Hoàng Hà Thanh
1.
Sau khi đọc
bài “Scholars Cite Lack of Resurrection
Evidence” trong mục Religion, Los Angeles
Times phát hành tại Los Angeles ngày thứ
bảy, 11 tháng 3, 1995, tôi xuống nhà xem thùng
thơ, nhận được tờ Người Việt gửi đến và
hân hạnh đọc được bài “Có Sự Ngộ Nhận Về Lời
Phát Biểu Của Đức Giáo Hoàng Liên Quan Đến Phật
giáo Trong Cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng?”
đăng trên báo Người Việt, trang Diễn Đàn,
ngày 2 tháng 3, 1995, mà tác giả là Luật Sư Phạm
Văn Phổ, chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam
tại Hoa Kỳ. Bài này đăng lại bài cùng tên đã
đăng trên Hiệp Nhất, tháng 3, 1995. Trọng
điểm của bài báo này không gì khác hơn là Luật
Sư Phổ đóng vai một “apologist” hay “advocate”
cho cái gọi là “ngộ nhận” về việc Giáo Hoàng
“phỉ báng” Phật giáo.
Bài viết này
nhằm góp ý với Luật Sư Phổ về mấy trọng điểm sau
đây: vô thần, giải thoát và cứu rỗi, sự sai lầm
của Giáo Hoàng John Paul II. Sự nhận định sai
lầm của Luật Sư Phổ, một tín đồ, bắt nguồn từ sự
sai lầm to lớn của Giáo Hoàng về Phật giáo, vị
giáo chủ của tôn giáo ông.
2.
Ngày 22 tháng 10,
1994, cuốn Crossing the Threshold of Hope
của Giáo Hoàng John Paul II được phát hành tại
nhiều tiệm sách, tôi tìm mua, đọc và viết xong
bài giới thiệu cuốn sách vài ngày sau. Khi đọc
kỹ cuốn sách nói trên, đặc biệt phần nói về Đức
Phật, tôi nhận thấy Giáo Hoàng đã có rất nhiều
nhận định sai lầm về Phật giáo. Theo nhãn quan
của tôi, sự sai lầm này có thể do hai nguyên do:
thiếu hiểu biết về một tôn giáo lớn của nhân
loại đã ra đời cách đây hơn 25 thế kỷ và đang
trên đà phát triển mãnh liệt trong giới trí thức
Tây Phương, hay cố tình nhận định sai lạc có ác
ý và nhồi sọ tín đồ của ông với những điều không
tốt về Phật giáo, một tôn giáo sẽ được tôn kính
ở Tây Phương vào thế kỷ 21 trong khi KiTô Giáo
KTG (Christianity) thuộc giáo hội La Mã
(Catholic) rời bỏ Tây Phương để phát triển ở Đệ
Tam Thế Giới với trình độ trí thức thấp kém. Lúc
đó tôi chỉ viết vài bài giới thiệu sách vì sách
còn quá mới mẻ đối với các tín đồ của ông và đọc
giả khác, nên việc phê bình tạm gác cho tới khi
có số đọc giả tạm đủ đọc bài phê bình những sai
lầm của tác giả.

Giáo hoàng Gioan Phaolồ II (1920-2005),
người đã thú nhận hơn 100 tội lỗi của Giáo hội
Công giáo La Mã.
3.
Đề tựa cuốn sách là Crossing the Threshold of
Hope có thể dịch bằng nhiều cách sang Việt
Ngữ. Sau khi thử dịch nhiều cách, tôi chọn
Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, để hy vọng lột
được ý của tác giả muốn nói lên ưu tư về sự lung
lay của giáo hội vì số tín đồ đi dự thánh lễ
càng ngày càng ít, số người đi tu càng ngày càng
ít, số người rửa tội tăng chậm hơn mức gia tăng
dân số trong giới tín đồ, nhất là những nữ tu sĩ
vì tòa thánh Vatican luôn luôn coi nhẹ hàng nữ
tu. Muốn hiểu rõ hơn xin đọc History of God
của giáo sư Karen Armstrong (nguyên nữ tu
sĩ) và A Crisis of Conscience của bác sĩ
Hugh R. K. Barber (nguyên là một tín đồ thuần
thành), đọc các nhà thần học giải phóng
(liberation theology), như Gustavo Gutierrez,
Leonardo Boff, Juan Segundo, Batolomé de Las
Casas, John Federick Denison Maurice, Dietrich
Bonhoeffer, Saul D. Alinsky, các "encyclical
letters" (của các Giáo Hoàng) quan trọng như
Rerum Novarum của Giáo Hoàng Leo XIII, Qua esimo
Anno của Giáo Hoàng Pius XI, Mater et Magistra
của Giáo Hoàng John XXIII, đặc biệt tài liệu
Rockefeller Report of 1969 (một bản tường
trình do cơ quan RAND Corporation ở Santa Monica
soạn) với nhan đề là Latin America
Institutional Development: The Changing Catholic
Church. Bản tường trình này nói lên sự xung
đột giữa tòa thánh Vatican và các hàng giáo phẩm
của toàn vùng Châu Mỹ La Tinh. Người đọc có thể
hiểu bằng hai cách "bước qua ngưỡng cửa hy vọng
từ tuyệt vọng sang hy vọng hay từ hy vọng sang
tuyệt vọng". Dù hiểu theo cách nào, người ta
cũng mường tượng thấy cái lúng túng của Tòa
Thánh. Cách dịch của tôi cũng được một nhóm tín
đồ dịch cuốn sách của Giáo Hoàng chọn làm đề tựa
cho bản tiếng Việt.
4.
Vị Trí Của Người
Viết: Để tránh những hiểu lầm có thể xảy ra sau
khi bài này được đăng tải. Có người sẽ nói bài
này viết ra để "bênh" Phật giáo hay tồi tệ hơn
nữa, để ... "phá thối". Tôi viết bài này trên
cương vị một người nghiên cứu đạo giáo, Phật
giáo, Kitô Giáo, Hồi Giáo, Kỳ Na Giáo, Do Thái
Giáo... Tôi không quy y với bất cứ một cố Hòa
Thượng X, tôi không phải là Phật tử của Thầy Y,
tôi không phải là hội viên của ban hộ niệm chùa
Y, và chưa bao giờ là thành viên của tổ chức
Phật giáo Z nào từ trước đến nay. Đối với hầu
hết Chư Tăng và Phật Tử tại đây, tôi là một
người hoàn toàn xa lạ... Tôi chỉ là môn sinh của
Triết Lý Đấng Thích Ca. Đơn giản có vậy. Tất cả
ý kiến trong bài này là của tôi, không hội ý với
bất cứ người nào ngoài việc rút tỉa những điều
hiểu lấy ra từ sách vở tôi đã đọc. Đạo lý nào
hay, triết lý nào thâm sâu tôi học hỏi, suy
ngẫm. Tôi theo 6 điều cuối của Mười Điều Giáo
Lệnh nói trong Cựu Ước, tôi theo Thập
Thiện Kinh trong kho tàng kinh điển Phật.
Tôi suy ngẫm Tứ Diệu Đế và thực thi đúng đắn Bát
Chánh Đạo. Không có một cái gì đứng sau bài
viết. Tôi cũng không phải là bạn chí thân của
bất cứ tờ báo, tạp chí nào. Các vị chủ nhiệm,
chủ bút những tờ báo hay tạp chí đăng tải bài
viết (không tiền nhuận bút) của tôi hay không là
do quyết định của các vị đó. Việc đăng tải hay
không nằm ngoài tầm tay của tôi. Tôi chỉ xin một
điều, nếu đăng tải bài viết của tôi, khi có lời
phê bình hướng về tôi, cho tôi cơ hội đăng bài
trả lời theo đúng tinh thần dân chủ. Mục đích
của tôi là trình bày với độc giả một ý kiến cá
nhân dựa vào những dữ kiện có đầy rẫy trong
sách, báo, tài liệu có sẵn trong các thư viện.
Việc kiểm chứng những điều tôi đưa ra không phải
là một việc làm khó khăn.
Mọi sự phê bình
xin hướng thẳng về cá nhân tôi. Những lời phê
bình của người đọc sẽ soi sáng trí tuệ của tôi.
Tôi xin đa tạ trước. Tôi không hy vọng độc giả
đồng ý tất cả những gì tôi viết. Các tín đồ Phật
giáo không cần tôi viết bài trả lời vì Phật giáo
chủ trương không “chấp ngôn”, “chấp ngữ” và luôn
luôn chủ trương “lục hòa”. Phật giáo chủ trương
tạo “thiện nghiệp”, không bao giờ tạo “ác
nghiệp” cả. Vậy Phật giáo cần gì tới bài viết
này của tôi. Tôi giới thiệu sách của Giáo Hoàng
không phải vì tôi là tín đồ KTG, tôi viết bài
này cũng chẳng phải vì tôi là tín đồ Phật giáo.
Tôi viết vì có những nhận định sai lạc về Phật
giáo từ phía Giáo Hoàng John Paul II. Hơn 2,500
năm, Phật giáo, theo chứng tích lịch sử, vẫn đi
song hành với những nguồn tư tưởng khác, không
có một cuộc đổ máu nào xảy ra. Điển hình như tại
Trung Hoa: Lão Giáo, Khổng Giáo và Phật giáo đi
song hành. Tại Việt Nam, Chùa Một Cột, bên cạnh
Vườn Bách Thảo được xây cất cách đây cả 10 thế
kỷ, biểu tượng cho Tam Giáo Đồng nguyên.
5.
Theo tôi hiểu,
Luật Sư Phổ viết bài báo nói trên không ngoài
mục đích là “defuse” một vài căng thẳng mới chớm
nở. Theo triết lý nhà Phật, thì việc làm của
Luật Sư Phổ mang cái “Tâm Phật” trong đó. Nhưng
ai cũng biết “Vô Minh” đưa đến phiền não. Tại
Hoa Kỳ, cultural awareness, religious awareness
được huấn luyện cho mọi giai tầng công nhân,
cũng như trí thức và mọi giai tầng công dân.
Nhưng rất tiếc, tôi không thấy điều này ở Luật
Sư Phạm Văn Phổ.
6.
Lối lập luận trong
bài viết này tôi học được của St Thomas Aquinas.
Trong bộ thần luận Summa Theologiae, một
đại tác phẩm thần học, mà một số người quen
thuộc với hệ thống tiếng Pháp biết dưới tên St
Thomas d’Aquin, đưa ra 5 cách lập luận để cuối
cùng chứng minh có Thượng Đế. Năm cách này, Five
Ways (Quinque Viae), mà tôi xin tạm dịch là “Ngũ
Cách” hay “Ngũ Đạo”. Ông lấy sự việc A làm
“moving cause” để lập luận tới B, từ B sang C,
từ C sang D, từ D sang E, tức là Thượng Đế. Tất
nhiên lối lập luận không đi đến vô tận mà tới
bậc thứ 5 “finality” là hết, nghĩa là Thượng Đế
là bậc cuối cùng. Bất cứ ai đọc St Thomas
Aquinas phải công nhận đây là lối lập luận thần
diệu.
7.
Nếu nói “Công” thì
phải có “Tư”, hay nói khác hơn những tôn giáo
khác không phải là “Công giáo” chỉ là “Tư Giáo”
hay “Tôn Giáo Không Chính Thức” như Phật giáo,
Cao Đài Giáo, Hồi Giáo... có mặt trong Cộng Đồng
Việt Nam? Nếu chữ Catholic mà Luật Sư dịch là
“Công”, tôi xin lỗi vì hiểu sai ý Luật Sư. Tại
Việt Nam trước đây, nhiều người dùng sai chữ
“Lương” trong lúc phân biệt giữa người theo Kitô
giáo và người không theo Kitô giáo. Người ta
thường nghe nói “Lương” và “Giáo”. “Lương” là
lương thiện, thế “Giáo” không lương thiện hay
sao? Sự sai lầm cứ tiếp diễn, cho tới lúc dùng
theo thói quen mà không hiểu ý nghĩa ban đầu mà
người ta dùng với ý nghĩa chê bai.
Cũng như Chúa
Giêsu Kitô không sinh vào ngày 25 tháng 12 đầu
tiên của Kỷ Nguyên Thiên Chúa (Christian Era)
hay có người gọi là Công Nguyên (Common Era),
Tây Nguyên (Western Era), Tây Lịch (Western
Calendar), và mới nhất Hiện Đại (Present Era).
BC (Before Christ) và AD (Anno Domini) được ông
Dionysius Exiguus, một tu sĩ vào thế kỷ thứ 6,
dùng lần đầu tiên năm 533. Chúa Giêsu Kitô được
sinh ngày 1 tháng 3 năm thứ 7 trước công nguyên.
Tính đến thời gian hiện tại, Chúa Giêsu Kitô đã
sinh cách đây 1995 năm + 7 năm = 2002 năm rồi
(theo chứng tích khảo cổ và Thánh Kinh, và sách
Luke 1:56). Nhưng sự sai lầm này vẫn tồn tại
trên 15 thế kỷ. Ta dùng theo thói quen, không
biết là sai, vì không còn ai biết nó sai nữa.
Một thí dụ nữa, Chúa dựng nên trời đất và con
người trong 6 ngày. Ngày thứ bảy phải nghĩ
(Sabbath). Ai làm việc là phạm tội. Ấy thế mà
khu phố Bolsa rất tấp nập kẻ mua người bán vào
ngày thứ bảy (7th day). Có khi có
người bán quà bánh, nước uống trước cửa nhà thờ
vào ngày thứ bảy, có ai biết là làm sai lời
Thánh Kinh đâu. Xin độc giả đọc lại Thánh Kinh
sẽ rõ. Những hàng chữ vẫn còn đó. Làm ngày làm
đêm, làm thêm chủ nhật còn chưa đủ sống, huống
chi là nghỉ một ngày. Hơn nữa, người Do Thái,
tín đồ Tin Lành, Hồi Giáo không đồng quan điểm
với tòa thánh coi ngày thứ bảy (7th
day) rơi vào Ngày Thứ Bảy (Saturday). Ngày thứ 7
này có thể là Thứ Sáu (Friday) hay Thứ Tư
(Wednesday), mặc dù tất cả đều chiêm ngưỡng Cựu
Ước.
8.
Buổi sáng ta thấy
mặt trời mọc phương Đông, trưa trên đỉnh đầu,
chiều hạ xuống phương Tây. Ta có cảm tưởng quả
đất phẳng và đứng yên một chỗ, mặt trời quay
quanh trái đất. Tòa thánh Vatican cho rằng trái
đất phẳng, đứng yên một chỗ và là trung tâm của
vũ trụ. Tín đồ cứ hiểu như vậy cho tới khi ông
Galileo nói rằng trái đất tròn và quay quanh mặt
trời. Ông đã trả một giá quá mắc, bị tù chung
thân vào lúc tuổi già. Bốn trăm năm sau Tòa
thánh mới công nhận là lầm lẫn và hủy bỏ bản án.
Còn rất nhiều trường hợp khác như Jeanne d’Arc,
Martin Luther, Darwin, Cha dòng tên Pierre
Teillard de Chardin… đọc lại lịch sử để rút tỉa
những bài học quý báu. Rất tiếc luật sư Phạm Văn
Phổ hình như quên những trang sử đen tối đó. Ta
thường nghe nói “Vô minh gây phiền não”. Nhận
định sai lầm của Giáo Hoàng John Paul II có lẽ
sẽ được làm sáng tỏ khi tòa thánh có một vị Giáo
Hoàng mới, với tư tưởng cởi mở và thân thiện
hơn.
9.
Việc Trích Dẫn
Không Cần Thiết: Để lập luận rằng Giáo Hoàng
không có ý “phỉ báng” Phật giáo, Luật Sư trích
dẫn lời nói của ông Toan Ánh và Thu Giang Nguyễn
Duy Cần. Sự trích dẫn này không phải là một
“Affimative defense”, nên theo tôi, nó
“irrelevant”. Tôi rất thất vọng khi đọc lời
trích dẫn trong sách thay vì đưa ra những tài
liệu, lời phát biểu hay việc làm để chứng minh
như giám mục Colombo chuyển lời xin lỗi của Giáo
Hoàng đến các vị sư Phật giáo phản đối và dọa tự
thiêu về những điều viết ra trong sách của Giáo
Hoàng chẳng hạn. Thí dụ như Giáo Hoàng tiếp và
kết thân với Đức Đạt Lai Lạt Ma (được giải
thưởng hòa bình Nobel, 1989, trong khi Giáo
Hoàng John Paul II lại bị ám sát hụt nhiều lần)
tại tòa thánh. Cái “defense strategy” của Luật
Sư quá dở. Uy tín của Ông Toan Ánh và Thu Giang
Nguyễn Duy Cần không đủ mạnh, so với uy tín của
Giáo Hoàng. Tôi có thể cam kết Giáo Hoàng không
cố ý “phỉ báng” Phật giáo. Ông được tín đồ coi
là một bậc đại nhân, ông không thể có cái tâm
của kẻ phàm phu. Đặt vấn đề “phỉ báng” ở đây là
đặt sai vần đề (out of context). Nếu nói Giáo
Hoàng không hiểu rõ triết lý Phật giáo thì đúng
hơn, có lẽ vì ông quen với thần học hơn là triết
học Đông Phương. Việc làm của Luật Sư Phổ có thể
được hiểu là làm giảm uy tín của Giáo Hoàng. Nếu
biết Zen Thinking (tức là suy nghĩ trong sáng,
tinh tấn và trung thực) trước thì sự suy nghĩ
của Luật Sư trong sáng hơn.
10.
Cây Thánh Giá và
Cội Bồ Đề: Theo tôi nghĩ, hai hình ảnh huyền
diệu nhất của nhân loại là cây Thánh Giá và Cội
Bồ Đề. Chúa Giêsu Kitô sinh ra trong một hang đá
lạnh lẽo. Ngày 1 tháng 3 năm 7 trước Kỷ Nguyên
Thiên Chúa. Cái nôi của Ngài là một máng lừa.
Ngài giảng đạo trong vài ba năm (tích cực nhất,
khoảng vài tháng, theo Thánh Kinh và Dead Seas
Scrolls tìm thấy năm 1947, 1949 và 1952), trong
vùng đất cằn cỗi dưới áp lực đòi quy phục của
người Do Thái. Rồi ngài bị đóng đinh trên thánh
giá để chuộc tội cho tín đồ, ba ngày sau Ngài
sống lại, và 40 ngày sau ngài về Nước Chúa ngồi
bên tay phải của Đức Chúa Cha (theo Tân Ước).
Một cái chết khủng khiếp, đau đớn cùng cực. Từ
lúc sinh ra cho tới khi chết, Ngài chịu những
đau khổ tột cùng mà con người không thể chịu
nổi, Ngài gánh lên vai tất cả tội Tổ Tông của
tín đồ, từ thời Adam và Eve, để cứu rỗi và mang
lại thương yêu cho tín đồ. Một cái chết bi thảm
nhất, một cái chết cực kì cao quý. Tín đồ của
Ngài phải tin điều này trước bất cứ điều gì, nếu
Ngài không bị đóng đinh, nếu Ngài không sống
lại, thì tất cả tín lý đều vô nghĩa, và tất
nhiên chủ thuyết cứu rỗi sẽ sụp đổ (theo Tân
Ước). Trọng điểm của thuyết cứu rỗi nằm ở đó.
Nhưng gần đây các nhà nghiên cứu moi móc chứng
tích khảo cổ không chứng minh được sự sống lại
(xem bài “Scholars Cite Lack of Resurrection
Evidence” đăng trên Los Angeles Times
ngày 11 tháng 3, 1995, đọc cuốn Jesus and the
Riddle of the Dead Sea Scrolls của giáo sư
Barbana Thierning, và những tài liệu về Dead Sea
Scrolls).

Chúa Giê-xu
Tất cả tín đồ
KTG muốn được cứu rỗi chỉ có một con đường duy
nhất là quỳ phục trước thánh giá. Chúa Giêsu
Kitô sinh ra trong cảnh nghèo nàn, lạnh lẽo và
chết thảm lơ lửng trên không. Âm thanh chát chúa
của ba cây đinh trên thánh giá trên đỉnh Đồi Xọ
và hình ảnh đầu của Ngài nghiêng sang một bên và
máu tuôn ra từ thân thể Ngài và tiếng kêu vô
vọng vẫn còn văng vẳng bên tai của tín đồ trong
2,000 năm nay: “… Xin Chúa Đừng Bỏ Tôi”. Là
nguồn cảm hứng cho việc sáng tác nghệ thuật
tuyệt vời, điển hình như Christ On The Mount Of
Olives của Beethoven (âm nhạc), The Cruxifixion
của Peter Paul Rubens và Christ On The Cross của
El Greco (hội hoạ), La Pieta của Michelangelo
(điêu khắc),… và cũng là nền tảng cho đức tin
của tín đồ. Ngài sẽ trở lại lần nữa (Second
coming) vào Ngày Phán Xét (Judgement Day) để
mang người sống cũng như người đã chết ra trước
mặt Ngài phán xét, ban thưởng hay trừng phạt.
Ngài vừa là người buộc tội (accuser), vừa là
phán quan (judge).
11.
Một hình ảnh trái
ngược, trước Chúa Giêsu Kitô trên 5 thế kỷ, tại
Phương Đông, Thái Tử Tất Đạt Đa, từ bỏ ngai
vàng, cung điện, vợ đẹp con khôn, ngọc ngà châu
báu, lạc thú ở đời, trốn khỏi cung ngà điện
ngọc, theo đuổi một cuộc sống theo lối khổ tu,
đi tìm chân lý cho những nổi khổ đau của chúng
sinh. Ngài theo hết vị thầy này cho đến vị thầy
khác để học đạo, nhưng vẫn không tìm ra chân lý.
Một hôm Ngài quyết định ngồi dưới gốc cây bồ đề,
tham thiền trong 49 ngày, có lúc Ngài quá yếu
sức phải đương đầu với biết bao quấy phá, thử
thách, nhưng tới ngày thứ 49, vào lúc sao mai
vừa mọc, Ngài chứng được đạo quả Bồ Đề. Ngài đã
“giác ngộ”, tìm thấy chân lý. Một cuộc tham
thiền nhập định vô tiền khoáng hậu, từ đó nảy
sinh ra Thiền Tôn. Sau khi giác ngộ một cảm giác
tột cùng của chân lý, không còn một cái gì cao
hơn nữa. Ngài truyền đạo gần nửa thế kỷ khắp
nơi. Ngài không phải là một vị thần, vị thánh gì
cả, Ngài chỉ là một Vị Đại Sư, chỉ dẫn cho tín
đồ một triết lý sống thoát khỏi khổ đau (sinh,
lão, bệnh, tử) để tới Niết Bàn. Sau Ngài, các vị
tỳ kheo, tỳ kheo ni được tín đồ gọi là thầy, mà
người thường gọi Ông Sư hay Bà Sư, vì lý do đó.
12.
Toàn bộ triết lý
của Ngài chỉ gồm vẻn vẹn có 2 phần: Phần nhận
định nỗi thống khổ của chúng sinh từ đâu mà ra
và phương thức diệt trừ nguyên nhân của khổ đau
(Tứ Diệu Đế) và phương châm hành động để đạt tới
chân lý, hạnh phúc vĩnh cửu (Bát Chánh Đạo).
Ngài là người lái đò đưa chúng sinh từ Bến Mê
sang Bờ Đại Giác, tức là Niết Bàn. Niết Bàn là
gì, nếu không phải là một trạng thái hạnh phúc
vĩnh cửu, một trạng thái tâm linh trong sáng tột
đỉnh, không có cái gì cao hơn nữa. Người đời tôn
Ngài là Đấng Chí Tôn, Đấng Đại Giác, hay nôm na
là Ông Phật, Ông Bụt. Mọi người hay nói rộng hơn
chúng sinh, khi sinh ra đều có sẵn Phật tính. Ta
chỉ cần phát triển Phật tính đó để thành Phật
hay tính Giác Ngộ. Ai cũng có thể thành Phật.
Trước Ngài đã có biết bao vị Phật, sau Ngài còn
có nhiều vị Phật khác. Phật là gì? Phật có nhiều
nghĩa: Tên vị khai sáng ra đạo Phật, và là một
sự giác ngộ, thoát ra khỏi vòng sinh tử luân
hồi, bể trầm luân u mê để đạt đến trạng thái
hạnh phúc vô biên vĩnh cửu. Ngài chỉ cho nhân
loại con đường đi, Ngài không phải là con đường,
Ngài không “giải thoát” hộ cho ai, mà mỗi người
tự “giải thoát” cho chính mình. Tín đồ quỳ gối
dưới chân Ngài cũng vô ích, không thể thành Phật
được.
13.
Theo triết lý của
Đấng Thích Ca, con người có tất cả tự do trong
hành động của mình được nói tới trong Bát Chánh
Đạo. Tạo nghiệp tốt, đạt quả tốt. Bát Chánh Đạo
không phải là 8 giáo lệnh, 8 điều bắt buộc phải
theo mà là những lời khuyên, là khuôn vàng thước
ngọc cho đời sống đạo đức, khổ đau do cái nghiệp
xấu mà ta tạo ra, được ví như chiếc áo dơ bẩn
tanh hôi ta đang mặc trên người. Ta ngồi cầu
Phật, niệm Phật, cúng tiền vào Chùa, vào Tự mà
vẫn mặc chiếc áo dơ bẩn tanh hôi đó, vẫn không
tu thân, thì chẳng bao giờ “giác ngộ” được. Đức
Phật chỉ cho ta cách cởi chiếc áo đó ra để cho
thân thể được thanh tịnh, chân tâm được trong
sáng, trí tuệ được tinh tấn như trí huệ Phật, ta
mới thành Phật được. Cái triết lý cao thâm và vi
diệu này được nhiều học giả Tây Phương sang Đông
Phương nghiên cứu, học hỏi và mang về truyền bá
cho mọi người. Đạo Phật xâm nhập vào Tây Phương
không bằng con đường thuộc địa hay móc nối với
chính quyền. Đạo Phật không có những đoàn truyền
giáo đi sau đoàn quân viễn chinh. Mà du nhập vào
Tây Phương qua mặt tư tưởng cao siêu, nói khác
hơn Đạo Phật như một báu vật mang về từ Đông
Phương.

Phật Thích Ca
14.
Có lẽ vào thế kỷ
21, triết lý Đấng Thích Ca sẽ có một nền móng vô
cùng vững vàng. Có “tám vạn pháp môn” giúp ta
được “giải thoát”, tùy theo khả năng tu tập của
mỗi cá nhân. Đạo Phật không đưa ra một tín lý
chắc nịch, cứng nhắc, bắt buộc tín đồ phải theo.
Nói khác hơn, có nhiều lộ trình khác nhau đưa ta
đến “giải thoát”, tất nhiên cuộc hành trình
không phải chỉ có “độc đạo”. Đạo Phật không bắt
buộc, không gò bó tín đồ trong một khuôn mẫu hay
tín lý cứng nhắc nào cả do Giáo hội từ trên đưa
xuống. Theo hay không theo tùy ý mỗi cá nhân.
Đạo Phật không có những tòa án tôn giáo hay tòa
án dị giáo (như inquisition của tòa thánh
Vatican) xét xử những ai nói trái với kinh điển
nhà Phật. Trước khi tịch, Ngài truyền dạy tín đồ
của Ngài có thể thay đổi kinh điển để thích nghi
với việc truyền đạo. Nhưng sau 4 lần kết tập,
kinh điển của Ngài không sửa một chữ và truyền
lại trên 20 thế kỷ.
Đạo Phật chưa bao
giờ, trong quá trình lịch sử trên 2,500 năm, và
sẽ không bao giờ tịch biên tài sản, ngăn cấm
không cho giữ những chức vụ công, lưu đày, cầm
tù chung thân hay cột vào cây, chất củi đốt cho
tới khi chết cháy nếu nói điều gì trái với giáo
hội. Vì thế Đạo Phật còn gọi là Đạo Từ Bi. Ngay
từ lúc khởi hành đi tìm đạo, ta cũng cảm thấy
thoải mái, và đã cảm thấy hương vị “giải thoát”.
Nam Tông, Bắc Tông hay tông phái Tây Tạng không
chống đối nhau, chém giết nhau hàng chục năm,
hàng trăm năm. Tất cả chỉ khác nhau ở cách tu
luyện. Tại sao cách tu tập khác nhau, vì mỗi
người có những khả năng tu hành khác nhau. Đức
Phật đưa ra những phương thức khác nhau để hành
giả tùy nghi áp dụng cho chính bản thân mình.
Chúng ta hãy lấy một ví dụ. Ta đi từ điểm A đến
điểm B, ta có thể đi bộ, ta có thể đi bằng xe
hơi, đi bằng máy bay. Đấng Thích Ca chỉ cho ta
cách sử dụng những phương tiện di chuyển khác
nhau. Điểm A là Bến Mê, điểm B là bờ Đại Giác.
Trong bộ Thiền Luận, Giáo sư Suzuki mở
đầu bằng: “Thiền là nghệ thuật kiến chiếu vào
thể tánh, để đưa ta từ triền phược đến giải
thoát”. Thiền là một trong những phương cách
thực hiện một cuộc hành trình để tự “giải thoát”
chính mình. Ta phải tự đi, Ông Phật không cõng
ta trên vai. Triết lý Đấng Thích Ca chỉ là cái
ngón tay chỉ cho ta thấy mặt trăng, đừng lầm
ngón tay với mặt trăng; triết lý Đấng Thích Ca
chỉ là con thuyền giúp ta sang sông. Nếu ta
không tự chèo lấy, làm sao con thuyền có thể nhổ
neo để sang bờ Đại Giác, con thuyền sẽ mãi mãi
đậu tại Bến Mê. Chính vì phải tự tu thân tích
đức nên Đạo Phật không phải là tôn giáo “yếm
thế” hay “tiêu cực” mà ngược lại vô cùng “tích
cực”. Việc gắn liền “tiêu cực” với Phật giáo là
việc làm của kẻ vô minh.
15.
Thuyết Cứu Chuộc
Mới: Luật sư Phạm Văn Phổ nói: “Tuy nhiên, theo
thuyết cứu chuộc của Công Giáo, giai đoạn tu tập
để đạt tới chỗ “Giác ngộ” chỉ là giai đoạn đầu
của tiến trình của công cuộc cứu rỗi. Bởi vì sau
khi đã đạt tới giai đoạn “giác ngộ” hoàn toàn,
người tu tập phải tiến một bước xa hơn là kết
hợp với Thiên Chúa, Ngài là Đấng Tạo Dựng cũng
như là Đấng Cứu Rỗi qua việc áp dụng các nhân
đức như lòng tin, lòng trông cậy hy vọng và đặc
biệt lòng yêu thương, để không những cứu rỗi
riêng mình còn cứu rỗi của nhân loại”. Tới đây
tôi có cảm tưởng luật sư Phổ là một “doctor of
the church” của Tòa Thánh Vatican xuất hiện vào
hậu bán thế kỷ 20. Chắc Luật sư chưa rõ “doctor
of the church” là gì, xin nói thêm: St Ambrose
(340-??), St Jemore(345-420), St Augustine
(396-430), Giáo Hoàng Gregory I (540-604), được
mệnh danh là Gregory The Great, sau này có St
Anselm (1033-1109), St Thomas Aquinas
(1225-1274)… là những cột trụ thần học của Tòa
Thánh.
Riêng học phái
thần học gọi “giác ngộ” là giai đoạn đầu của
tiến trình của công cuộc cứu rỗi, và sau đó đi
xa hơn bước nữa để kết hợp với Thiên Chúa, chắc
Giáo Hoàng chưa nghe thấy thuyết này của luật sư
Phạm Văn Phổ, một thần học gia đầu tiên của Dân
tộc Việt Nam. Người ta đọc cuốn Confessions
và City of God của St Augustine; cuốn
Monologion, Proslogion của St
Anslem, cuốn The Theory of Paranymy (bản
dịch của D.P.Henry,1964) , St Anselm and His
Crictics (của J.M.McEntyre,1954); cuốn Summa
Theologiae và On Being and Essence
của St Thomas Aquinas không tìm thấy một chữ nào
nói về thuyết cứu rỗi như luật sư Phổ Thuyết
giảng. Âu cũng là vinh hạnh lớn cho Con Cháu họ
Hồng Bàng. Nhưng rất tiếc Đức Phật, Đấng Giác
Ngộ, nhập Niết Bàn trước công nguyên hơn 5 thế
kỷ, mà theo luật sư Phổ, mới tu xong giai đoạn
đầu và không có hồng ân sống thêm vài thế kỷ nữa
để được luật sư dẫn đến Thiên Chúa để Đức Phật
được kết hợp với Thiên Chúa và được cứu rỗi.
Thật là chủ quan! Thật tức cười! Khi nói “giác
ngộ” là đã đạt tới mức tột cùng, còn gì có thêm
chữ hoàn toàn nữa.
16.
Thưa luật sư, nếu
tôi không hiểu sai, bài viết của luật sư nhằm
xoa dịu một vết thương “phỉ báng”, nhưng luật sư
đã làm sai, chẳng khác nào có một đống rơm có
thể cháy, đáng lý Luật sư cầm thùng nước dội vào
cho nó tắt đi, đằng này Luật sư lại cầm lầm
thùng dầu hôi đổ vào mồi lửa cho cháy to thêm.
Thay vì chữa lửa, luật sư lại trở thành người
tạo hỏa hoạn. Thay vì xoa dịu sự “phỉ báng”, lại
làm việc “sỉ nhục”. Tôi buồn lắm. Xin mời Luật
sư cùng tôi đặt ra một trường hợp giả tưởng, tôi
nói giả tưởng thôi, một ông Sư, đầu trọc áo
vuông, nói với mọi người là việc quỳ gối dưới
Thánh Giá để được cứu rỗi mới chỉ là bước đầu
tiên trên con đường đi đến “Giác ngộ”, rồi sau
đó nhập Niết Bàn để ngồi bên cạnh Ông Phật. Luật
sư nghĩ sao về trường hợp giả tưởng này? Đây là
trường hợp bố láo phải không, thưa Luật sư? Thưa
Luật sư, Luật sư nợ tín đồ Phật giáo (trong đó
không có tôi), đang đi trên Phật lộ để đến “giác
ngộ” một lời xin lỗi chân thành. Luật sư không
làm buồn lòng Ông Phật vì Ngài là Đấng Đại Giác,
với lòng từ bi và hỷ xả vô biên, Ngài đã đạt
được tới tận cùng của chân lý rồi. Thật tội
nghiệp cho những cụ già, tu hành, tụng kinh gỏ
mõ hàng mấy chục năm, sắp tới ngày về Cõi Phật,
được Luật sư nói chưa được, các cụ sắp sửa hoàn
tất giai đoạn đầu thôi, con đường đi tới chân
Thánh Giá còn xa lắm mới được kết hợp với Chúa
và được cứu rỗi. Các cụ già sức đâu mà đi xa hơn
nữa.
Tối hôm qua tôi
nằm mơ thấy Đức Phật, Ngài có nhắn tôi gửi lời
xin lỗi Luật sư vì không thể sống đến năm 1995
để chờ Luật sư cho biết Đức Phật còn đi một đoạn
đường xa nữa mới được kết hợp với Thiên Chúa
trước khi được cứu rỗi. Đức Phật nói Ngài đã
“lỡ” chứng được Đạo Quả Bồ Đề và nhập Niết Bàn
rồi vào lúc Ngài 80 tuổi. Sau gần nữa thế kỷ
truyền đạo, Ngài không còn đủ sức để tu tập giai
đoạn kế tiếp nữa. Xin Luật sư cảm phiền, và cũng
xin luật sư chuyển lời cảm ơn Đấng Tạo Hóa đã
ban cho Ngài hồng ân và cho phép Ngài khai sáng
ra đạo Từ Bi, như Giáo Hoàng nói: “Như vậy, thay
vì ngạc nhiên trước sự kiện là Đấng Toàn Năng đã
phát sinh ra nhiều tôn giáo như vậy, chúng ta
phải thích thú tìm thấy nơi các tôn giáo đó”
(trang 82, Crossing the Threshold of Hope).
17.
Thượng Đế có hay
không: Chúa, Đấng Thượng Đế (God), Toàn Năng
(The Almighty), Tuyệt Đối (The Absolute), ở khắp
cả mọi nơi (omnipresent), quyền năng vô biên
(omnipotent), toàn trí toàn thức (omniscient) sẽ
cứu rỗi cho loài người. Tại sao? Vì loài người
phạm tội. Cái tội này nó đi vào linh hồn (soul)
chứ không phải thể xác (body) từ thời Adam và
Eve. Thượng đế hiện hữu được các thần học gia
biện minh qua nhiều cách. Thoạt đầu, Thượng Đế
chỉ là một khái niệm vô hình của người Do Thái,
sau này những nhà thần học tán rộng thành ra
Thượng Đế của cả nhân loại. Rất tiếc trong thế
chiến II, người “Giải thoát” nạn tập trung
Auschwitz của Đức Quốc Xã không phải là Thiên
Chúa mà là Hồng Quân của Liên Xô vô thần. Chúng
ta hãy xem các nhà thần học lập luận về Thượng
Đế:
1. Tiêu biểu nhất
cho học phái chủ trương biện luận theo sự chấp
thuận thông thường (common consent arguments,
consengus gentium) là Richard Hooker (xem
Treatise on the laws of Ecclesiastical Polity),
được hỗ trợ bởi Cicero, Seneca, Clement of
Alexandria, Herbert of Cherbury, Phái Plato của
Cambridge, Gassendi và Grotius. Nhưng Hegel
chống đối.
2. Tiêu biểu cho
những người bênh vực cho học phái dựa vào vũ trụ
luận (cosmological arguments) gồm có Plato (xem
The Laws), Aristote (xem Metaphysics),
St Thomas Aquinas (xem Summa Theologiae),
Locke (xem Essay on the Human Understanding),
Descarters (xem The Third Meditation) và
hầu hết những nhà thần học hiện đại của Giáo Hội
La Mã. Nhóm này chủ trương mọi sự việc phải bắt
nguồn từ một nguyên nhân đầu tiên (first cause).
Mà nguyên nhân đệ nhất này là Thượng Đế. Trong
số những người phê bình phải kể đến Hume, Kant
và J.S.Mill.
3. Tiêu biểu cho
lối lập luận dựa vào sự hoàn thiện của sự việc
(degrees of perfection arguments) không ai khác
hơn là St Thomas Aquinas. Trong lối lập luận
“Ngũ Cách” hay “Ngũ Đạo” (Five Ways) trong bộ
thần luận Summa theologiae, ông nói: “The
fourth way is based on the gradation observed in
things. Some things are found to be more good,
more true, more noble, and so on, and other
things less… Some thing therefore is the truest
and the best and the most noble of things… And
this we call God” (trích Summa Theologiae).
Xin tạm dịch là: “Cách thứ tư được dựa vào
sự sắp đặt theo mức độ gia tăng được quan sát
thấy ở trong những sự việc. Người ta tìm thấy
vài sự việc tốt lành hơn, đúng hơn, cao quý hơn…
Vì thế một sự việc nào đó là sự việc đúng nhất
và tốt nhất và cao quý nhất… Và chúng ta gọi sự
việc này là Thượng Đế”.
4. Tiêu biểu cho
nhóm đặt nền tảng lập luận dựa vào luân lý phải
kể đến Kant và Hume. Kể từ Kant cho đến nay, có
rất nhiều tư tưởng gia biện minh cho sự hiện
diện của Thượng Đế lấy điểm tựa là kinh nghiệm
đạo đức của con người (human moral experience),
họ không đồng thuận với thần học tự nhiên cổ
truyền (traditional natural theology). Họ lập
luận phải có mệnh lệnh luân lý (moral commands),
có người ra lệnh (moral commander), luật lệ luân
lý (moral laws). Thượng Đế là người viết luật,
ra lệnh thi hành và phán xét. Hai tư tưởng gia
hỗ trợ mạnh nền tảng lập luận của Kant, mặc dù
không đồng ý một vài phần, là W.R.Sorley (xem
Moral Values and the Idea of GB) và A.E.
Taylor (xem
TheFaith of a
Moralist).
5. Tiêu biểu nhất
cho nhóm đặt nền tảng lập luận trên bản thể luận
(ontological arguments) là St Anselm (1033-1109)
(xem Proslogion). St Anselm quan niệm
Thượng Đế như sau: “Something that whis nothing
greater can be conceived” (aliquid quo nihil
maius cogitari possit). Xin tạm dịch là: “Một
cái gì không có một cái gì lớn lao hơn có thể
nhận thức được” (Proslogion 2). Trước đó 7 thế
kỷ, St Augustine (Aurelius Augustinus) đã định
nghĩa Thượng Đế là một cái gì “không có ai trên
cao hơn được” (… “than whom there is nothing
superior”) và ông nói tiếp: “anh phải tin tưởng
để anh hiểu; nếu anh không tin, anh không hiểu
được” (“Believe in order that you understand;
unless you shall believe, you shall not
understand” (xem
Confessions và
City of God).
6. Lập luận thông
thường (popular arguments): chúng ta được dạy là
phải tin. Tín ngưỡng đồng nghĩa với đức tin và
phản nghĩa với lý luận. Vũ trụ chứa đựng những
điều khó hiểu, không thể biết (unknowable).
Người ta giải thích những điều này là Thượng Đế,
vì Thượng Đế hiện hữu.
7. Lập luận dựa
vào mục đích luận về vạn vật (teleological
arguments). Đại diện cho nhóm người bênh vực cho
lập luận này là William Paley (xem Natural
Theology). Căn cứ vào sự cấu tạo và vận hành
các bộ phận của cơ thể con người, sinh vật, hay
vạn vật, người ta tin có một bàn tay nào sắp
xếp, phác hoạ, tức là phải có một “designer”,
tức là Thượng Đế. Người biện minh hùng hồn nhất
phải kể đến F.R. Tennant (xem Philosophical
Theology), được hỗ trợ bởi Ralph Cudworth
(xem True Intellectual Systems of the
Universe), Robert Boyle (xem The
Excellence and Grounds of the Mechanical
Philosophy), Robert Hooke (xem
Micrographia), John Ray (xem The Wisdom
of God Manifested in the Works of Creation)…
Nhưng người phê bình là David Hume (xem
Dialogues Concerning Natural Religion).
Thuyết tiến hóa (evolution) của Darwin (1809 -
1882) làm lung lay lối lập luận của nhóm này
(xem Natural Selection, Origin of Species
và The Descent of Man). Bản thể luận
(ontology), vũ trụ luận (cosmology) và mục đích
luận (teleology) là 3 cột trụ của sự tranh biện
có sự hiện diện của Thượng Đế.
8. Lập luận trên
khía cạnh tôn giáo (religious arguments): người
sáng tạo ra vũ trụ là những siêu hình thể dưới
nhãn quan của tôn giáo đó. Phật giáo và Kitô
Giáo có quan niệm về vũ trụ khác nhau. Phật giáo
có duyên khởi và nhân duyên, Thiên Chúa Giáo có
Thiên Chúa. Ta không thể so sánh, luận bàn. Bởi
vì Tạo Vật Chủ hay Đấng Tạo Hóa (The Creator)
không thể biết được (The Unknowable). Không có
đúng và không có sai, chỉ có sự “tin”. Nếu sự
“tin” được gạt sang một bên, người giải thích vũ
trụ là nhà khoa học. Cho tới giờ này khoa học
gia chưa có đầy đủ dữ kiện để giải thích. Vì thế
sự “tin” vẫn có giá trị.
17.
Trở về với quan
niệm về vũ trụ của Phật giáo. Phật giáo không
quan niệm vũ trụ vạn vật do một đấng nào tạo ra
cả, vì thế không quan niệm có Thượng Đế, tạo vật
chủ (creator). Vũ trụ vạn vật sinh ra dựa vào 2
lập luận: Thật tướng luận và Duyên khởi luận.
Trước khi đi vào 2 lối lập luận này, ta phải xét
lối lập luận trong triết lý Đấng Thích Ca,
dualistic reasoning, lối lập luận song nguyên.
Thí dụ: A là A mà cũng chẳng phải A, B là B mà
cũng chẳng phải B. A và B nương tựa nhau mà có.
A sinh ra B, B sinh ra A. Chỉ có A khi nào có B,
chỉ có B khi có A. A và B phải luôn luôn đi với
nhau. Anh A cao 1 thước, anh B cao 1 thước 50.
Ta không thể nói A là thấp nếu không có B. B
không thể nói là cao nếu không có A. A thấp, B
cao vì cả hai nương tựa vào nhau mà thành “thấp”
hay “cao”. Nếu A hay B đứng riêng, không có sự
việc “thấp, cao”. Tất cả đều là tương đối,
“thấp” và “cao” do cảm quan (perception). Ngôn
ngữ lập luận của Phật giáo như sau: A thấp, mà
cũng chẳng phải thấp. Mới nghe có vẻ như “gàn
dở”. Nhưng thực ra không phải như vậy. Cái quan
niệm “có, không”, “thật, hư”, “thường trụ, bất
biến”, “sanh, diệt”, “vô thỉ, vô chung”… nằm
trong lối lập luận này. Cho nên khi nhận định tư
tưởng Phật giáo ta phải đi đứng trên ngôn từ,
dùng trực nhận, vận dụng trí tuệ tối đa. Trực
nhận là một trình độ trí tuệ cao siêu, người
bình thường không thể có vì người ta cứ bận rộn
với “ngôn từ” nên không tìm ra “ý”. Triết lý
Phật giáo nặng về “ý”, nhẹ về “ngôn từ”.
A. Thật Tướng Luận:
Thật thể, thật tướng hay chân như là chân
thật, không giả dối, không biến đổi, không sanh
diệt, không còn mất, vô thỉ - vô chung. Cái Chân
Như đó, Phật giáo còn gọi là Chân Tâm, Viên
Giác, Thắng Nghĩa, Giác Tánh, Phật Tánh, Như
Như, Nhất Như… Muốn hiểu được thật tướng phải
dùng trực nhận, không bằng ngôn từ để có thể
“thể nhập” hay “thể chứng”. Ngôn ngữ dùng để
diễn tả hiện tượng giới. Mà đã nói đến hiện
tượng giới thì phải có giới hạn vì hiện tượng
giới nằm trong cảm quan của ta, không thể dùng
để diễn tả sự việc vượt không gian và thời gian.
Vũ trụ vô thỉ, vô chung, nghĩa là không có khởi
đầu và cũng không có kết thúc. Khởi đầu từ vô
thỉ chạy thẳng xuống vô chung. Vì thế Phật giáo
quan niệm vũ trụ vạn vật không do một đấng nào
có quyền năng vô biên (omnipotent) tạo ra cả.
Nếu nói có đấng sáng tạo tức là ta nói có điểm
khởi đầu, tức là cái "thỉ".
Đã quan niệm là
“vô thỉ, vô chung” thì còn làm gì có đấng tạo
hóa hay thượng đế nữa. Không có nguyên đệ nhất
(first cause, designer, creator…) thì tất nhiên
chẳng có Thượng Đế. Diễn tả sự việc này bằng
ngôn từ, tức là có sự giới hạn trong sự diễn tả.
Phải dùng trực nhận để hiểu biết vấn đề. Henri
Bergson giúp ta thêm để hiểu thế nào là trực
nhận (intuition, immediate apprehension). Nghiên
cứu thuyết “entropy” để biết sự biến dạng
(transformation) và thật thể biến hiện của vũ
trụ.
B. Duyên Khởi Luận:
là những lý thuyết nói về nguyên nhân hay lý do
sanh khởi của hiện tượng giới. Có 5 thuyết trong
Duyên Khởi Luận: Nghiệp Cảm, A Lại Đa Thức, Chân
Như, Lục Đại và Pháp giới.
1. Nghiệp Cảm:
thuyết này rút tỉa từ Tứ Diệu Đế và Thập Nhị
Nhân Duyên. Cái nghiệp nó tạo ra thân ta và y
báo tức là sơn hà đại địa. Nghiệp biến đổi, quả
cũng biến đổi. Nghiệp cảm làm sao thì cảm thọ
cái thân và cảnh giới như thế. Dứt trừ được
nghiệp báo là trở về với Chân Như, tức là đã
Giác Ngộ.
2. A Lại Đa
Thức:
Trong nghiệp cảm duyên khởi có 6 thức (nhãn,
nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý). Đại thừa thỉ giáo tìm
thêm 2 thức nữa, Mạt Na Thức và A Lại Đa Thức.
Mạt Na Thức là nhận biết có cái ngã, và giữ gìn
cái ngã ấy. Nhưng làm sao giữ được cái ngã ấy
trong khi ngũ uẩn và lục thức đều sanh diệt vô
thường, hợp lý mãi mã. Vậy ta phải cần có một
thức khác để ngăn chặn sanh diệt vô thường, hợp
lý mãi mãi. Lấy thí dụ ta muốn giữ đồ ăn lâu
ngày. Nhưng với tác dụng của môi sinh, các phản
ứng hóa học (chemical reaction) trong đồ ăn xảy
ra, đồ ăn sẽ hư thối. Giải quyết vấn đề hư thối,
ta bỏ vào tủ lạnh (deep freezer), các phản ứng
hóa học đình chỉ, thức ăn không hư thối. Cái
deep freezer này là thức thứ 8, tức là A Lại Đa
Thức hay Tạng Thức. A Lại Đa Thức hằng khởi,
thường tại, chùm chứa tất cả chủng tử của các
pháp nên A Lại Đa Thức, thức thứ 8, phát hiện
được hết năng lực vô hạn của vạn tượng.
Tóm lại A Lại Đa
Thức là cái căn bản của hiện tượng giới. Hiện
tượng do chủng tử các pháp mà phát hiện. Nói
khác hơn chủng tử cùng hiện tượng, nhân quả lẫn
nhau mãi mãi, được kích thích sinh ra duyên mới.
Từ đó làm cho hiển hiện vạn hữu và là nền móng
qua bao nhiêu kiếp nhân quả luân hồi, đồng thời
cũng là căn nguyên của giải thoát, bởi lẽ trong
A Lại Đa Thức có đủ cả chủng tử hữu lậu lẫn
chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu là hạt giống
sinh ra thiên sai vạn biệt của hiện tượng giới;
còn chủng tử vô lậu cho biết ngoại giới có hư
vọng. Bởi thế, đừng để cho tâm vọng động để có
thể đưa đến giải thoát. Từ đó ta thấy, toàn bộ
tiến trình giải thoát không có sự hiện diện của
Phật, của Chúa, của Thượng Đế… mà chỉ có cái tâm
của ta. Nỗ lực của người tu hành là kìm hãm cái
tâm không cho vọng động thì mới nhìn thấy con
đường giải thoát. Nếu nói giải thoát hoàn toàn
rồi mới đến gần thánh giá để kết hợp với Chúa để
được cứu rỗi là bố láo. Nói xàm.
3. Chân Như:
sinh ra vạn pháp, hay nhất thiết duy tâm tạo.
Tâm động là cánh cửa của sanh diệt. Tâm tịnh là
cánh cửa của Chân Như. Chân Như bất biến, thường
trụ, nhưng vô minh làm cho vọng động. Vô minh là
vọng niệm, từ cái vọng niệm này có chủ quan,
khách quan, tự ngã, phi ngã, vũ trụ và vạn hữu.
Chúng sinh vì vô minh nên chỉ thấy có vạn tượng
giới, diệt trừ vô minh là thấy được Chân Như.
Tâm gồm có vạn tượng và Chân Như. Động là vạn
tượng, Tịnh là Chân Như. Từ tịnh sang động phát
hiện vũ trụ vạn hữu, từ động sang tịnh phát hiện
Chân Như. Chẳng có Phật, Chúa hay Thượng Đế nào
giúp người tu hành vứt bỏ cái vọng tâm mà chỉ do
chính người tu hành mà thôi. Đó là điểm khởi
hành đưa ta đến giải thoát.
4. Lục Đại:
là địa (earth), thủy (water), hỏa (fire), phong
(wind, air), không (space) và thức (vijnana,
understanding, conscience). Năm “đại” trước
thuộc về sắc pháp, vạn vật. “Đại” thứ 6 thuộc về
tâm (mind). Sự dung thông, ngăn ngại, tác động
(intereact, intercorrelate) với nhau sinh ra vũ
trụ vạn vật. Vật là hình tướng (form), tâm là
lực động (gorce, moving cause). Hai thể này
không thể lìa nhau, tương phản, tương hợp với
nhau. Lìa hiện tượng không có thật thể, lìa vật
không có lý tánh. Giải thoát là phân biệt được
Chân Như và Hiện Tượng. Sự nhận biết, phân biệt
hoàn toàn do nỗ lực cá nhân. Sự hiện diện của
Thượng Đế chẳng có can dự gì cả.
5. Pháp Giới:
vũ trụ vạn hữu là kết quả của sự dung thông giữa
các pháp. Pháp này dung thông pháp kia, cùng
nhau làm duyên khởi, nên gọi là “vô tận duyên
khởi” hay “trùng trùng duyên khởi”. Như thế vũ
trụ vạn hữu là một cuộc hoạt động không ngừng
của hiện tượng, từ vô thỉ đến vô chung, nối tiếp
nhau, tràn lan vô tận, như những đợt sóng biển.
Nếu hoạt động ngừng thì không có vạn tượng,
không có vũ trụ.
19.
Có người hỏi vũ
trụ luận của Phật giáo là gì, sao có nghiệp cảm
rồi lại có duyên khởi, mà duyên khởi lại có
những 5 thuyết khác nhau? Rắc rối quá, lẫn lộn
quá, chống đối nhau? Không và hoàn toàn không.
Tất cả đều giống nhau chỉ khác rộng và hẹp, nông
và sâu. Tùy theo khả năng nhận thức hay khả năng
trực nhận của mỗi người. Triết lý Đấng Thích Ca
là một nhưng có nhiều cách khác nhau trong lối
diễn tả để thích nghi với mỗi hành giả. Thí dụ
gạo nấu thành cơm hay cháo. Cơm cho người muốn
ăn cơm, cháo cho những ai muốn ăn cháo. Cơm và
cháo cũng đều là gạo cả. Như trên tôi đã nói,
muốn hiểu cái triết lý của Đấng Thích Ca ta phải
làm quen với lối suy luận trong Phật giáo thì sự
hiểu biết sẽ rõ ràng hơn. Tiểu Thừa, Đại Thừa
hay Kim Cương Thừa, tùy nghi, chọn cách diễn tả
vũ trụ luận theo sở thích. Nhưng tất cả không ra
ngoài căn bản triết lý của Đức Phật.
20.
Để bổ túc cho việc nhận thức, ta phải biết thêm
cái rộng lớn của không gian và thời gian trong
Phật giáo. Mất đi sự nhận thức về không gian và
thời gian vô tận thì không thể hiểu nổi vũ trụ
quan của Phật giáo. Plato, Aristote, Zeno,
Newton, Euclid, Locke, Pascal, Minkowski,
McTaggart, Kant, Caird, Borel, Einstein,… sẽ
giúp ta rất nhiều để làm quen với không gian và
thời gian. Phạm vi bài báo không cho phép khai
triển ý niệm về không gian và thời gian.
Đọc Trung Luận của
Ngài Bồ Đề Long Thọ, đối với các bậc đại thừa,
thật tướng hay duyên khởi cũng không còn nữa.
Cái “quán” của Trung Luận chỉ có bậc đại trí giả
mới có thể hiểu nổi.
21.
Đọc Avesta,
Tân Ước và Cựu Ước ta thấy có quá
nhiều điều giống nhau. Có người nói, Thánh Kinh
cóp nhặt từ Zoroaster. Đạo của Zoroaster và Ấn
Độ Giáo có nhiều điểm tương đương, vì thế có học
giả cho rằng trong 16 năm vắng mặt của Chúa
Giêsu Kitô, không được Tân Ước nhắc tới, là thời
gian Chúa Giêsu Kitô sang Đông Phương học đạo và
có thời kỳ Ngài là một vị tăng Phật giáo (xin
đọc The Lost Years of Jesus Christ và
The Lost Teachings of Jesus Christ của
Elizabeth Clare Prophet, và Jesus in India
của Holger Kersten, The Lost Years of
Jesus Revealed của Dr. Charles Francis
Potter). Không một người Việt Nam nào lại biết
Nữ Thần Tự Do, Nike (giầy thể thao) là tên một
vị thần, hỏa tiễn Poseidon, Titans, phi thuyền
Apollo, xe hơi hiệu Saturn, các địa danh
Arcadia, Memphis, Ithaca, Philadelphia (Philae +
Delphi), Atlanta (nơi sẽ tổ chức Thế Vận Hội
1996), Carthage, Atlas, Palladium, Orion, dầu
thơm Clio, Diana, Anteus, Bacchus, Aramis,
Xeyrius,… tiệm bán hoa Flora, điệu nhạc Calypso,
banh Giants… đều là tên của những vị thần. Thậm
chí một sòng bài lớn ở Las Vegas cũng lấy tên
một vị thần Excalibur. Ngày thứ ba (Tuesday) tên
thần Tyr, thứ tư (Wednesday) tên thần Woden hay
Odin, thứ năm (Thursday) tên thần Thor, ngày thứ
sáu (Friday) tên thần Frey…
Cuộc sống của
chúng ta bao vây bởi nhiều, không phải một vị
thần, vị thánh. Người ta tin có thần có thánh.
Đã là đức tin, không bàn cãi, không có gì sai
trái cả. Nếu bảo đức tin của mình là một
“universal truth” thì khoa học gia sẽ lên tiếng
và tri thức của con người sẽ nổi dậy. Đức Phật
Thích Ca đứng ngoài. Ngài không bao giờ cho mình
là thần hay là thánh hay Thượng Đế, Ngài chỉ là
một ông thầy giáo, một Đại Sư mà thôi, để giảng
dạy luân lý qua hệ thống triết học của Ngài.

Mới đây Richard
Dawkins trong cuốn River Out Of Eden: A
Darwinian View of Life, ông đưa ra vấn đề có hay
không có Thượng Đế, cần hay không cần có Thượng
Đế, và ưu thế của khoa học đối với siêu hình
học. Ông nói: “After Darwin, there is no need
for God”. Xin tạm dịch: “Sau Darwin, không cần
có Thượng Đế nữa”. Để hiểu biết thêm về Thượng
Đế, nên đọc Power of Myth của Joseph
Campbell và Bill Moyers, History of God
của Karen Armstrong, The Story of
Civilization (11 cuốn) của sử gia Will
Durant, A Study of History (12 cuốn) của
sử gia hoàng gia Anh Quốc Arnold Toynbee, và
The Larousse Encyclopedia of Mythology
(Barnes & Noble xuất bản).
Thượng Đế là một ý
niệm siêu hình, lời nói của Thượng Đế có tính
cách biểu tượng. Nếu coi Thượng Đế như là một
nhân vật có nhân tính và lời nói của Thượng Đế
là ngôn ngữ của xã hội, luật pháp loài người,
tức là ta đưa Thượng Đế đến trước mặt khoa học
gia. Ta cứ để Thượng Đế ở vị trí “Unprovable” và
“Unknowable”. Ta cứ để Thượng đế đứng gần cái
“Why” còn khoa học gia coi phần “How” là tốt
nhất. Chắc luật sư Phạm Văn Phổ đồng ý. Người Do
Thái chỉ tin có một Thượng Đế của người Do Thái
thành ra Thượng Đế của cả nhân loại theo chủ
quan tính của họ. Đi xa hơn nữa họ bắt cả thế
giới tin Thượng Đế là có thật như một sự thật đã
được kiểm chứng. Họ cố tình lầm lẫn giữa
“perception” và “conception”.
22.
Chủ thuyết Tội Tổ
Tông (Father’s sins): tội lỗi, theo Thánh Kinh,
được nối tiếp từ ông Adam, xâm nhập linh hồn con
người, con cháu của ông ta. Có tội phải chuộc
(redemption), xin cứu rỗi (salvation) hay bị đày
xuống địa ngục (damnation) do nơi Chúa. Chúng ta
thường nghe người Mỹ nói “God Damned!” là như
vậy. Chúng ta hãy lắng nghe St Augustine. Ông
dạy rằng Adam có toàn quyền hành xử mọi hành
động của mình (free will), ông có thể kiềm chế
để không phạm tội. Nhưng ông Adam đã phạm tội vì
bà Eva đã ăn trái táo trên cây cấm, thay vì ăn
trái táo trên cây nhân sinh. Ăn xong hai người
mới thấy xấu hổ (mắc cỡ) là mình trần truồng, họ
chạy trốn ra khỏi Vườn Địa Đàng và lấy lá cây
che các bộ phận sinh dục lại. Trái cấm là sự
hiểu biết. Chúa cấm không được biết, vẫn làm là
phạm tội (máy điện tử Apple lấy logo là một trái
táo đã cắn một miếng). Chỉ có Chúa mới có thể
ban ân sủng, tha tội.
Tội do Adam và Eva
phạm, còn lưu truyền từ đời này sang đời khác
cho đến ngày hôm nay. Trẻ em sơ sanh cũng có
tội, mặc dù còn chưa biết cầm bình sữa, nếu chưa
chịu phép rửa tội. Luật gia đặt vấn đề Insanity
in Canon Law. Trẻ em quá nhỏ, hay bị tàn tật,
không có thể bị “kết án”, mặc dù trên khía cạnh
tôn giáo. Xin luật sư nghiên cứu thêm về điểm
pháp lý này. Tội của loài người nằm trong linh
hồn, không nằm trong thể xác (theo Thánh Paul).
Nếu ai chết chưa chịu phép rửa tội (unbaptized)
sẽ bị đày đọa mãi mãi (damnation). Nhưng nếu đã
chịu phép rửa tội, Chúa sẽ đưa lên Thiên Đàng.
“Damnation” là công lý của Chúa, “Salvation” là
ân sủng của Chúa. Cả hai đều là điều tốt lành
(goodness) của Chúa (?). Nhưng thần thuyết của
St Augustine bị Morgan (tên Hy Lạp là Pelagius)
bác bỏ kịch liệt. Pelagius quan niệm con người
có toàn quyền hành xử hành động của mình theo ý
muốn (free will), nếu con người làm đúng theo
luân lý, nếu không có “criminal intent”, ý định
phạm tội ác, con người sẽ được tưởng thưởng cho
lên Thiên Đàng. Nhưng Bertrand Russell gọi chủ
thuyết này là chủ thuyết hung ác, ferocious
doctrine (A History of Western Civilization,
trang 365).
Để diễn tả con
người thánh thiện trước khi phạm tội, tất cả
người mẫu trong họa phẩm của Michelangelo vẽ ở
nhà thờ St Sistine (Tòa thánh Vatican) đều trần
truồng, các bộ phận sinh dục được vẽ đầy đủ,
cũng như Adam và Eva trước khi ăn trái cấm
(ngoại trừ Thiên Chúa trong họa phẩm The
Creation). Theo Thánh Kinh, Chúa Giêsu Kitô,
được Đấng Chúa Cha sai xuống sống với loài người
(Incarnation), chịu đóng đinh trên thánh giá
(Crucifixion) để chuộc tội (Redemption) cho loài
người. Chuộc tội cho loài người xong, Ngài sống
lại (Resurrection) và Ngài lên Nước Thiên Đàng
(Kingdom of Heaven) ngồi bên tay phải của Đấng
Chúa Cha.
23.
Giác Ngộ: toàn bộ
nền tảng triết lý của Đấng Thích Ca đặt trên hai
cột trụ “Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo”.
A. Tứ Diệu Đế:
“Tứ” là 4, “Diệu” là đẹp, quý báu, hoàn
toàn, “Đế” là sự thật chắc chắn, rõ ràng đúng
đắn nhất, chữ Phạn là Ariya Saccani. Có chỗ gọi
là “Tứ Thánh Đế”. Bốn đế đó là:
(1) Khổ Đế: nhận
định sinh, lão, bệnh, tử là một bể khổ mênh
mông;
(2) Tập Đế: nói
đến nguyên nhân của khổ đau (sinh, lão, bệnh,
tử);
(3) Diệt Đế: kết
quả của sự diệt trừ những khổ đau hay tát cạn
biển khổ này;
(4) Đạo Đế: phương
pháp tu hành để diệt khổ và sống hạnh phúc vĩnh
cửu.
Cái “khổ” ở đây
phải hiểu là cái nghiệp xấu tạo ra. Nếu nghiệp
tốt, quả tốt, chẳng có gì là “khổ” cả. Tứ Diệu
Đế là bài giảng đầu tiên của Đức Phật tại
Benares.
Mẹ Teresa đi khắp
nơi này đến nơi khác xoa dịu khổ đau cho những
người bất hạnh. Phải chăng Mẹ Teresa đã nhận
thức thấy nhân loại đầy rẫy khổ đau và biển khổ
phải được tát cạn. Nhưng rất tiếc, phần đông nói
Phật giáo là yếm thế vì chỉ biết có khổ đế mà
quên mất 3 đế kia nữa.
B. Bát Chánh Đạo:
hay Bát Thánh Đạo, nghĩa là 8 con đường ngay
thẳng hay 8 phương tiện mầu nhiệm đưa con người
từ trạng thái “u mê” đến “giác ngộ” sống trong
hạnh phúc vĩnh cửu. Bát Chánh Đạo:
1. Chánh Kiến:
nhận biết một cách ngay thẳng, công minh;
2. Chánh Tư Duy:
suy nghĩ, nghiệm xét chân chính, đúng với lẽ
phải;
3. Chánh Ngữ: lời
nói chân thật, công bình, hợp lý;
4. Chánh Nghiệp:
hành động chân chính, hợp với chân lý, lợi ích
cho chúng sinh (người và muôn vật).
5. Chánh Mạng:
sống lương thiện, trong sạch, ngay thật, công
bằng, từ bi;
6. Chánh Tinh Tấn:
chuyên cần, siêng năng, lấy chánh trí làm mãnh
lực, lấy Niết Bàn làm chỗ quy hướng;
7. Chánh Niệm: ghi
nhớ những điều hay lẽ phải, lợi cho mình cho
người;
8. Chánh Định: tập
trung tư tưởng vào hành động và suy nghĩ chín
chắn, trung thực.
“Tứ Diệu Đế” và
“Bát Chánh Đạo” có thể ví như “Tri” và “Hành”.
Tri cho sáng suốt, Hành cho đúng đắn để đi đến
“giải thoát”. “Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo” là
khuôn mẫu đạo lý của Phật giáo. Tuyệt nhiên
không nói đến “tội tổ tông”, không nói đến
“chuộc tội”, phải quỳ dưới chân Phật để được
“cứu rỗi”. Tuyệt nhiên không ở trên “cứu rỗi”,
không ở dưới “cứu rỗi” mà cũng chẳng liên hệ gì
đến “cứu rỗi”, thế mà Luật sư Phạm Văn Phổ nói
rằng “giải thoát hoàn toàn” chỉ là giai đoạn đầu
của tiến trình cứu rỗi để kết hợp với Thiên Chúa
để được cứu rỗi”.
Theo triết lý Đấng
Thích Ca, ta làm hay (nghiệp tốt) ta hưởng, ta
làm sai trái (nghiệp xấu) ta sửa chữa, tu tập để
được giác ngộ. Phật, Chúa Giêsu Kitô hay Thiên
Chúa không giải thoát cho ta được. Ta phải tự
làm lấy, vậy thì kết hợp với Thiên Chúa để làm
gì? Quỳ dưới thánh giá để làm gì? Lập luận của
Luật sư Phổ có tính cách vơ vào, chủ quan. Vơ
vào vì nghĩ rằng đạo của mình là nhất, là một
tổng thể, những đạo lý của người khác chỉ là một
vi thể. Chủ quan vì ý niệm Thượng Đế là một sự
thật hiển nhiên. Đạo Phật mới là đạo không yếm
thế, KTG mới là đạo yếm thế, ỷ lại. Chỉ có đức
tin nơi Chúa là xong hết. Con người chẳng cần
tạo một nỗ lực nào để có một đời sống đạo đức.
Cô Mary Magdalene là một người đàn bà mất nết,
các tông đồ rất khó chịu khi thấy cô ta quá gần
gũi với Chúa Giêsu, rửa chân cho Chúa và tin nơi
Chúa. Chúa chấp nhận Mary Magdalene vì cô có đức
tin nơi Chúa. Trái lại, nếu một Phật tử chỉ tin
có Đức Phật, nhưng không tu thân để tạo nghiệp
tốt thì đức tin nơi Đức Phật không giải thoát
cho ta được. Thiện nghiệp mới là điều đáng nói,
đức tin chẳng có nghĩa gì cả.
24.
Phật giáo tiêu cực
hay không? Luật sư viết: “Đối với tính cách
“tiêu cực” của “thuyết cứu rỗi” (thuyết này
không có) của Phật giáo, có lẽ nhận định của
Giáo Hoàng đã dựa trên chủ trương của môn phái
Tiểu Thừa nhiều hơn. Bởi vì trong khi phái Tiểu
Thừa có cái nhìn “Tiêu Cực” về thế giới thì trái
lại phái Đại Thừa lại nhìn thế giới với thái độ
“tích cực” hơn”.
Trong lúc giải
kinh Đại Thừa tại Rajagriba (tại Trung Ấn Độ)
cho các vị Tỳ Kheo và Bồ Tát, Đức Phật nói những
điều Ngài giảng chưa thích hợp với thời hiện
tại, phải 400 năm sau thì người ta mới hiểu nổi
những gì Ngài giảng. Ngài tin tưởng vào một vị
môn đệ là Naga sẽ giảng giải kinh của Ngài cho
hậu thế. Bốn trăm năm sau, Ngài Bồ Tát Long Thọ
(Nagarjuna) soạn bộ Trung Luận (1 trong 3
bộ: Trung Luận, Bách Luận hay Bá Luận và Thập
Nhị Môn Luận, bộ luận tập tôn của Tam Luận Tôn).
Đại thừa không chủ trương chỉ giải phóng cá nhân
(individual liberation) mà còn chan chứa vị tha
(altruism), ẩn tàng trong các kinh điển của Đại
Thừa (Xin đọc Treasure Teaching của giáo
sư Robert Thurman, khoa trưởng Religion
Department tại đại học Columbia).
25.
Luật sư có biết
hiện giờ có bao nhiêu vị tăng đang hàng ngày xả
thân vào trại cùi ở Việt Nam không? Tôi sẽ hãnh
diện chiếu cho Luật sư coi một cuốn phim video
cho thấy các vị tăng Phật giáo hoạt động xã hội
trong trại cùi. CSVN thấy vị tăng này có uy tín,
họ ngăn cấm sư hoạt động, bệnh nhân cùi ra đường
phản đối. Nhà cầm quyền CSVN sợ và phải chịu
thua. Mọi hoạt động trở lại bình thường. Cuộn
video có sẵn, Luật sư xem lúc nào cũng được. Vậy
thì “tiêu cực” ở chỗ nào? Đây là một vị tăng áo
vàng, tức thuộc Tiểu Thừa.
26.
Sau gần nửa thế
kỷ, không phải 40 tháng hay 40 ngày, Đức Phật ở
trần thế để truyền đạo kể từ ngày tìm thấy chân
lý dưới cội bồ đề. Nếu Đức Phật “tiêu cực” thì
chắc hẳn không còn muốn sống thêm gần nữa thế kỷ
nữa. Thánh kinh nói, 3 ngày sau khi bị đóng đinh
trên thánh giá, chúa Giêsu sống lại và 40 ngày
sau bỏ thế gian trở về nước Chúa. Tới đây ai
cũng thấy Đức Phật “tiêu cực” hay “tích cực”?
Trước khi tịch ngài ngọa thiền nằm nghiêng phía
bên phải, đầu hướng về phương Bắc, mặt quay về
hướng Tây, trong một tư thế vô cùng vững vàng và
thoải mái. Các môn đệ, muôn loài chim muông và
thú rừng cũng ở quanh Ngài, rồi Ngài ra đi một
cách nhẹ nhàng và thánh thiện. Cái thế nằm như
vậy thật vững vàng, nên sau khi Ngài nhập Niết
Bàn, đạo của Ngài không gặp sóng gió. Đạo của
Ngài có thể phát triển bất cứ ở đâu, bất cứ thời
nào. Tăng chú鮧
và Phật Tử noi gương đức từ bi của Ngài nên có
thể hòa đồng với bất cứ tôn giáo nào. Tất cả mọi
người có thể đến với Ngài và học hỏi ở nơi Ngài
những triết lý cao thâm huyền diệu từ trái tim
của họ. “Phật tại tâm” là như vậy.
27.
Tất cả hành vi,
lời nói, suy nghĩ tốt lành phải xuất phát từ cái
“tâm”. Người nào tu Đạo Phật phải biết diệt trừ
“vọng tâm” đó để biến cái vọng tâm đó thành “tâm
Phật”. Nếu đã biết tu tập để đạt được “Tâm
Phật”, thì “tiêu cực” chỉ là “lộng ngữ”. Theo
Luật sư, Tiểu Thừa là tiêu cực, Đại Thừa là tích
cực, còn Tông Phái Tây tạng thì sao? Chắc cả hai
phải không? Hồi bé tôi đi xe lửa, tôi thấy cây
cối và cột đèn chạy từ đằng trước ra đằng sau.
Tôi thấy mặt trời chuyển động, trái đất đứng yên
một chỗ, cũng như trái đất quay quanh mặt trời,
trái đất không đứng yên. Cái nhìn của Luật sư về
Phật giáo là cái nhìn của trẻ thơ ngồi xe lửa
hay như Tòa Thánh nhìn mặt trời. Vô minh gây
phiền não là như vậy. Phật giáo không nói tiêu
cực hay tích cực, chỉ có vô minh hay giác ngộ,
chỉ có tinh tấn hay không tinh tấn, chỉ có rốt
ráo hay không rốt ráo…
28.
Cũng như có người
gọi Phật giáo là “vô thần” và gọi Cộng Sản cũng
là “vô thần”. Đặt vấn đề “vô thần” hay “hữu
thần” với Phật giáo là “out of context”. Trong
cuốn The Contempolary Status of Atheism,
Jean-Marie Le Blonde viết: “… life without God
need not be bestial, unintelligent, or immonal,
atheism can be serene and deeply human”, xin tạm
dịch là “… đời sống không có Thượng Đế không
nhất thiết phải là đầy thú tính, thiếu thông
minh và vô luận, vô thần có thể là trong sáng và
thật đầy nhân tính”. Người ta vẫn lạm dụng chữ
“vô thần” để sỉ nhục những người nào không ở
trong cái cộng đồng chấp nhận không có Thượng
Đế. Tại Pháp cho tới thời Cách Mạng 1789, người
nào viết, ấn loát những tài liệu có tính cách vô
thần bị truy tố như là theo tà giáo. Khi đó
Inquisition ra tay trừng phạt. Nhìn lại lịch sử
Việt Nam, 18 đời vua Hùng Vương, Hai Bà Trưng,
Đinh Bộ Lĩnh, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
Trung, Nguyễn Huệ… là những người không theo
Kitô Giáo. Các anh hùng liệt nữ đó là “vô thần”
đấy, các vị này là Cộng Sản ư? Là đáng khinh bỉ
ư? Việc gán chữ “vô thần” cho Phật giáo chắc
chắn không phải là sự biểu lộ sự thân hữu hay
tương kính. Giáo Hoàng Paul VI trong thông điệp
Ecclesiam Suam đã có cái nhìn khác về những
người không chủ trương có Thượng Đế, nhưng Giáo
Hoàng Jonh Paul II trở lại tư tưởng thời trung
cổ, khi Inquisition phát triển mạnh. Ông Phật
không phải là một ông Thượng Đế, thần hay thánh.
Ông Phật chỉ là một vị Đại Sư. Nhưng người đời
tôn sùng Ông, thờ hình tượng Ông, thờ hình tượng
Phật Bà Quan Âm (người Nhật gọi là Canon, tên
máy chụp hình).
29.
Theo triết gia
Mortimer J.Adler, chủ biên bộ đại tự điển bách
khoa Encyclopedia Britannica, Giám đốc
Institute for Philosophical Research ở Chicago,
thì triết gia Tây Phương phạm nhiều lầm lỗi
triết học từ nhiều thế kỷ nay, trong đó có sự
lẫn lộn giữa conception và perception. Ý niệm
Thượng Đế là một perception chứ không phải là
một conception, vì thế KTG cứ nghĩ rằng Thượng
Đế là một sự thật hiển nhiên. Tây Phương quan
niệm Thượng Đế từ phía ngoài, chân như của Phật
giáo nhìn từ nội tâm. Vì vậy gán “vô thần” cho
Phật giáo là một quan niệm sai lầm lớn lao. Cái
nhìn sai lạc về Phật giáo cứ tiếp diễn từ thế kỷ
này sang thế kỷ khác. Điển hình nhất là nhận
định của Giáo Hoàng Jonh Paul II mới đây. Luật
sư Phổ như một người thợ mộc mắt toét dùng cây
thước đã bị bẻ cong.
30.
Vì thế, tạm thời
ta hãy đứng ở vị trí của mình. Đừng vội coi cái
đức tin của tôn giáo mình là một sự thật “beyond
reasonable doubt”. Trang 43 của cuốn Crossing
the Theshold of Hope, Giáo Hoàng John Paul
II nói:
“Buddha is right
when he does not see the possibility of human
salvation, but he is wrong, for that reason, he
denies that creation has any value for
humanity.”
(Bản dịch của nhà
xuất bản Thăng Tiến: “ Phật Thích Ca đúng khi
không nhìn thấy khả năng cứu rỗi con người qua
việc tạo dựng, nhưng lầm, vì lí do này, Đức Phật
chối bỏ cả việc tạo dựng có bất cứ giá trị nào
cho nhân loại).
Giáo Hoàng đúng
khi nói Phật giáo phát triển mạnh tại Tây
Phương, nhưng sai và sai lớn khi nói rằng Đức
Phật sai.
31.
Như đã nói ở trên “Giải thoát” chẳng có một liên
hệ gì đến “cứu rỗi”. Đức Phật có nói về tội Tổ
Tông đâu mà cứu rỗi. Phật giáo không quan niệm
“Cha ăn mặn, con khát nước”, mà quan niệm “Quýt
làm, Quýt chịu”, nghĩa là mỗi người chịu hứng
lấy cái “nghiệp” (karma) của mình. Đức Phật
Thích Ca có quan niệm Đấng Tạo Hóa hay Thiên
Chúa (Creator) tạo dựng lên trời đất đâu. Việc
chối bỏ hay chấp nhận phải được coi là “out of
context”. Cái ý nghĩa Thượng Đế của KTG tức là
cái “Chân Như” của Phật giáo vậy. Chân Như nằm
trong nội tâm. Quả thật tôi không hiểu tại sao
Giáo Hoàng John Paul II, sinh sau Đức Phật 2,500
năm, lại nói Đức Phật sai. Tượng Phật thấy trên
khắp thế giới trên 2,500 năm nay, và Đạo Phật
đang phát triển mạnh tại Tây Phương, vậy Đức
Phật sai ở chổ nào? Tôi nghĩ một Giáo Hoàng
không nên nói Đức Phật sai cũng như một hòa
thượng không nên nói Chúa Giêsu Kitô là sai. Căn
cơ của các vị đó không đủ để có lời phê bình như
vậy.
32.
Đường lối của Tòa
Thánh: Người đứng đầu tòa thánh Vatican không ai
khác hơn là Giáo Hoàng, một biểu tượng của thần
quyền cao nhất. Bất cứ điều gì Giáo Hoàng nói,
làm đều đúng. Tòa thánh không bao giờ sai, lúc
nào cũng đúng trong cái sai. Tất cả những lời
phát biểu của Giáo Hoàng về Phật giáo phải được
coi là đúng. Vì thế cái chủ thuyết cứu rỗi “đầu
gà đít vịt” của nhà tân thần học Phạm Văn Phổ
mới ra đời. Luật sư Phổ thuyết giảng “giác ngộ”
chỉ là giai đoạn đầu, sau đó còn phải đi xa hơn
nữa để kết hợp với Thiên Chúa để được cứu rỗi.
Nhưng trên thực
tế, sự thật lại khác. Chẳng hạn Giáo Hoàng
Liberius (352-366), Giáo Hoàng Vigilius
(537-555) đưa ra những giáo lý sai lầm. Các Giáo
Hoàng thời Phục Hưng (1470-1530) là động lực
thúc đẩy Martin Luther ra thành lập giáo phái
mới. Galileo chỉ được phục hồi danh dự sau 400
năm; Jeanne d’Arc, một cô gái quê người Pháp,
nghe tiếng gọi của Thiên sứ Michael, vùng lên
giải phóng cho Pháp. Cô bị cột vào cây gỗ, chất
củi xung quanh và đốt cho chết cháy lúc mới 19
tuổi. Mãi tới 140 năm sau bản án mới được hủy
bỏ, danh dự được phục hồi, nhưng cô đã chết
trước đó hơn 1 thế kỷ. Năm 1920, cô được Vatican
phong làm nữ thánh St Jeanne d’Arc (30 tháng 5).
Có phải Tòa Thánh sai không? Và rất nhiều thí dụ
khác nữa. Phạm vi bài báo không cho phép nói
hết.
33.
Muốn có một cái
nhìn rõ ràng hơn, ta nên đọc The March of
Folly: From Troy to Vietnam của nữ sử
gia Barbara W. Tuchman (Hai lần được giải thưởng
Pulitzer, tác giả Distant Mirror, Guns of
August, Bible and Sword…); 5 cuốn sách của
Malachi Martin: The Vatican, The Final
Conclave, Hostage to the Devil, The Jesuits, The
Keyes of this Blood (Malachi Martin là mợt
thần học gia Tòa Thánh La Mã, linh mục dòng
Jesuit, giáo sư tại Vatican’s Pontifical
Biblical Institute, ông rất gần với Hồng Y
Augustin Bea và Giáo Hoàng John XXIII); The
Oxford Dictionary of Popes của J.N.D. Kelly;
The Crusades của Henry Treece; In
Spanish Prisons của Major Arthur Griffiths;
Inquisition: Hammer of Heresy của
Edward Burman; A Crisis of Conscience của
Dr. Hugh K. Barber, MD (Bác sĩ Baber là giáo sư
y khoa tại Đại học Cornell, tác giả trên 400 bài
viết khoa học và trên 200 cuốn sách. Năm 1991,
tờ báo New York Magazine bầu ông là một
trong số “best doctors in New York”); A
History of Philosophy (9 cuốn) của Federi
Copleston, S.J; A History of Western
Philosophy của Bertrand Russel; đại tác phẩm
The Story of Civilization (11 cuốn của sử
gia Will Durant); The History of the English
speaking peoples của Winston Churchill; A
Study of History (12 cuốn) của Arnold
Toynbee (đại sử gia của Hoàng Anh Quốc);
History of the World (2 cuốn) của 25 tác
giả, do Bonanza xuất bản, Dictionary of Wars
của George C. Kohn để biết Chiến Tranh 30
năm, vài chục chiến tranh tôn giáo; và đừng quên
đọc thêm New Catholic Encyclopedia của
The Catholic University Press of America,
Wasghinton D.C..
Tôi xin trích dẫn
phần kết luận về đề tài Inquisition, trang 541,
cuốn 12 (trong số 18 cuốn của New Catholic
Encyclopendia) của bộ sách nói trên như sau:
“Judged by contemporary standards, the
INQUISITION, especially as it developed in Spain
toward the close of the Midle Age, can be
classified only as one of the darker chapters in
the history of the Church”. Xin tạm dịch là:
“Được phán xét theo tiêu chuẩn đương thời,
INQUISITION - Tòa Án Tôn Giáo (có người dùng tòa
án dị giáo) đặc biệt khi nó phát triển tại Tây
Ban Nha vào gần cuối thời Trung Cổ, chỉ có thể
xếp là một trong những trang sử đen tối lắm
trong lịch sử của Giáo Hội”.
34.
Lời phát biểu của
Giáo Hoàng John Paul II: “Everyone who looks
for salvation, not only the Christians, must
stop before the Cross of Christ” (Trang 73)
(xin tạm dịch là: Tất cả mọi người đi tìm sự cứu
rỗi, không phải chỉ có người theo Kitô Giáo,
phải ngừng trước Thánh Giá của Đấng Kitô). Có lẽ
vì câu tuyên bố này mà Luật sư Phổ đưa ra cái
thần thuyết “đầu gà đít vịt”. Lại nữa, trang 85,
Giáo Hoàng nói: “Nevertherless, it needs to
be said right away that the doctrines of
salvation in Buddhism and Chritianity are
opposed” (Xin tạm dịch là: Dầu sao đi nữa,
cần phải nói ngay là chủ thuyết cứu rỗi của Phật
giáo và Kitô giáo đối chọi nhau). Cái tội Tổ
Tông từ Adam và Eve nó truyền nhiễm từ đời này
sang đời khác, xâm nhập linh hồn của con người,
nên con người phải ngừng trước thánh giá để được
cứu rỗi (?).
35.
Tôi không có ý
kiến gì về doctrine of the father’s sins của
KTG. Lãnh vực này thuộc về Đức tin, tin là có
tội do ông cha ta kể lại, tin là Chúa sẽ tha
tội. Mà đã là Đức tin, ta không thể bàn cãi. Văn
nhân thi sĩ tin là trên Nguyệt Hằng có Thằng
Cuội Ngồi Gốc Cây Đa. Thi sĩ cứ làm thơ, văn
nhân cứ sáng tác, độc giả vẫn cứ thích thú đọc
và phi hành gia cứ đổ bộ xuống mặt trăng. Người
ta tin ngày 23 tháng Chạp Ông Táo lên chầu Trời
tâu lại Ngọc Hoàng những chuyện hỉ nộ ái ố trên
thế gian. Người ta vẫn tin có thần tài phù hộ,
các cửa tiệm có thờ ông Thần Tài ngay ngoài cửa,
miệng ngậm điếu thuốc lá, tay cầm đồng đô la.
Người ta tin hóa vàng để người dưới âm phủ có
tiền trả tiền “biu” dưới âm phủ. Mở đài truyền
hình ra coi thấy hai võ sĩ Mễ, trước khi thi đấu
đều làm dấu rồi nhắm mắt cầu nguyện. Một lúc sau
một võ sĩ chảy máu mồm máu mũi ngả lăn đùng
xuống sàn. Ta cũng thấy hình ảnh tương tự trong
các trận đấu Boxing, hai võ sĩ Thái Lan múa may,
làm bùa làm phép gì đó, khoảng phút một ông ngã
lăn cu chiêng xuống đất. Họ tin có Đấng thần
linh phù hộ. Nhưng nếu nhà thơ hay văn nhân quả
quyết trên mặt trăng có thằng Cuội Ngồi Gốc Cây
Đa thì phi hành đoàn của Phi thuyền Apollo sẽ
bước tới và nói: “Hey man, wait a minute.
We’ve just come back from there”. Đã là đức
tin, không thể bàn cãi. Tuy nhiên không thể cho
đức tin của mình là sự thật và bắt người khác
tin theo.

Phật giáo quan
niệm trong mỗi chúng sinh khi ra đời đều có sẵn
Phật tính, đã có tội gì đâu mà cứu. Nếu cá nhân
nào mang cái nghiệp xấu là do chính con người đó
tạo ra. Cha tạo nghiệp xấu, cha chịu. Con tạo
nghiệp tốt con hưởng, tức là “quýt làm, quýt
chịu” và không có vấn đề “quýt làm cam chịu”. Sự
việc “nghiệp” và “quả” của người cha và người
con khác nhau, hoàn toàn không can dự vào nhau.
Vì Phật giáo không quan niệm có tội tổ tông, nên
không có vấn đề cứu rỗi. Mà đã không có cứu rỗi
thì lấy gì để so sánh. Thuyết giải thoát khác
hẳn với thuyết cứu rỗi. Đã khác nhau thì không
thể so sánh. Vì thế tôi gọi thần thuyết cứu rỗi
hay cứu chuộc gì đó của Luật sư Phổ là thần
thuyết “đầu gà, đít vịt”, tức là trước sau chẳng
ăn nhằm gì với nhau cả.
36.
Có điều tôi không
tin những phát biểu về Phật giáo là do chính
Giáo Hoàng nói mà do Hồng Y Joseph Ratzinger.
Đây là lập luận của tôi, có thể Luật sư không
đồng ý: vào năm 1139, Công Đồng Lateran II đòi
hỏi Tòa thánh truy tố những kẻ theo tà đạo
(heresy), mà hình phạt là rút phép thông công,
trục xuất ra khỏi giáo hội và bị nguyền rủa.
Giáo Hoàng Alexander III bổ túc thêm ra lệnh cầm
tù và tịch biên tài sản (1162-1163). Tiếp theo
đó là các thông điệp Ad abolendam (1184),
Vergentes in senium (1199), Excommunicamus
(1231), Ille humani generis (1231), Ad
exstirpanda (1252), v.v… Tòa án tôn giáo,
Inquisition, phát triển mạnh tại Tây Ban Nha, và
nhiều nước khác. Hình phạt: cả thể xác (tra tấn,
cầm tù, tử hình) lẫn tinh thần (nguyền rủa). Tòa
thánh tránh xử tử hình gây máu chảy, thay thế
vào lối xử tử hình này bằng cách châm lửa đốt
nơi công cộng sau khi đọc tố trạng sermo
generalis. Điển hình nhất là cô gái gốc quê, 19
tuổi người Pháp, theo tiếng gọi của Thiên Sứ
Michael, dấy binh trừ giặc bị thiêu sống tại
thành Rouen. Đó là Jeanne d’Arc, trở thành St
Jeanne d’Arc.
37.
Người đi vào lịch
sử với chức vụ inquisitor general (tổng phán
quan tòa án tôn giáo, giống như chánh thẩm)
không ai khác hơn là Tomas de Torquemada
(1420-1498), một linh mục thuộc dòng tu
Dominican. Spanish Inquisition thành lập năm
1478 và được bãi bỏ năm 1834. Ông đóng vai chủ
động trong việc trục xuất người Do Thái ra khỏi
Tây Ban Nha năm 1492. Để đương đầu với sự ra đời
của Giáo Phái Tin Lành, Inquisition được trao
cho Holy Office năm 1542. Công đồng Vatican II
đổi tên thành Congregation for the Doctrines of
Faith (1965). Những trang sử đen tối của Tòa
thánh được khép lại sau nhiều thế kỷ làm điên
đảo thế giới.
Năm 1985, Giáo
Hoàng John Paul II bổ nhiệm Hồng Y Joseph
Ratzinger đứng đầu Congregation for the
Doctrines of Faith, và Latin American Bishops’
Conference (viết tắt là CELAM) có cùng địa chỉ
và văn phòng. Chủ thuyết của Congregation for
the Doctrines of Faith đưa ra làm các giám mục
khắp nơi lẫn lộn. Các vị này không biết nhiệm vụ
rõ ràng và biên cương của sự truyền giảng Phúc
Âm. Giáo Hoàng John XXIII cho tổ chức Công Đồng
Vatican II để lắng nghe tiếng nói từ nhiều phía
ngõ hầu xây dựng một giáo hội tốt lành hơn, hiệp
nhất hơn. Sau 30 năm chưa một bước tiến khả quan
nào được ghi nhận. Tới đây ta có thể hiểu cái
“state of mind” của Tòa thánh.
GH
J.P. II và Hồng y Ratzinger
Tiếng nói của
những người có tinh thần xây dựng đã biến họ
đứng vào chiến tuyến đối nghịch với Tòa thánh,
điển hình như các nhà thần học Hans Kueng,
Charles Curran, Edward Schillebeeckx, Jacques
Pohier, William Callahan (dòng Jesuit), cha
Terry Sweeny, Tổng giám mục Raymond Hunthausen,
sister Teresa Kane… Tờ US News & World Report
phát hành ngày 17 tháng 11, 1986 chạy một
bài với đề tựa “The Pope Cracks Down on American
Bishops”. Thần học gia Hans Kung, bị trục xuất
ra khỏi chức vụ giảng dạy, kết hợp với một số
thần học gia khác đưa ra một cuốn sách nhan đề
là Church in Anguish – Has the Vatican
Betrayed Vatican II? Để đàn áp sự chống đối,
Giáo Hoàng John Paul II tuyên bố: “One cannot
believe in Christ without believing in the
Church, the body of Christ”. Xin tạm dịch
là: “Một người không thể tin ở Đấng Kitô nếu
không tin vào Hội Thánh, thân thể của Chúa
Kitôi”.
Nhưng thần học
giải phóng (liberation theology) vẫn phát triển
mạnh tại Nam Mỹ Châu. Vào năm 2000, 70% tín đồ
sẽ nằm ở Đệ Tam Thế Giới. Năm 1973, lần đầu tiên
thần học giải phóng chính thức được Gustave
Gutierrez nói tới. Nhóm nghiên cứu Thần Học và
Hội Thánh được thành lập tại Peru, mà hai nhân
vật tích cực là Leonardo Boff và Juan Segundo.
Trong cuốn A Crisis of Conscience, trang
152, tác giả, Bác Sĩ Barber nói: “Liberation
Theology is a worldwinde manifestation for human
emancipation”. Xin tạm dịch là: “Thần học
giải phóng là một sự thể hiện trên khắp thế giới
cho sự thoát quyền của con người”. Thần học giải
phóng không đặt trọng tâm vào thần học mà là
giải phóng, bắt nguồn từ tư tưởng của những
người viết sách Exodus trong Cựu Ước.
Vào thế kỷ 15, một
linh mục dòng Dominican là Bartolomé de Las
Casas (1474-1566) đứng lên chống lại bọn
conquistadors đi tìm vàng để giải phóng cho
người Da Đỏ. Thừa hưởng tinh thần Inquisition
thời Trung Cổ, Hồng Y Joseph Ratzinger, đứng đầu
Congregation for the Doctrines of Faith, đã đóng
góp rất nhiều vào cuốn sách Crossing the
Threshold of Hope, một loại “bút vấn - bút
đáp” giữa Giáo Hoàng và ký giả Messori. Hồng Y
Ratzinger không nghe được tiếng nói của Giám Mục
Hoa Kỳ, Nam Mỹ Châu, các nhà thần học của Hội
Thánh, thì làm sao hiểu nổi được Phật giáo là
gì. Nếu nói Giáo Hoàng “phỉ báng” hay nói sai về
Phật giáo có lẽ không chính xác. Chúng ta phải
hỏi lại Hồng Y Joseph Ratzinger thì rõ
hơn.
38.
Làm sao sống hòa
đồng trong cộng đồng thế giới? Chỉ còn vài năm
nữa chúng ta bước sang một thế kỷ mới. Thế giới
phải có một “consensus”, trong đó có sự tương
nhượng (compromise), tương kính (mutual respect)
và nhất là tôn giáo đa nguyên (religious
pluralism). Trên thị trường sách trong vài tuần
lễ vừa qua, có xuất hiện một cuốn sách đề tựa là
The Jew In The Lotus của Roger Kamenetz.
Tác giả là một thi sĩ và giáo sư Anh ngữ tại
Louisiana State University. Đề tựa cuốn sách dựa
vào The Jewel In the Lotus (Một viên ngọc
quý trong bông sen). Trong cuốn sách ông đưa ra
những cảm nghĩ của người Do Thái trải qua biết
bao thế kỷ lưu đày mà vẫn giữ được đạo để san xẻ
với Phật giáo Tây Tạng sau mấy chục năm bị đàn
áp bởi Trung Cộng. Cuốn sách tường thuật lại
cuộc gặp gỡ giữa Đức Lạt Ma và 8 vị Rabbi người
Do Thái. Họ thấy giữa Do Thái Giáo và Phật giáo
Tây Tạng cùng chung những trớ trêu của lịch sử,
họ thấy gần gũi nhau hơn. Hai bên đều “giác ngộ”
(enlightened) trước hoàn cảnh lịch sử đau thương
phủ lên tôn giáo họ.
Kitô Giáo và Phật
giáo Việt Nam cũng có chung một định mạng lịch
sử trong mấy chục năm chiến tranh. Biết bao
nhiêu nhà thờ bị đỗ nát, tượng Phật bị bắn thủng
mắt, biết bao nhiêu tín đồ hai tôn giáo quằn
quại trong trại cải tạo, biết bao nữ tín đồ phải
chịu ô nhục ngoài biển cả trên con đường tranh
đấu đòi tự do, tôn giáo là thành trì và vũ khí
cuối cùng. Thành trì bị chọc thủng, vũ khí bị rỉ
sét, quân sĩ chia rẽ, liệu chúng ta có thể tạo
được chiến thắng sau cùng hay không? Hẳn là
không. Đạo của ai người nấy giữ. Đức tin của ai
người nấy theo. Một Giáo Hoàng, một Hòa Thượng
hay bất cứ người nào trong chúng ta chưa đủ căn
cơ để phê phán các Đấng Giáo Chủ và Tín Lý của
các Ngài đã tồn tại mấy ngàn năm nay.
39.
Nhà bác học Albert
Einstein nói: “The religions of all civilized
peoples, especially the peoples of the Orient,
are primarily moral religions. The development
from a religion of fear to moral religion is a
great step on peoples’ lives.” (xin tạm dịch
là: Những tôn giáo của những dân tộc văn minh,
đặc biệt là những dân tộc của Đông Phương, chính
yếu là những tôn giáo dạy luân lý. Sự phát triển
từ tôn giáo lấy căn bản là sự sợ hãi sang tôn
giáo dạy luân lý là một bước tiến vĩ đại trong
đời sống của các dân tộc). Ông nói tiếp: “There
is nothing divine about morality; it is purely
human affair”. (Xin tạm dịch là: Chẳng có gì
là thiêng liêng trong vấn đề luân lý cả; đó chỉ
là công việc của con người). Ông lại nói tiếp: “Science
without religion is lame, religion without
science is blind” (Xin tạm dịch là: Khoa học
không có tôn giáo là khoa học què quặt, tôn giáo
không có khoa học là tôn giáo mù quáng). (Trích
trong Ideas and Opinions, Dell
Publishing, Inc. 1954). Tôn giáo mà nhà bác học
Albert Einstein nói ở đây là thứ tôn giáo dạy
luân lý (moral religion), chứ không phải tôn
giáo lấy sự sợ hãi (religion of fear) của tín đồ
làm phương tiện. Chỉ có “moral religion” mới là
thứ tôn giáo đích thực của thế kỷ 21, mà thế
giới mong đợi.

Albert Einstein
(1947),
Con người hiện đại
quá chán ghét những gì gò bó, khuôn mẫu lỗi
thời. Con người cần được giải phóng toàn diện
trong phạm vi đạo đức. Thần quyền hình như không
còn hợp với nếp sống tâm linh của con người nữa.
Trí óc con người đã phát triển, mọi điều thiếu
hợp lý, thiếu hợp tình, thiếu công bằng, bóp
chẹt sự phát triển con người toàn diện sẽ không
còn chỗ đứng. Vì thế tôi rất thích thần học giải
phóng (liberation theology) của các vị linh mục
Nam Mỹ Châu, đang thịnh hành trong Đệ Tam Thế
Giới, chiến 70% số tín đồ của Giáo Hội La Mã vào
năm 2000.
Vài hàng góp ý với
Luật Sư Phổ, người viết mong có một sự đả thông
tư tưởng. Vì phạm vi bài viết không cho phép nói
nhiều hơn. Chúng ta đều ngập lụt trong cõi “u
minh”, nên có thể có những hậu quả không tốt.
Tôi hân hạnh trích lời của Hòa Thượng Thích Mật
Thể trong Thế Giới Quan Phật giáo, trang
15: “Muốn tìm hiểu chân lý, trước hết ta phải
thành thật với ta, và chớ coi mình là trung tâm
điểm của vũ trụ hay lấy mình làm thước đo người
chẳng hạn. Phải coi bản ngã của ta, nó có thể
biến hóa rất nhiều cách, hòng phỉnh phờ ta vào
con đường sai lạc. Ta không nên chiều theo nó
quá, phải ngược dòng lại, dẹp hết lòng ích kỷ
nhỏ hẹp, tính tự kiêu mê lầm, cùng phê phán lý
thuyết này với chủ nghĩa nọ, và mở rộng lòng ta
để đón lấy cái có ích cho nhân loại trên mục
đích xây dựng hạnh phúc chân chính thiện mỹ”.
Ra tòa hàng ngày,
chắc Luật Sư thường nghe “… to tell the truth,
the only truth, the whole truth, nothing but the
truth, so help me God”. Truth will prevail. Khi
đặt bút viết bài này, tôi luôn nghĩ có rất nhiều
vị linh mục Kitô giáo uyên bác kinh điển Phật
giáo, cũng có những vị cao tăng thấu hiểu thánh
kinh và thần học. Tôi ví kiến thức và đức độ các
ngài như ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn, kiến thức của
tôi về hai tôn giáo chỉ là một cọng cỏ bên khe
suối. Những gì tôi viết ra dựa vào những tài
liệu có sẵn, nếu độc giả đòi hỏi, tôi xin dẫn
chứng.
Vừa viết tới đây,
tôi nghe tiếng chuông đổ từ ngôi nhà thờ của
người Châu Mỹ La Tinh cách đó một dặm vọng qua
cửa sổ. Vừa đọc xong 2 cuốn Apology của
Plato và Zenephon, tôi phải viết bài này nên tôi
tạm ngưng đọc The Clouds của Aristophane,
bây giờ trở lại đọc tiếp.
Kính chào Luật Sư
Phạm Văn Phổ.
Hoàng Hà Thanh
Los Angeles, California
Posted in: Tôn Giáo
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét