatô đều có
cuốn sách này. Nhưng
cũng như cuốn Thánh
Kinh mà nhà nào cũng
có, nó sẽ chỉ được
dùng như là một vật
trang trí để hứng
bụi (dust collector)
vì rằng không có ai
đọc nó cả.”
Về cuốn Thánh Kinh
thì Ira Cardiff đã
viết như sau :
“Hầu như là không có
ai thực sự đọc cuốn
Thánh Kinh. Họ chắc
chắn là có một cuốn
Thánh Kinh, có lẽ là
cuốn sách duy nhất
mà họ có, nhưng họ
không bao giờ đọc nó
– đừng nói là đọc cả
cuốn. Một người có
nhiệt tâm tôn giáo
sẽ đọc đầy đủ các
lời cầu nguyện trong
Thánh Kinh, không
đọc với óc phê phán,
chỉ hiểu theo tất cả
những gì mà các cha
xứ muốn họ hiểu. Nếu
một người thông minh
đọc cả cuốn Thánh
Kinh với một óc phê
phán thì chắc chắn
họ sẽ vứt bỏ nó đi.”
(Virtually no one
really reads the
Bible. The above
mentioned individual
doubtless has a
Bible, perhaps the
only book he owns,
but he never reads
it – much less
reads all of it. A
devout religious
individual will read
his Bible
prayer-fully, not
critically, and it
will mean whatever
he has heard the
cleric say it shoud
mean. If an
intelligent man
should critically
read it all, he
would certainly
reject it.)
Và
Robert Ingersoll,
một nhà hùng biện Mỹ
nổi danh ở cuối thế
kỷ 19, sau khi đọc
hết và đọc kỹ cuốn
Thánh Kinh, đã đưa
ra một lời thách
thức: ông ta sẽ tặng
$1,000 (năm 1890)
cho bất cứ vị linh
mục nào dám lên bục
giảng ở nhà thờ để
giảng những đoạn
trong Thánh Kinh mà
chính Ingersoll chọn
lựa. Trong nhiều
năm, không có một
người nào dám nhận
lời. Có lẽ chúng ta
đã đoán ra trong
Thánh Kinh có những
đoạn như thế nào.
Tuy
nhiên, Giáo Hoàng
John Paul II đã
trích dẫn những đoạn
chọn lọc trong Thánh
Kinh, những đoạn đòi
hỏi một niềm tin
không cần suy luận.
Lẽ dĩ nhiên, điều
này cần thiết cho
một số người yếu
đuối, không thể tự
mình bước đi những
bước vững vàng trên
mặt đất, không thể
tự mình suy nghĩ,
chỉ còn có thể trông
ngóng vào những
quyền lực siêu nhiên
cũng như những quyền
lực giả tạo trên thế
gian.
* * *
Lời kết:
Con người thường
sống trong ảo tưởng,
các ảo tưởng cứ
chồng chất lên nhau
bất tận. Nguồn gốc
của mọi ảo tưởng
chính là vô minh,
cho giả làm thật. Bị
bao phủ bởi bức màn
vô minh nhưng con
người lại xây dựng
hi vọng trên ảo
tưởng là có thể bước
qua ngưỡng cửa hi
vọng bằng một niềm
tin không suy luận.
Làm người ai cũng có
hi vọng, nhưng nếu
đã đựơc đào luyện và
đang sống trong bóng
tối dầy đặc của vô
minh thì trước hết
con người cần phải
bước qua ngưỡng cửa
vô minh trước khi
tiến tới ngưỡng cửa
hi vọng.
Chưa bước qua được
ngưỡng cửa vô hình
thì bước qua ngưỡng
cửa hy vọng chỉ là
chuyện “mò trăng đáy
nước” hay “hái hoa
trong kính”. Chân lý
giản dị như vậy
nhưng bởi căn trí
bất đồng cho nên
không phải ai cũng
hiểu được điều này.
Do đó có người quả
là đáng thương hơn
là đáng
trách.
Trần Chung Ngọc


17:50
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét