Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014

VỀ NỖ LỰC BÀO CHỮA CHO GIÁO HOÀNG JOHN PAUL II CỦA MỘT TÍN HỮU KITÔ RÔMA



Hoàng Hà Thanh












PHẦN I
 





   1. Sau khi đọc bài “Scholars Cite Lack of Resurrection Evidence” trong mục Religion, Los Angeles Times phát hành tại Los Angeles ngày thứ bảy, 11 tháng 3, 1995, tôi xuống nhà xem thùng thơ, nhận được tờ Người Việt gửi đến và hân hạnh đọc được bài “Có Sự Ngộ Nhận Về Lời Phát Biểu Của Đức Giáo Hoàng Liên Quan Đến Phật giáo Trong Cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng?” đăng trên báo Người Việt, trang Diễn Đàn, ngày 2 tháng 3, 1995, mà tác giả là Luật Sư Phạm Văn Phổ, chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Bài này đăng lại bài cùng tên đã đăng trên Hiệp Nhất, tháng 3, 1995. Trọng điểm của bài báo này không gì khác hơn là Luật Sư Phổ đóng vai một “apologist” hay “advocate” cho cái gọi là “ngộ nhận” về việc Giáo Hoàng “phỉ báng” Phật giáo.

   Bài viết này nhằm góp ý với Luật Sư Phổ về mấy trọng điểm sau đây: vô thần, giải thoát và cứu rỗi, sự sai lầm của Giáo Hoàng John Paul II. Sự nhận định sai lầm của Luật Sư Phổ, một tín đồ, bắt nguồn từ sự sai lầm to lớn của Giáo Hoàng về Phật giáo, vị giáo chủ của tôn giáo ông.



2. Ngày 22 tháng 10, 1994, cuốn Crossing the Threshold of Hope của Giáo Hoàng John Paul II được phát hành tại nhiều tiệm sách, tôi tìm mua, đọc và viết xong bài giới thiệu cuốn sách vài ngày sau. Khi đọc kỹ cuốn sách nói trên, đặc biệt phần nói về Đức Phật, tôi nhận thấy Giáo Hoàng đã có rất nhiều nhận định sai lầm về Phật giáo. Theo nhãn quan của tôi, sự sai lầm này có thể do hai nguyên do: thiếu hiểu biết về một tôn giáo lớn của nhân loại đã ra đời cách đây hơn 25 thế kỷ và đang trên đà phát triển mãnh liệt trong giới trí thức Tây Phương, hay cố tình nhận định sai lạc có ác ý và nhồi sọ tín đồ của ông với những điều không tốt về Phật giáo, một tôn giáo sẽ được tôn kính ở Tây Phương vào thế kỷ 21 trong khi KiTô Giáo KTG (Christianity) thuộc giáo hội La Mã (Catholic) rời bỏ Tây Phương để phát triển ở Đệ Tam Thế Giới với trình độ trí thức thấp kém. Lúc đó tôi chỉ viết vài bài giới thiệu sách vì sách còn quá mới mẻ đối với các tín đồ của ông và đọc giả khác, nên việc phê bình tạm gác cho tới khi có số đọc giả tạm đủ đọc bài phê bình những sai lầm của tác giả.

 


Giáo hoàng Gioan Phaolồ II (1920-2005),
người đã thú nhận hơn 100 tội lỗi của Giáo hội Công giáo La Mã
.


 

3. Đề tựa cuốn sách là Crossing the Threshold of Hope có thể dịch bằng nhiều cách sang Việt Ngữ. Sau khi thử dịch nhiều cách, tôi chọn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, để hy vọng lột được ý của tác giả muốn nói lên ưu tư về sự lung lay của giáo hội vì số tín đồ đi dự thánh lễ càng ngày càng ít, số người đi tu càng ngày càng ít, số người rửa tội tăng chậm hơn mức gia tăng dân số trong giới tín đồ, nhất là những nữ tu sĩ vì tòa thánh Vatican luôn luôn coi nhẹ hàng nữ tu. Muốn hiểu rõ hơn xin đọc History of God của giáo sư Karen Armstrong (nguyên nữ tu sĩ) và A Crisis of Conscience của bác sĩ Hugh R. K. Barber (nguyên là một tín đồ thuần thành), đọc các nhà thần học giải phóng (liberation theology), như Gustavo Gutierrez, Leonardo Boff, Juan Segundo, Batolomé de Las Casas, John Federick Denison Maurice, Dietrich Bonhoeffer, Saul D. Alinsky, các "encyclical letters" (của các Giáo Hoàng) quan trọng như Rerum Novarum của Giáo Hoàng Leo XIII, Qua esimo Anno của Giáo Hoàng Pius XI, Mater et Magistra của Giáo Hoàng John XXIII, đặc biệt tài liệu Rockefeller Report of 1969 (một bản tường trình do cơ quan RAND Corporation ở Santa Monica soạn) với nhan đề là Latin America Institutional Development: The Changing Catholic Church. Bản tường trình này nói lên sự xung đột giữa tòa thánh Vatican và các hàng giáo phẩm của toàn vùng Châu Mỹ La Tinh. Người đọc có thể hiểu bằng hai cách "bước qua ngưỡng cửa hy vọng từ tuyệt vọng sang hy vọng hay từ hy vọng sang tuyệt vọng". Dù hiểu theo cách nào, người ta cũng mường tượng thấy cái lúng túng của Tòa Thánh. Cách dịch của tôi cũng được một nhóm tín đồ dịch cuốn sách của Giáo Hoàng chọn làm đề tựa cho bản tiếng Việt.



4. Vị Trí Của Người Viết: Để tránh những hiểu lầm có thể xảy ra sau khi bài này được đăng tải. Có người sẽ nói bài này viết ra để "bênh" Phật giáo hay tồi tệ hơn nữa, để ... "phá thối". Tôi viết bài này trên cương vị một người nghiên cứu đạo giáo, Phật giáo, Kitô Giáo, Hồi Giáo, Kỳ Na Giáo, Do Thái Giáo... Tôi không quy y với bất cứ một cố Hòa Thượng X, tôi không phải là Phật tử của Thầy Y, tôi không phải là hội viên của ban hộ niệm chùa Y, và chưa bao giờ là thành viên của tổ chức Phật giáo Z nào từ trước đến nay. Đối với hầu hết Chư Tăng và Phật Tử tại đây, tôi là một người hoàn toàn xa lạ... Tôi chỉ là môn sinh của Triết Lý Đấng Thích Ca. Đơn giản có vậy. Tất cả ý kiến trong bài này là của tôi, không hội ý với bất cứ người nào ngoài việc rút tỉa những điều hiểu lấy ra từ  sách vở tôi đã đọc. Đạo lý nào hay, triết lý nào thâm sâu tôi học hỏi, suy ngẫm. Tôi theo 6 điều cuối của Mười Điều Giáo Lệnh nói trong Cựu Ước, tôi theo Thập Thiện Kinh trong kho tàng kinh điển Phật. Tôi suy ngẫm Tứ Diệu Đế và thực thi đúng đắn Bát Chánh Đạo. Không có một cái gì đứng sau bài viết. Tôi cũng không phải là bạn chí thân của bất cứ tờ báo, tạp chí nào. Các vị chủ nhiệm, chủ bút những tờ báo hay tạp chí đăng tải bài viết (không tiền nhuận bút) của tôi hay không là do quyết định của các vị đó. Việc đăng tải hay không nằm ngoài tầm tay của tôi. Tôi chỉ xin một điều, nếu đăng tải bài viết của tôi, khi có lời phê bình hướng về tôi, cho tôi cơ hội đăng bài trả lời theo đúng tinh thần dân chủ. Mục đích của tôi là trình bày với độc giả một ý kiến cá nhân dựa vào những dữ kiện có đầy rẫy trong sách, báo, tài liệu có sẵn trong các thư viện. Việc kiểm chứng những điều tôi đưa ra không phải là một việc làm khó khăn.

Mọi sự phê bình xin hướng thẳng về cá nhân tôi. Những lời phê bình của người đọc sẽ soi sáng trí tuệ của tôi. Tôi xin đa tạ trước. Tôi không hy vọng độc giả đồng ý tất cả những gì tôi viết. Các tín đồ Phật giáo không cần tôi viết bài trả lời vì Phật giáo chủ trương không “chấp ngôn”, “chấp ngữ” và luôn luôn chủ trương “lục hòa”. Phật giáo chủ trương tạo “thiện nghiệp”, không bao giờ tạo “ác nghiệp” cả. Vậy Phật giáo cần gì tới bài viết này của tôi. Tôi giới thiệu sách của Giáo Hoàng không phải vì tôi là tín đồ KTG, tôi viết bài này cũng chẳng phải vì tôi là tín đồ Phật giáo. Tôi viết vì có những nhận định sai lạc về Phật giáo từ phía Giáo Hoàng John Paul II. Hơn 2,500 năm, Phật giáo, theo chứng tích lịch sử, vẫn đi song hành với những nguồn tư tưởng khác, không có một cuộc đổ máu nào xảy ra. Điển hình như tại Trung Hoa: Lão Giáo, Khổng Giáo và Phật giáo đi song hành. Tại Việt Nam, Chùa Một Cột, bên cạnh Vườn Bách Thảo được xây cất cách đây cả 10 thế kỷ, biểu tượng cho Tam Giáo Đồng nguyên.



5. Theo tôi hiểu, Luật Sư Phổ viết bài báo nói trên không ngoài mục đích là “defuse” một vài căng thẳng mới chớm nở. Theo triết lý nhà Phật, thì việc làm của Luật Sư Phổ mang cái “Tâm Phật” trong đó. Nhưng ai cũng biết “Vô Minh” đưa đến phiền não. Tại Hoa Kỳ, cultural awareness, religious awareness được huấn luyện cho mọi giai tầng công nhân, cũng như trí thức và mọi giai tầng công dân. Nhưng rất tiếc, tôi không thấy điều này ở Luật Sư Phạm Văn Phổ.



6. Lối lập luận trong bài viết này tôi học được của St Thomas Aquinas. Trong bộ thần luận Summa Theologiae, một đại tác phẩm thần học, mà một số người quen thuộc với hệ thống tiếng Pháp biết dưới tên St Thomas d’Aquin, đưa ra 5 cách lập luận để cuối cùng chứng minh có Thượng Đế. Năm cách này, Five Ways (Quinque Viae), mà tôi xin tạm dịch là “Ngũ Cách” hay “Ngũ Đạo”. Ông lấy sự việc A làm “moving cause” để lập luận tới B, từ B sang C, từ C sang D, từ D sang E, tức là Thượng Đế. Tất nhiên lối lập luận không đi đến vô tận mà tới bậc thứ 5 “finality” là hết, nghĩa là Thượng Đế là bậc cuối cùng. Bất cứ ai đọc St Thomas Aquinas phải công nhận đây là lối lập luận thần diệu.



7. Nếu nói “Công” thì phải có “Tư”, hay nói khác hơn những tôn giáo khác không phải là “Công giáo” chỉ là “Tư Giáo” hay “Tôn Giáo Không Chính Thức” như Phật giáo, Cao Đài Giáo, Hồi Giáo... có mặt trong Cộng Đồng Việt Nam? Nếu chữ Catholic mà Luật Sư dịch là “Công”, tôi xin lỗi vì hiểu sai ý Luật Sư. Tại Việt Nam trước đây, nhiều người dùng sai chữ “Lương” trong lúc phân biệt giữa người theo Kitô giáo và người không theo Kitô giáo. Người ta thường nghe nói “Lương” và “Giáo”. “Lương” là lương thiện, thế “Giáo” không lương thiện hay sao? Sự sai lầm cứ tiếp diễn, cho tới lúc dùng theo thói quen mà không hiểu ý nghĩa ban đầu mà người ta dùng với ý nghĩa chê bai.

Cũng như Chúa Giêsu Kitô không sinh vào ngày 25 tháng 12 đầu tiên của Kỷ Nguyên Thiên Chúa (Christian Era) hay có người gọi là Công Nguyên (Common Era), Tây Nguyên (Western Era), Tây Lịch (Western Calendar), và mới nhất Hiện Đại (Present Era). BC (Before Christ) và AD (Anno Domini) được ông Dionysius Exiguus, một tu sĩ vào thế kỷ thứ 6, dùng lần đầu tiên năm 533. Chúa Giêsu Kitô được sinh ngày 1 tháng 3 năm thứ 7 trước công nguyên. Tính đến thời gian hiện tại, Chúa Giêsu Kitô đã sinh cách đây 1995 năm + 7 năm = 2002 năm rồi (theo chứng tích khảo cổ và Thánh Kinh, và sách Luke 1:56). Nhưng sự sai lầm này vẫn tồn tại trên 15 thế kỷ. Ta dùng theo thói quen, không biết là sai, vì không còn ai biết nó sai nữa. Một thí dụ nữa, Chúa dựng nên trời đất và con người trong 6 ngày. Ngày thứ bảy phải nghĩ (Sabbath). Ai làm việc là phạm tội. Ấy thế mà khu phố Bolsa rất tấp nập kẻ mua người bán vào ngày thứ bảy (7th day). Có khi có người bán quà bánh, nước uống trước cửa nhà thờ vào ngày thứ bảy, có ai biết là làm sai lời Thánh Kinh đâu. Xin độc giả đọc lại Thánh Kinh sẽ rõ. Những hàng chữ vẫn còn đó. Làm ngày làm đêm, làm thêm chủ nhật còn chưa đủ sống, huống chi là nghỉ một ngày. Hơn nữa, người Do Thái, tín đồ Tin Lành, Hồi Giáo không đồng quan điểm với tòa thánh coi ngày thứ bảy (7th day) rơi vào Ngày Thứ Bảy (Saturday). Ngày thứ 7 này có thể là Thứ Sáu (Friday) hay Thứ Tư (Wednesday), mặc dù tất cả đều chiêm ngưỡng Cựu Ước.



8. Buổi sáng ta thấy mặt trời mọc phương Đông, trưa trên đỉnh đầu, chiều hạ xuống phương Tây. Ta có cảm tưởng quả đất phẳng và đứng yên một chỗ, mặt trời quay quanh trái đất. Tòa thánh Vatican cho rằng trái đất phẳng, đứng yên một chỗ và là trung tâm của vũ trụ. Tín đồ cứ hiểu như vậy cho tới khi ông Galileo nói rằng trái đất tròn và quay quanh mặt trời. Ông đã trả một giá quá mắc, bị tù chung thân vào lúc tuổi già. Bốn trăm năm sau Tòa thánh mới công nhận là lầm lẫn và hủy bỏ bản án. Còn rất nhiều trường hợp khác như Jeanne d’Arc, Martin Luther, Darwin, Cha dòng tên Pierre Teillard de Chardin… đọc lại lịch sử để rút tỉa những bài học quý báu. Rất tiếc luật sư Phạm Văn Phổ hình như quên những trang sử đen tối đó. Ta thường nghe nói “Vô minh gây phiền não”. Nhận định sai lầm của Giáo Hoàng John Paul II có lẽ sẽ được làm sáng tỏ khi tòa thánh có một vị Giáo Hoàng mới, với tư tưởng cởi mở và thân thiện hơn.



9. Việc Trích Dẫn Không Cần Thiết: Để lập luận rằng Giáo Hoàng không có ý “phỉ báng” Phật giáo, Luật Sư trích dẫn lời nói của ông Toan Ánh và Thu Giang Nguyễn Duy Cần. Sự trích dẫn này không phải là một “Affimative defense”, nên theo tôi, nó “irrelevant”. Tôi rất thất vọng khi đọc lời trích dẫn trong sách thay vì đưa ra những tài liệu, lời phát biểu hay việc làm để chứng minh như giám mục Colombo chuyển lời xin lỗi của Giáo Hoàng đến các vị sư Phật giáo phản đối và dọa tự thiêu về những điều viết ra trong sách của Giáo Hoàng chẳng hạn. Thí dụ như Giáo Hoàng tiếp và kết thân với Đức Đạt Lai Lạt Ma (được giải thưởng hòa bình Nobel, 1989, trong khi Giáo Hoàng John Paul II lại bị ám sát hụt nhiều lần) tại tòa thánh. Cái “defense strategy” của Luật Sư quá dở. Uy tín của Ông Toan Ánh và Thu Giang Nguyễn Duy Cần không đủ mạnh, so với uy tín của Giáo Hoàng. Tôi có thể cam kết Giáo Hoàng không cố ý “phỉ báng” Phật giáo. Ông được tín đồ coi là một bậc đại nhân, ông không thể có cái tâm của kẻ phàm phu. Đặt vấn đề “phỉ báng” ở đây là đặt sai vần đề (out of context). Nếu nói Giáo Hoàng không hiểu rõ triết lý Phật giáo thì đúng hơn, có lẽ vì ông quen với thần học hơn là triết học Đông Phương. Việc làm của Luật Sư Phổ có thể được hiểu là làm giảm uy tín của Giáo Hoàng. Nếu biết Zen Thinking (tức là suy nghĩ trong sáng, tinh tấn và trung thực) trước thì sự suy nghĩ của Luật Sư trong sáng hơn.






PHẦN II
 





10. Cây Thánh Giá và Cội Bồ Đề: Theo tôi nghĩ, hai hình ảnh huyền diệu nhất của nhân loại là cây Thánh Giá và Cội Bồ Đề. Chúa Giêsu Kitô sinh ra trong một hang đá lạnh lẽo. Ngày 1 tháng 3 năm 7 trước Kỷ Nguyên Thiên Chúa. Cái nôi của Ngài là một máng lừa. Ngài giảng đạo trong vài ba năm (tích cực nhất, khoảng vài tháng, theo Thánh Kinh và Dead Seas Scrolls tìm thấy năm 1947, 1949 và 1952), trong vùng đất cằn cỗi dưới áp lực đòi quy phục của người Do Thái. Rồi ngài bị đóng đinh trên thánh giá để chuộc tội cho tín đồ, ba ngày sau Ngài sống lại, và 40 ngày sau ngài về Nước Chúa ngồi bên tay phải của Đức Chúa Cha (theo Tân Ước). Một cái chết khủng khiếp, đau đớn cùng cực. Từ lúc sinh ra cho tới khi chết, Ngài chịu những đau khổ tột cùng mà con người không thể chịu nổi, Ngài gánh lên vai tất cả tội Tổ Tông của tín đồ, từ thời Adam và Eve, để cứu rỗi và mang lại thương yêu cho tín đồ. Một cái chết bi thảm nhất, một cái chết cực kì cao quý. Tín đồ của Ngài phải tin điều này trước bất cứ điều gì, nếu Ngài không bị đóng đinh, nếu Ngài không sống lại, thì tất cả tín lý đều vô nghĩa, và tất nhiên chủ thuyết cứu rỗi sẽ sụp đổ (theo Tân Ước). Trọng điểm của thuyết cứu rỗi nằm ở đó. Nhưng gần đây các nhà nghiên cứu moi móc chứng tích khảo cổ không chứng minh được sự sống lại (xem bài “Scholars Cite Lack of Resurrection Evidence” đăng trên Los Angeles Times ngày 11 tháng 3, 1995, đọc cuốn Jesus and the Riddle of the Dead Sea Scrolls của giáo sư Barbana Thierning, và những tài liệu về Dead Sea Scrolls).




Chúa Giê-xu


 

   Tất cả tín đồ KTG muốn được cứu rỗi chỉ có một con đường duy nhất là quỳ phục trước thánh giá. Chúa Giêsu Kitô sinh ra trong cảnh nghèo nàn, lạnh lẽo và chết thảm lơ lửng trên không. Âm thanh chát chúa của ba cây đinh trên thánh giá trên đỉnh Đồi Xọ và hình ảnh đầu của Ngài nghiêng sang một bên và máu tuôn ra từ thân thể Ngài và tiếng kêu vô vọng vẫn còn văng vẳng bên tai của tín đồ trong 2,000 năm nay: “… Xin Chúa Đừng Bỏ Tôi”. Là nguồn cảm hứng cho việc sáng tác nghệ thuật tuyệt vời, điển hình như Christ On The Mount Of Olives của Beethoven (âm nhạc), The Cruxifixion của Peter Paul Rubens và Christ On The Cross của El Greco (hội hoạ), La Pieta của Michelangelo (điêu khắc),… và cũng là nền tảng cho đức tin của tín đồ. Ngài sẽ trở lại lần nữa (Second coming) vào Ngày Phán Xét (Judgement Day) để mang người sống cũng như người đã chết ra trước mặt Ngài phán xét, ban thưởng hay trừng phạt. Ngài vừa là người buộc tội (accuser), vừa là phán quan (judge).

11. Một hình ảnh trái ngược, trước Chúa Giêsu Kitô trên 5 thế kỷ, tại Phương Đông, Thái Tử Tất Đạt Đa, từ bỏ ngai vàng, cung điện, vợ đẹp con khôn, ngọc ngà châu báu, lạc thú ở đời, trốn khỏi cung ngà điện ngọc, theo đuổi một cuộc sống theo lối khổ tu, đi tìm chân lý cho những nổi khổ đau của chúng sinh. Ngài theo hết vị thầy này cho đến vị thầy khác để học đạo, nhưng vẫn không tìm ra chân lý. Một hôm Ngài quyết định ngồi dưới gốc cây bồ đề, tham thiền trong 49 ngày, có lúc Ngài quá yếu sức phải đương đầu với biết bao quấy phá, thử thách, nhưng tới ngày thứ 49, vào lúc sao mai vừa mọc, Ngài chứng được đạo quả Bồ Đề. Ngài đã “giác ngộ”, tìm thấy chân lý. Một cuộc tham thiền nhập định vô tiền khoáng hậu, từ đó nảy sinh ra Thiền Tôn. Sau khi giác ngộ một cảm giác tột cùng của chân lý, không còn một cái gì cao hơn nữa. Ngài truyền đạo gần nửa thế kỷ khắp nơi. Ngài không phải là một vị thần, vị thánh gì cả, Ngài chỉ là một Vị Đại Sư, chỉ dẫn cho tín đồ một triết lý sống thoát khỏi khổ đau (sinh, lão, bệnh, tử) để tới Niết Bàn. Sau Ngài, các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni được tín đồ gọi là thầy, mà người thường gọi Ông Sư hay Bà  Sư, vì lý do đó.

12. Toàn bộ triết lý của Ngài chỉ gồm vẻn vẹn có 2 phần: Phần nhận định nỗi thống khổ của chúng sinh từ đâu mà ra và phương thức diệt trừ nguyên nhân của khổ đau (Tứ Diệu Đế) và phương châm hành động để đạt tới chân lý, hạnh phúc vĩnh cửu (Bát Chánh Đạo). Ngài là người lái đò đưa chúng sinh từ Bến Mê sang Bờ Đại Giác, tức là Niết Bàn. Niết Bàn là gì, nếu không phải là một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu, một trạng thái tâm linh trong sáng tột đỉnh, không có cái gì cao hơn nữa. Người đời tôn Ngài là Đấng Chí Tôn, Đấng Đại Giác, hay nôm na là Ông Phật, Ông Bụt. Mọi người hay nói rộng hơn chúng sinh, khi sinh ra đều có sẵn Phật tính. Ta chỉ cần phát triển Phật tính đó để thành Phật hay tính Giác Ngộ. Ai cũng có thể thành Phật. Trước Ngài đã có biết bao vị Phật, sau Ngài còn có nhiều vị Phật khác. Phật là gì? Phật có nhiều nghĩa: Tên vị khai sáng ra đạo Phật, và là một sự giác ngộ, thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, bể trầm luân u mê để đạt đến trạng thái hạnh phúc vô biên vĩnh cửu. Ngài chỉ cho nhân loại con đường đi, Ngài không phải là con đường, Ngài không “giải thoát” hộ cho ai, mà mỗi người tự “giải thoát” cho chính mình. Tín đồ quỳ gối dưới chân Ngài cũng vô ích, không thể thành Phật được.

13. Theo triết lý của Đấng Thích Ca, con người có tất cả tự do trong hành động của mình được nói tới trong Bát Chánh Đạo. Tạo nghiệp tốt, đạt quả tốt. Bát Chánh Đạo không phải là 8 giáo lệnh, 8 điều bắt buộc phải theo mà là những lời khuyên, là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống đạo đức, khổ đau do cái nghiệp xấu mà ta tạo ra, được ví như chiếc áo dơ bẩn tanh hôi ta đang mặc trên người. Ta ngồi cầu Phật, niệm Phật, cúng tiền vào Chùa, vào Tự mà vẫn mặc chiếc áo dơ bẩn tanh hôi đó, vẫn không tu thân, thì chẳng bao giờ “giác ngộ” được. Đức Phật chỉ cho ta cách cởi chiếc áo đó ra để cho thân thể được thanh tịnh, chân tâm được trong sáng, trí tuệ được tinh tấn như trí huệ Phật, ta mới thành Phật được. Cái triết lý cao thâm và vi diệu này được nhiều học giả Tây Phương sang Đông Phương nghiên cứu, học hỏi và mang về truyền bá cho mọi người. Đạo Phật xâm nhập vào Tây Phương không bằng con đường thuộc địa hay móc nối với chính quyền. Đạo Phật không có những đoàn truyền giáo đi sau đoàn quân viễn chinh. Mà du nhập vào Tây Phương qua mặt tư tưởng cao siêu, nói khác hơn Đạo Phật như một báu vật mang về từ Đông Phương.




Phật Thích Ca



14. Có lẽ vào thế kỷ 21, triết lý Đấng Thích Ca sẽ có một nền móng vô cùng vững vàng. Có “tám vạn pháp môn” giúp ta được “giải thoát”, tùy theo khả năng tu tập của mỗi cá nhân. Đạo Phật không đưa ra một tín lý chắc nịch, cứng nhắc, bắt buộc tín đồ phải theo. Nói khác hơn, có nhiều lộ trình khác nhau đưa ta đến “giải thoát”, tất nhiên cuộc hành trình không phải chỉ có “độc đạo”. Đạo Phật không bắt buộc, không gò bó tín đồ trong một khuôn mẫu hay tín lý cứng nhắc nào cả do Giáo hội từ trên đưa xuống. Theo hay không theo tùy ý mỗi cá nhân. Đạo Phật không có những tòa án tôn giáo hay tòa án dị giáo (như inquisition của tòa thánh Vatican) xét xử những ai nói trái với kinh điển nhà Phật. Trước khi tịch, Ngài truyền dạy tín đồ của Ngài có thể thay đổi kinh điển để thích nghi với việc truyền đạo. Nhưng sau 4 lần kết tập, kinh điển của Ngài không sửa một chữ và truyền lại trên 20 thế kỷ.

Đạo Phật chưa bao giờ, trong quá trình lịch sử trên 2,500 năm, và sẽ không bao giờ tịch biên tài sản, ngăn cấm không cho giữ những chức vụ công, lưu đày, cầm tù chung thân hay cột vào cây, chất củi đốt cho tới khi chết cháy nếu nói điều gì trái với giáo hội. Vì thế Đạo Phật còn gọi là Đạo Từ Bi. Ngay từ lúc khởi hành đi tìm đạo, ta cũng cảm thấy thoải mái, và đã cảm thấy hương vị “giải thoát”. Nam Tông, Bắc Tông hay tông phái Tây Tạng không chống đối nhau, chém giết nhau hàng chục năm, hàng trăm năm. Tất cả chỉ khác nhau ở cách tu luyện. Tại sao cách tu tập khác nhau, vì mỗi người có những khả năng tu hành khác nhau. Đức Phật đưa ra những phương thức khác nhau để hành giả tùy nghi áp dụng cho chính bản thân mình. Chúng ta hãy lấy một ví dụ. Ta đi từ điểm A đến điểm B, ta có thể đi bộ, ta có thể đi bằng xe hơi, đi bằng máy bay. Đấng Thích Ca chỉ cho ta cách sử dụng những phương tiện di chuyển khác nhau. Điểm A là Bến Mê, điểm B là bờ Đại Giác. Trong bộ Thiền Luận, Giáo sư Suzuki mở đầu bằng: “Thiền là nghệ thuật kiến chiếu vào thể tánh, để đưa ta từ triền phược đến giải thoát”. Thiền là một trong những phương cách thực hiện một cuộc hành trình để tự “giải thoát” chính mình. Ta phải tự đi, Ông Phật không cõng ta trên vai. Triết lý Đấng Thích Ca chỉ là cái ngón tay chỉ cho ta thấy mặt trăng, đừng lầm ngón tay với mặt trăng; triết lý Đấng Thích Ca chỉ là con thuyền giúp ta sang sông. Nếu ta không tự chèo lấy, làm sao con thuyền có thể nhổ neo để sang bờ Đại Giác, con thuyền sẽ mãi mãi đậu tại Bến Mê. Chính vì phải tự tu thân tích đức nên Đạo Phật không phải là tôn giáo “yếm thế” hay “tiêu cực” mà ngược lại vô cùng “tích cực”. Việc gắn liền “tiêu cực” với Phật giáo là việc làm của kẻ vô minh.






PHẦN III
 





15. Thuyết Cứu Chuộc Mới: Luật sư Phạm Văn Phổ nói: “Tuy nhiên, theo thuyết cứu chuộc của Công Giáo, giai đoạn tu tập để đạt tới chỗ “Giác ngộ” chỉ là giai đoạn đầu của tiến trình của công cuộc cứu rỗi. Bởi vì sau khi đã đạt tới giai đoạn “giác ngộ” hoàn toàn, người tu tập phải tiến một bước xa hơn là kết hợp với Thiên Chúa, Ngài là Đấng Tạo Dựng cũng như là Đấng Cứu Rỗi qua việc áp dụng các nhân đức như lòng tin, lòng trông cậy hy vọng và đặc biệt lòng yêu thương, để không những cứu rỗi riêng mình còn cứu rỗi của nhân loại”. Tới đây tôi có cảm tưởng luật sư Phổ là một “doctor of the church” của Tòa Thánh Vatican xuất hiện vào hậu bán thế kỷ 20. Chắc Luật sư chưa rõ “doctor of the church” là gì, xin nói thêm: St Ambrose (340-??), St Jemore(345-420), St Augustine (396-430), Giáo Hoàng Gregory I (540-604), được mệnh danh là Gregory The Great, sau này có St Anselm (1033-1109), St Thomas Aquinas (1225-1274)… là những cột trụ thần học của Tòa Thánh.

Riêng học phái thần học gọi “giác ngộ” là giai đoạn đầu của tiến trình của công cuộc cứu rỗi, và sau đó đi xa hơn bước nữa để kết hợp với Thiên Chúa, chắc Giáo Hoàng chưa nghe thấy thuyết này của luật sư Phạm Văn Phổ, một thần học gia đầu tiên của Dân tộc Việt Nam. Người ta đọc cuốn Confessions City of God của St Augustine; cuốn Monologion, Proslogion của St Anslem, cuốn The Theory of Paranymy (bản dịch của D.P.Henry,1964) , St Anselm and His Crictics (của J.M.McEntyre,1954); cuốn Summa Theologiae On Being and Essence của St Thomas Aquinas không tìm thấy một chữ nào nói về thuyết cứu rỗi như luật sư Phổ Thuyết giảng. Âu cũng là vinh hạnh lớn cho Con Cháu họ Hồng Bàng. Nhưng rất tiếc Đức Phật, Đấng Giác Ngộ, nhập Niết Bàn trước công nguyên hơn 5 thế kỷ, mà theo luật sư Phổ, mới tu xong giai đoạn đầu và không có hồng ân sống thêm vài thế kỷ nữa để được luật sư dẫn đến Thiên Chúa để Đức Phật được kết hợp với Thiên Chúa và được cứu rỗi. Thật là chủ quan! Thật tức cười! Khi nói “giác ngộ” là đã đạt tới mức tột cùng, còn gì có thêm chữ hoàn toàn nữa.



16. Thưa luật sư, nếu tôi không hiểu sai, bài viết của luật sư nhằm xoa dịu một vết thương “phỉ báng”, nhưng luật sư đã làm sai, chẳng khác nào có một đống rơm có thể cháy, đáng lý Luật sư cầm thùng nước dội vào cho nó tắt đi, đằng này Luật sư lại cầm lầm thùng dầu hôi đổ vào mồi lửa cho cháy to thêm. Thay vì chữa lửa, luật sư lại trở thành người tạo hỏa hoạn. Thay vì xoa dịu sự “phỉ báng”, lại làm việc “sỉ nhục”. Tôi buồn lắm. Xin mời Luật sư cùng tôi đặt ra một trường hợp giả tưởng, tôi nói giả tưởng thôi, một ông Sư, đầu trọc áo vuông, nói với mọi người là việc quỳ gối dưới Thánh Giá để được cứu rỗi mới chỉ là bước đầu tiên trên con đường đi đến “Giác ngộ”, rồi sau đó nhập Niết Bàn để ngồi bên cạnh Ông Phật. Luật sư nghĩ sao về trường hợp giả tưởng này? Đây là trường hợp bố láo phải không, thưa Luật sư? Thưa Luật sư, Luật sư nợ tín đồ Phật giáo (trong đó không có tôi), đang đi trên Phật lộ để đến “giác ngộ” một lời xin lỗi chân thành. Luật sư không làm buồn lòng Ông Phật vì Ngài là Đấng Đại Giác, với lòng từ bi và hỷ xả vô biên, Ngài đã đạt được tới tận cùng của chân lý rồi. Thật tội nghiệp cho những cụ già, tu hành, tụng kinh gỏ mõ hàng mấy chục năm, sắp tới ngày về Cõi Phật, được Luật sư nói chưa được, các cụ sắp sửa hoàn tất giai đoạn đầu thôi, con đường đi tới chân Thánh Giá còn xa lắm mới được kết hợp với Chúa và được cứu rỗi. Các cụ già sức đâu mà đi xa hơn nữa.

Tối hôm qua tôi nằm mơ thấy Đức Phật, Ngài có nhắn tôi gửi lời xin lỗi Luật sư vì không thể sống đến năm 1995 để chờ Luật sư cho biết Đức Phật còn đi một đoạn đường xa nữa mới được kết hợp với Thiên Chúa trước khi được cứu rỗi. Đức Phật nói Ngài đã “lỡ” chứng được Đạo Quả Bồ Đề và nhập Niết Bàn rồi vào lúc Ngài 80 tuổi. Sau gần nữa thế kỷ truyền đạo, Ngài không còn đủ sức để tu tập giai đoạn kế tiếp nữa. Xin Luật sư cảm phiền, và cũng xin luật sư chuyển lời cảm ơn Đấng Tạo Hóa đã ban cho Ngài hồng ân và cho phép Ngài khai sáng ra đạo Từ Bi, như Giáo Hoàng nói: “Như vậy, thay vì ngạc nhiên trước sự kiện là Đấng Toàn Năng đã phát sinh ra nhiều tôn giáo như vậy, chúng ta phải thích thú tìm thấy nơi các tôn giáo đó” (trang 82, Crossing the Threshold of Hope).

17. Thượng Đế có hay không: Chúa, Đấng Thượng Đế (God), Toàn Năng (The Almighty), Tuyệt Đối (The Absolute), ở khắp cả mọi nơi (omnipresent), quyền năng vô biên (omnipotent), toàn trí toàn thức (omniscient) sẽ cứu rỗi cho loài người. Tại sao? Vì loài người phạm tội. Cái tội này nó đi vào linh hồn (soul) chứ không phải thể xác (body) từ thời Adam và Eve. Thượng đế hiện hữu được các thần học gia biện minh qua nhiều cách. Thoạt đầu, Thượng Đế chỉ là một khái niệm vô hình của người Do Thái, sau này những nhà thần học tán rộng thành ra Thượng Đế của cả nhân loại. Rất tiếc trong thế chiến II, người “Giải thoát” nạn tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã không phải là Thiên Chúa mà là Hồng Quân của Liên Xô vô thần. Chúng ta hãy xem các nhà thần học lập luận về Thượng Đế:

1. Tiêu biểu nhất cho học phái chủ trương biện luận theo sự chấp thuận thông thường (common consent arguments, consengus gentium) là Richard Hooker (xem Treatise on the laws of Ecclesiastical Polity), được hỗ trợ bởi Cicero, Seneca, Clement of Alexandria, Herbert of Cherbury, Phái Plato của Cambridge, Gassendi và Grotius. Nhưng Hegel chống đối.

2. Tiêu biểu cho những người bênh vực cho học phái dựa vào vũ trụ luận (cosmological arguments) gồm có Plato (xem The Laws), Aristote (xem Metaphysics), St Thomas Aquinas (xem Summa Theologiae), Locke (xem Essay on the Human Understanding), Descarters (xem The Third Meditation) và hầu hết những nhà thần học hiện đại của Giáo Hội La Mã. Nhóm này chủ trương mọi sự việc phải bắt nguồn từ một nguyên nhân đầu tiên (first cause). Mà nguyên nhân đệ nhất này là Thượng Đế. Trong số những người phê bình phải kể đến Hume, Kant và J.S.Mill.

3. Tiêu biểu cho lối lập luận dựa vào sự hoàn thiện của sự việc (degrees of perfection arguments) không ai khác hơn là St Thomas Aquinas. Trong lối lập luận “Ngũ Cách” hay “Ngũ Đạo” (Five Ways) trong bộ thần luận Summa theologiae, ông nói: “The fourth way is based on the gradation observed in things. Some things are found to be more good, more true, more noble, and so on, and other things less… Some thing therefore is the truest and the best and the most noble of things… And this we call God” (trích Summa Theologiae). Xin tạm dịch là: “Cách thứ tư được dựa vào sự sắp đặt theo mức độ gia tăng được quan sát thấy ở trong những sự việc. Người ta tìm thấy vài sự việc tốt lành hơn, đúng hơn, cao quý hơn… Vì thế một sự việc nào đó là sự việc đúng nhất và tốt nhất và cao quý nhất… Và chúng ta gọi sự việc này là Thượng Đế”.

4. Tiêu biểu cho nhóm đặt nền tảng lập luận dựa vào luân lý phải kể đến Kant và Hume. Kể từ Kant cho đến nay, có rất nhiều tư tưởng gia biện minh cho sự hiện diện của Thượng Đế lấy điểm tựa là kinh nghiệm đạo đức của con người (human moral experience), họ không đồng thuận với thần học tự nhiên cổ truyền (traditional natural theology). Họ lập luận phải có mệnh lệnh luân lý (moral commands), có người ra lệnh (moral commander), luật lệ luân lý (moral laws). Thượng Đế là người viết luật, ra lệnh thi hành và phán xét. Hai tư tưởng gia hỗ trợ mạnh nền tảng lập luận của Kant, mặc dù không đồng ý một vài phần, là W.R.Sorley (xem Moral Values and the Idea of GB) và A.E. Taylor (xem TheFaith of a Moralist).

5. Tiêu biểu nhất cho nhóm đặt nền tảng lập luận trên bản thể luận (ontological arguments) là St Anselm (1033-1109) (xem Proslogion). St Anselm quan niệm Thượng Đế như sau: “Something that whis nothing greater can be conceived” (aliquid quo nihil maius cogitari possit). Xin tạm dịch là: “Một cái gì không có một cái gì lớn lao hơn có thể nhận thức được” (Proslogion 2). Trước đó 7 thế kỷ, St Augustine (Aurelius Augustinus) đã định nghĩa Thượng Đế là một cái gì “không có ai trên cao hơn được” (… “than whom there is nothing superior”) và ông nói tiếp: “anh phải tin tưởng để anh hiểu; nếu anh không tin, anh không hiểu được” (“Believe in order that you understand; unless you shall believe, you shall not understand” (xem Confessions và City of God).

6. Lập luận thông thường (popular arguments): chúng ta được dạy là phải tin. Tín ngưỡng đồng nghĩa với đức tin và phản nghĩa với lý luận. Vũ trụ chứa đựng những điều khó hiểu, không thể biết (unknowable). Người ta giải thích những điều này là Thượng Đế, vì Thượng Đế hiện hữu.

7. Lập luận dựa vào mục đích luận về vạn vật (teleological arguments). Đại diện cho nhóm người bênh vực cho lập luận này là William Paley (xem Natural Theology). Căn cứ vào sự cấu tạo và vận hành các bộ phận của cơ thể con người, sinh vật, hay vạn vật, người ta tin có một bàn tay nào sắp xếp, phác hoạ, tức là phải có một “designer”, tức là Thượng Đế. Người biện minh hùng hồn nhất phải kể đến F.R. Tennant (xem Philosophical Theology), được hỗ trợ bởi Ralph Cudworth (xem True Intellectual Systems of the Universe), Robert Boyle (xem The Excellence and Grounds of the Mechanical Philosophy), Robert Hooke (xem Micrographia), John Ray (xem The Wisdom of God Manifested in the Works of Creation) Nhưng người phê bình là David Hume (xem Dialogues Concerning Natural Religion). Thuyết tiến hóa (evolution) của Darwin (1809 - 1882) làm lung lay lối lập luận của nhóm này (xem Natural Selection, Origin of Species The Descent of Man). Bản thể luận (ontology), vũ trụ luận (cosmology) và mục đích luận (teleology) là 3 cột trụ của sự tranh biện có sự hiện diện của Thượng Đế.

8. Lập luận trên khía cạnh tôn giáo (religious arguments): người sáng tạo ra vũ trụ là những siêu hình thể dưới nhãn quan của tôn giáo đó. Phật giáo và Kitô Giáo có quan niệm về vũ trụ khác nhau. Phật giáo có duyên khởi và nhân duyên, Thiên Chúa Giáo có Thiên Chúa. Ta không thể so sánh, luận bàn. Bởi vì Tạo Vật Chủ hay Đấng Tạo Hóa (The Creator) không thể biết được (The Unknowable). Không có đúng và không có sai, chỉ có sự “tin”. Nếu sự “tin” được gạt sang một bên, người giải thích vũ trụ là nhà khoa học. Cho tới giờ này khoa học gia chưa có đầy đủ dữ kiện để giải thích. Vì thế sự “tin” vẫn có giá trị.

17. Trở về với quan niệm về vũ trụ của Phật giáo. Phật giáo không quan niệm vũ trụ vạn vật do một đấng nào tạo ra cả, vì thế không quan niệm có Thượng Đế, tạo vật chủ (creator). Vũ trụ vạn vật sinh ra dựa vào 2 lập luận: Thật tướng luận và Duyên khởi luận. Trước khi đi vào 2 lối lập luận này, ta phải xét lối lập luận trong triết lý Đấng Thích Ca, dualistic reasoning, lối lập luận song nguyên. Thí dụ: A là A mà cũng chẳng phải A, B là B mà cũng chẳng phải B. A và B nương tựa nhau mà có. A sinh ra B, B sinh ra A. Chỉ có A khi nào có B, chỉ có B khi có A. A và B phải luôn luôn đi với nhau. Anh A cao 1 thước, anh B cao 1 thước 50. Ta không thể nói A là thấp nếu không có B. B không thể nói là cao nếu không có A. A thấp, B cao vì cả hai nương tựa vào nhau mà thành “thấp” hay “cao”. Nếu A hay B đứng riêng, không có sự việc “thấp, cao”. Tất cả đều là tương đối, “thấp” và “cao” do cảm quan (perception). Ngôn ngữ lập luận của Phật giáo như sau: A thấp, mà cũng chẳng phải thấp. Mới nghe có vẻ như “gàn dở”. Nhưng thực ra không phải như vậy. Cái quan niệm “có, không”, “thật, hư”, “thường trụ, bất biến”, “sanh, diệt”, “vô thỉ, vô chung”… nằm trong lối lập luận này. Cho nên khi nhận định tư tưởng Phật giáo ta phải đi đứng trên ngôn từ, dùng trực nhận, vận dụng trí tuệ tối đa. Trực nhận là một trình độ trí tuệ cao siêu, người bình thường không thể có vì người ta cứ bận rộn với “ngôn từ” nên không tìm ra “ý”. Triết lý Phật giáo nặng về “ý”, nhẹ về “ngôn từ”.

A. Thật Tướng Luận: Thật thể, thật tướng hay chân như là chân thật, không giả dối, không biến đổi, không sanh diệt, không còn mất, vô thỉ - vô chung. Cái Chân Như đó, Phật giáo còn gọi là Chân Tâm, Viên Giác, Thắng Nghĩa, Giác Tánh, Phật Tánh, Như Như, Nhất Như… Muốn hiểu được thật tướng phải dùng trực nhận, không bằng ngôn từ để có thể “thể nhập” hay “thể chứng”. Ngôn ngữ dùng để diễn tả hiện tượng giới. Mà đã nói đến hiện tượng giới thì phải có giới hạn vì hiện tượng giới nằm trong cảm quan của ta, không thể dùng để diễn tả sự việc vượt không gian và thời gian. Vũ trụ vô thỉ, vô chung, nghĩa là không có khởi đầu và cũng không có kết thúc. Khởi đầu từ vô thỉ chạy thẳng xuống vô chung. Vì thế Phật giáo quan niệm vũ trụ vạn vật không do một đấng nào có quyền năng vô biên (omnipotent) tạo ra cả. Nếu nói có đấng sáng tạo tức là ta nói có điểm khởi đầu, tức là cái "thỉ".

Đã quan niệm là “vô thỉ, vô chung” thì còn làm gì có đấng tạo hóa hay thượng đế nữa. Không có nguyên đệ nhất (first cause, designer, creator…) thì tất nhiên chẳng có Thượng Đế. Diễn tả sự việc này bằng ngôn từ, tức là có sự giới hạn trong sự diễn tả. Phải dùng trực nhận để hiểu biết vấn đề. Henri Bergson giúp ta thêm để hiểu thế nào là trực nhận (intuition, immediate apprehension). Nghiên cứu thuyết “entropy” để biết sự biến dạng (transformation) và thật thể biến hiện của vũ trụ.

B. Duyên Khởi Luận: là những lý thuyết nói về nguyên nhân hay lý do sanh khởi của hiện tượng giới. Có 5 thuyết trong Duyên Khởi Luận: Nghiệp Cảm, A Lại Đa Thức, Chân Như, Lục Đại và Pháp giới.

1. Nghiệp Cảm: thuyết này rút tỉa từ Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên. Cái nghiệp nó tạo ra thân ta và y báo tức là sơn hà đại địa. Nghiệp biến đổi, quả cũng biến đổi. Nghiệp cảm làm sao thì cảm thọ cái thân và cảnh giới như thế. Dứt trừ được nghiệp báo là trở về với Chân Như, tức là đã Giác Ngộ.

2. A Lại Đa Thức: Trong nghiệp cảm duyên khởi có 6 thức (nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý). Đại thừa thỉ giáo tìm thêm 2 thức nữa, Mạt Na Thức và A Lại Đa Thức. Mạt Na Thức là nhận biết có cái ngã, và giữ gìn cái ngã ấy. Nhưng làm sao giữ được cái ngã ấy trong khi ngũ uẩn và lục thức đều sanh diệt vô thường, hợp lý mãi mã. Vậy ta phải cần có một thức khác để ngăn chặn sanh diệt vô thường, hợp lý mãi mãi. Lấy thí dụ ta muốn giữ đồ ăn lâu ngày. Nhưng với tác dụng của môi sinh, các phản ứng hóa học (chemical reaction) trong đồ ăn xảy ra, đồ ăn sẽ hư thối. Giải quyết vấn đề hư thối, ta bỏ vào tủ lạnh (deep freezer), các phản ứng hóa học đình chỉ, thức ăn không hư thối. Cái deep freezer này là thức thứ 8, tức là A Lại Đa Thức hay Tạng Thức. A Lại Đa Thức hằng khởi, thường tại, chùm chứa tất cả chủng tử của các pháp nên A Lại Đa Thức, thức thứ 8, phát hiện được hết năng lực vô hạn của vạn tượng.

Tóm lại A Lại Đa Thức là cái căn bản của hiện tượng giới. Hiện tượng do chủng tử các pháp mà phát hiện. Nói khác hơn chủng tử cùng hiện tượng, nhân quả lẫn nhau mãi mãi, được kích thích sinh ra duyên mới. Từ đó làm cho hiển hiện vạn hữu và là nền móng qua bao nhiêu kiếp nhân quả luân hồi, đồng thời cũng là căn nguyên của giải thoát, bởi lẽ trong A Lại Đa Thức có đủ cả chủng tử hữu lậu lẫn chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu là hạt giống sinh ra thiên sai vạn biệt của hiện tượng giới; còn chủng tử vô lậu cho biết ngoại giới có hư vọng. Bởi thế, đừng để cho tâm vọng động để có thể đưa đến giải thoát. Từ đó ta thấy, toàn bộ tiến trình giải thoát không có sự hiện diện của Phật, của Chúa, của Thượng Đế… mà chỉ có cái tâm của ta. Nỗ lực của người tu hành là kìm hãm cái tâm không cho vọng động thì mới nhìn thấy con đường giải thoát. Nếu nói giải thoát hoàn toàn rồi mới đến gần thánh giá để kết hợp với Chúa để được cứu rỗi là bố láo. Nói xàm.

3. Chân Như: sinh ra vạn pháp, hay nhất thiết duy tâm tạo. Tâm động là cánh cửa của sanh diệt. Tâm tịnh là cánh cửa của Chân Như. Chân Như bất biến, thường trụ, nhưng vô minh làm cho vọng động. Vô minh là vọng niệm, từ cái vọng niệm này có chủ quan, khách quan, tự ngã, phi ngã, vũ trụ và vạn hữu. Chúng sinh vì vô minh nên chỉ thấy có vạn tượng giới, diệt trừ vô minh là thấy được Chân Như. Tâm gồm có vạn tượng và Chân Như. Động là vạn tượng, Tịnh là Chân Như. Từ tịnh sang động phát hiện vũ trụ vạn hữu, từ động sang tịnh phát hiện Chân Như. Chẳng có Phật, Chúa hay Thượng Đế nào giúp người tu hành vứt bỏ cái vọng tâm mà chỉ do chính người tu hành mà thôi. Đó là điểm khởi hành đưa ta đến giải thoát.

4. Lục Đại: là địa (earth), thủy (water), hỏa (fire), phong (wind, air), không (space) và thức (vijnana, understanding, conscience). Năm “đại” trước thuộc về sắc pháp, vạn vật. “Đại” thứ 6 thuộc về tâm (mind). Sự dung thông, ngăn ngại, tác động (intereact, intercorrelate) với nhau sinh ra vũ trụ vạn vật. Vật là hình tướng (form), tâm là lực động (gorce, moving cause). Hai thể này không thể lìa nhau, tương phản, tương hợp với nhau. Lìa hiện tượng không có thật thể, lìa vật không có lý tánh. Giải thoát là phân biệt được Chân Như và Hiện Tượng. Sự nhận biết, phân biệt hoàn toàn do nỗ lực cá nhân. Sự hiện diện của Thượng Đế chẳng có can dự gì cả.

5. Pháp Giới: vũ trụ vạn hữu là kết quả của sự dung thông giữa các pháp. Pháp này dung thông pháp kia, cùng nhau làm duyên khởi, nên gọi là “vô tận duyên khởi” hay “trùng trùng duyên khởi”. Như thế vũ trụ vạn hữu là một cuộc hoạt động không ngừng của hiện tượng, từ vô thỉ đến vô chung, nối tiếp nhau, tràn lan vô tận, như những đợt sóng biển. Nếu hoạt động ngừng thì không có vạn tượng, không có vũ trụ.



19. Có người hỏi vũ trụ luận của Phật giáo là gì, sao có nghiệp cảm rồi lại có duyên khởi, mà duyên khởi lại có những 5 thuyết khác nhau? Rắc rối quá, lẫn lộn quá, chống đối nhau? Không và hoàn toàn không. Tất cả đều giống nhau chỉ khác rộng và hẹp, nông và sâu. Tùy theo khả năng nhận thức hay khả năng trực nhận của mỗi người. Triết lý Đấng Thích Ca là một nhưng có nhiều cách khác nhau trong lối diễn tả để thích nghi với mỗi hành giả. Thí dụ gạo nấu thành cơm hay cháo. Cơm cho người muốn ăn cơm, cháo cho những ai muốn ăn cháo. Cơm và cháo cũng đều là gạo cả. Như trên tôi đã nói, muốn hiểu cái triết lý của Đấng Thích Ca ta phải làm quen với lối suy luận trong Phật giáo thì sự hiểu biết sẽ rõ ràng hơn. Tiểu Thừa, Đại Thừa hay Kim Cương Thừa, tùy nghi, chọn cách diễn tả vũ trụ luận theo sở thích. Nhưng tất cả không ra ngoài căn bản triết lý của Đức Phật.



20. Để bổ túc cho việc nhận thức, ta phải biết thêm cái rộng lớn của không gian và thời gian trong Phật giáo. Mất đi sự nhận thức về không gian và thời gian vô tận thì không thể hiểu nổi vũ trụ quan của Phật giáo. Plato, Aristote, Zeno, Newton, Euclid, Locke, Pascal, Minkowski, McTaggart, Kant, Caird, Borel, Einstein,… sẽ giúp ta rất nhiều để làm quen với không gian và thời gian. Phạm vi bài báo không cho phép khai triển ý niệm về không gian và thời gian.

Đọc Trung Luận của Ngài Bồ Đề Long Thọ, đối với các bậc đại thừa, thật tướng hay duyên khởi cũng không còn nữa. Cái “quán” của Trung Luận chỉ có bậc đại trí giả mới có thể hiểu nổi.



21. Đọc Avesta, Tân Ước Cựu Ước ta thấy có quá nhiều điều giống nhau. Có người nói, Thánh Kinh cóp nhặt từ Zoroaster. Đạo của Zoroaster và Ấn Độ Giáo có nhiều điểm tương đương, vì thế có học giả cho rằng trong 16 năm vắng mặt của Chúa Giêsu Kitô, không được Tân Ước nhắc tới, là thời gian Chúa Giêsu Kitô sang Đông Phương học đạo và có thời kỳ Ngài là một vị tăng Phật giáo (xin đọc The Lost Years of Jesus Christ The Lost Teachings of Jesus Christ của Elizabeth Clare Prophet, và Jesus in India của Holger Kersten, The Lost Years of Jesus Revealed của Dr. Charles Francis Potter). Không một người Việt Nam nào lại biết Nữ Thần Tự Do, Nike (giầy thể thao) là tên một vị thần, hỏa tiễn Poseidon, Titans, phi thuyền Apollo, xe hơi hiệu Saturn, các địa danh Arcadia, Memphis, Ithaca, Philadelphia (Philae + Delphi), Atlanta (nơi sẽ tổ chức Thế Vận Hội 1996), Carthage, Atlas, Palladium, Orion, dầu thơm Clio, Diana, Anteus, Bacchus, Aramis, Xeyrius,… tiệm bán hoa Flora, điệu nhạc Calypso, banh Giants… đều là tên của những vị thần. Thậm chí một sòng bài lớn ở Las Vegas cũng lấy tên một vị thần Excalibur. Ngày thứ ba (Tuesday) tên thần Tyr, thứ tư (Wednesday) tên thần Woden hay Odin, thứ năm (Thursday) tên thần Thor, ngày thứ sáu (Friday) tên thần Frey…

Cuộc sống của chúng ta bao vây bởi nhiều, không phải một vị thần, vị thánh. Người ta tin có thần có thánh. Đã là đức tin, không bàn cãi, không có gì sai trái cả. Nếu bảo đức tin của mình là một “universal truth” thì khoa học gia sẽ lên tiếng và tri thức của con người sẽ nổi dậy. Đức Phật Thích Ca đứng ngoài. Ngài không bao giờ cho mình là thần hay là thánh hay Thượng Đế, Ngài chỉ là một ông thầy giáo, một Đại Sư mà thôi, để giảng dạy luân lý qua hệ thống triết học của Ngài.





 

Mới đây Richard Dawkins trong cuốn River Out Of Eden: A Darwinian View of Life, ông đưa ra vấn đề có hay không có Thượng Đế, cần hay không cần có Thượng Đế, và ưu thế của khoa học đối với siêu hình học. Ông nói: “After Darwin, there is no need for God”. Xin tạm dịch: “Sau Darwin, không cần có Thượng Đế nữa”. Để hiểu biết thêm về Thượng Đế, nên đọc Power of Myth của Joseph Campbell và Bill Moyers, History of God của Karen Armstrong, The Story of Civilization (11 cuốn) của sử gia Will Durant, A Study of History (12 cuốn) của sử gia hoàng gia Anh Quốc Arnold Toynbee, và The Larousse Encyclopedia of Mythology (Barnes & Noble xuất bản).

Thượng Đế là một ý niệm siêu hình, lời nói của Thượng Đế có tính cách biểu tượng. Nếu coi Thượng Đế như là một nhân vật có nhân tính và lời nói của Thượng Đế là ngôn ngữ của xã hội, luật pháp loài người, tức là ta đưa Thượng Đế đến trước mặt khoa học gia. Ta cứ để Thượng Đế ở vị trí “Unprovable” và “Unknowable”. Ta cứ để Thượng đế đứng gần cái “Why” còn khoa học gia coi phần “How” là tốt nhất. Chắc luật sư Phạm Văn Phổ đồng ý. Người Do Thái chỉ tin có một Thượng Đế của người Do Thái thành ra Thượng Đế của cả nhân loại theo chủ quan tính của họ. Đi xa hơn nữa họ bắt cả thế giới tin Thượng Đế là có thật như một sự thật đã được kiểm chứng. Họ cố tình lầm lẫn giữa “perception” và “conception”.



22. Chủ thuyết Tội Tổ Tông (Father’s sins): tội lỗi, theo Thánh Kinh, được nối tiếp từ ông Adam, xâm nhập linh hồn con người, con cháu của ông ta. Có tội phải chuộc (redemption), xin cứu rỗi (salvation) hay bị đày xuống địa ngục (damnation) do nơi Chúa. Chúng ta thường nghe người Mỹ nói “God Damned!” là như vậy. Chúng ta hãy lắng nghe St Augustine. Ông dạy rằng Adam có toàn quyền hành xử mọi hành động của mình (free will), ông có thể kiềm chế để không phạm tội. Nhưng ông Adam đã phạm tội vì bà Eva đã ăn trái táo trên cây cấm, thay vì ăn trái táo trên cây nhân sinh. Ăn xong hai người mới thấy xấu hổ (mắc cỡ) là mình trần truồng, họ chạy trốn ra khỏi Vườn Địa Đàng và lấy lá cây che các bộ phận sinh dục lại. Trái cấm là sự hiểu biết. Chúa cấm không được biết, vẫn làm là phạm tội (máy điện tử Apple lấy logo là một trái táo đã cắn một miếng). Chỉ có Chúa mới có thể ban ân sủng, tha tội.

Tội do Adam và Eva phạm, còn lưu truyền từ đời này sang đời khác cho đến ngày hôm nay. Trẻ em sơ sanh cũng có tội, mặc dù còn chưa biết cầm bình sữa, nếu chưa chịu phép rửa tội. Luật gia đặt vấn đề Insanity in Canon Law. Trẻ em quá nhỏ, hay bị tàn tật, không có thể bị “kết án”, mặc dù trên khía cạnh tôn giáo. Xin luật sư nghiên cứu thêm về điểm pháp lý này. Tội của loài người nằm trong linh hồn, không nằm trong thể xác (theo Thánh Paul). Nếu ai chết chưa chịu phép rửa tội (unbaptized) sẽ bị đày đọa mãi mãi (damnation). Nhưng nếu đã chịu phép rửa tội, Chúa sẽ đưa lên Thiên Đàng. “Damnation” là công lý của Chúa, “Salvation” là ân sủng của Chúa. Cả hai đều là điều tốt lành (goodness) của Chúa (?). Nhưng thần thuyết của St Augustine bị Morgan (tên Hy Lạp là Pelagius) bác bỏ kịch liệt. Pelagius quan niệm con người có toàn quyền hành xử hành động của mình theo ý muốn (free will), nếu con người làm đúng theo luân lý, nếu không có “criminal intent”, ý định phạm tội ác, con người sẽ được tưởng thưởng cho lên Thiên Đàng. Nhưng Bertrand Russell gọi chủ thuyết này là chủ thuyết hung ác, ferocious doctrine (A History of Western Civilization, trang 365).

Để diễn tả con người thánh thiện trước khi phạm tội, tất cả người mẫu trong họa phẩm của Michelangelo vẽ ở nhà thờ St Sistine (Tòa thánh Vatican) đều trần truồng, các bộ phận sinh dục được vẽ đầy đủ, cũng như Adam và Eva trước khi ăn trái cấm (ngoại trừ Thiên Chúa trong họa phẩm The Creation). Theo Thánh Kinh, Chúa Giêsu Kitô, được Đấng Chúa Cha sai xuống sống với loài người (Incarnation), chịu đóng đinh trên thánh giá (Crucifixion) để chuộc tội (Redemption) cho loài người. Chuộc tội cho loài người xong, Ngài sống lại (Resurrection) và Ngài lên Nước Thiên Đàng (Kingdom of Heaven) ngồi bên tay phải của Đấng Chúa Cha.



23. Giác Ngộ: toàn bộ nền tảng triết lý của Đấng Thích Ca đặt trên hai cột trụ “Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo”.

A. Tứ Diệu Đế: “Tứ” là 4, “Diệu” là đẹp, quý báu, hoàn toàn, “Đế” là sự thật chắc chắn, rõ ràng đúng đắn nhất, chữ Phạn là Ariya Saccani. Có chỗ gọi là “Tứ Thánh Đế”. Bốn đế đó là:

(1) Khổ Đế: nhận định sinh, lão, bệnh, tử là một bể khổ mênh mông;

(2) Tập Đế: nói đến nguyên nhân của khổ đau (sinh, lão, bệnh, tử);

(3) Diệt Đế: kết quả của sự diệt trừ những khổ đau hay tát cạn biển khổ này;

(4) Đạo Đế: phương pháp tu hành để diệt khổ và sống hạnh phúc vĩnh cửu.

Cái “khổ” ở đây phải hiểu là cái nghiệp xấu tạo ra. Nếu nghiệp tốt, quả tốt, chẳng có gì là “khổ” cả. Tứ Diệu Đế là bài giảng đầu tiên của Đức Phật tại Benares.

Mẹ Teresa đi khắp nơi này đến nơi khác xoa dịu khổ đau cho những người bất hạnh. Phải chăng Mẹ Teresa đã nhận thức thấy nhân loại đầy rẫy khổ đau và biển khổ phải được tát cạn. Nhưng rất tiếc, phần đông nói Phật giáo là yếm thế vì chỉ biết có khổ đế mà quên mất 3 đế kia nữa.

B. Bát Chánh Đạo: hay Bát Thánh Đạo, nghĩa là 8 con đường ngay thẳng hay 8 phương tiện mầu nhiệm đưa con người từ trạng thái “u mê” đến “giác ngộ” sống trong hạnh phúc vĩnh cửu. Bát Chánh Đạo:

1. Chánh Kiến: nhận biết một cách ngay thẳng, công minh;

2. Chánh Tư Duy: suy nghĩ, nghiệm xét chân chính, đúng với lẽ phải;

3. Chánh Ngữ: lời nói chân thật, công bình, hợp lý;

4. Chánh Nghiệp: hành động chân chính, hợp với chân lý, lợi ích cho chúng sinh (người và muôn vật).

5. Chánh Mạng: sống lương thiện, trong sạch, ngay thật, công bằng, từ bi;

6. Chánh Tinh Tấn: chuyên cần, siêng năng, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ quy hướng;

7. Chánh Niệm: ghi nhớ những điều hay lẽ phải, lợi cho mình cho người;

8. Chánh Định: tập trung tư tưởng vào hành động và suy nghĩ chín chắn, trung thực.

“Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo” có thể ví như “Tri” và “Hành”. Tri cho sáng suốt, Hành cho đúng đắn để đi đến “giải thoát”. “Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo” là khuôn mẫu đạo lý của Phật giáo. Tuyệt nhiên không nói đến “tội tổ tông”, không nói đến “chuộc tội”, phải quỳ dưới chân Phật để được “cứu rỗi”. Tuyệt nhiên không ở trên “cứu rỗi”, không ở dưới “cứu rỗi” mà cũng chẳng liên hệ gì đến “cứu rỗi”, thế mà Luật sư Phạm Văn Phổ nói rằng “giải thoát hoàn toàn” chỉ là giai đoạn đầu của tiến trình cứu rỗi để kết hợp với Thiên Chúa để được cứu rỗi”.

Theo triết lý Đấng Thích Ca, ta làm hay (nghiệp tốt) ta hưởng, ta làm sai trái (nghiệp xấu) ta sửa chữa, tu tập để được giác ngộ. Phật, Chúa Giêsu Kitô hay Thiên Chúa không giải thoát cho ta được. Ta phải tự làm lấy, vậy thì kết hợp với Thiên Chúa để làm gì? Quỳ dưới thánh giá để làm gì? Lập luận của Luật sư Phổ có tính cách vơ vào, chủ quan. Vơ vào vì nghĩ rằng đạo của mình là nhất, là một tổng thể, những đạo lý của người khác chỉ là một vi thể. Chủ quan vì ý niệm Thượng Đế là một sự thật hiển nhiên. Đạo Phật mới là đạo không yếm thế, KTG mới là đạo yếm thế, ỷ lại. Chỉ có đức tin nơi Chúa là xong hết. Con người chẳng cần tạo một nỗ lực nào để có một đời sống đạo đức. Cô Mary Magdalene là một người đàn bà mất nết, các tông đồ rất khó chịu khi thấy cô ta quá gần gũi với Chúa Giêsu, rửa chân cho Chúa và tin nơi Chúa. Chúa chấp nhận Mary Magdalene vì cô có đức tin nơi Chúa. Trái lại, nếu một Phật tử chỉ tin có Đức Phật, nhưng không tu thân để tạo nghiệp tốt thì đức tin nơi Đức Phật không giải thoát cho ta được. Thiện nghiệp mới là điều đáng nói, đức tin chẳng có nghĩa gì cả.



24. Phật giáo tiêu cực hay không? Luật sư viết: “Đối với tính cách “tiêu cực” của “thuyết cứu rỗi” (thuyết này không có) của Phật giáo, có lẽ nhận định của Giáo Hoàng đã dựa trên chủ trương của môn phái Tiểu Thừa nhiều hơn. Bởi vì trong khi phái Tiểu Thừa có cái nhìn “Tiêu Cực” về thế giới thì trái lại phái Đại Thừa lại nhìn thế giới với thái độ “tích cực” hơn”.

Trong lúc giải kinh Đại Thừa tại Rajagriba (tại Trung Ấn Độ) cho các vị Tỳ Kheo và Bồ Tát, Đức Phật nói những điều Ngài giảng chưa thích hợp với thời hiện tại, phải 400 năm sau thì người ta mới hiểu nổi những gì Ngài giảng. Ngài tin tưởng vào một vị môn đệ là Naga sẽ giảng giải kinh của Ngài cho hậu thế. Bốn trăm năm sau, Ngài Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna) soạn bộ Trung Luận (1 trong 3 bộ: Trung Luận, Bách Luận hay Bá Luận và Thập Nhị Môn Luận, bộ luận tập tôn của Tam Luận Tôn). Đại thừa không chủ trương chỉ giải phóng cá nhân (individual liberation) mà còn chan chứa vị tha (altruism), ẩn tàng trong các kinh điển của Đại Thừa (Xin đọc Treasure Teaching của giáo sư Robert Thurman, khoa trưởng Religion Department tại đại học Columbia).



25. Luật sư có biết hiện giờ có bao nhiêu vị tăng đang hàng ngày xả thân vào trại cùi ở Việt Nam không? Tôi sẽ hãnh diện chiếu cho Luật sư coi một cuốn phim video cho thấy các vị tăng Phật giáo hoạt động xã hội trong trại cùi. CSVN thấy vị tăng này có uy tín, họ ngăn cấm sư hoạt động, bệnh nhân cùi ra đường phản đối. Nhà cầm quyền CSVN sợ và phải chịu thua. Mọi hoạt động trở lại bình thường. Cuộn video có sẵn, Luật sư xem lúc nào cũng được. Vậy thì “tiêu cực” ở chỗ nào? Đây là một vị tăng áo vàng, tức thuộc Tiểu Thừa.



26. Sau gần nửa thế kỷ, không phải 40 tháng hay 40 ngày, Đức Phật ở trần thế để truyền đạo kể từ ngày tìm thấy chân lý dưới cội bồ đề. Nếu Đức Phật “tiêu cực” thì chắc hẳn không còn muốn sống thêm gần nữa thế kỷ nữa. Thánh kinh nói, 3 ngày sau khi bị đóng đinh trên thánh giá, chúa Giêsu sống lại và 40 ngày sau bỏ thế gian trở về nước Chúa. Tới đây ai cũng thấy Đức Phật “tiêu cực” hay “tích cực”? Trước khi tịch ngài ngọa thiền nằm nghiêng phía bên phải, đầu hướng về phương Bắc, mặt quay về hướng Tây, trong một tư thế vô cùng vững vàng và thoải mái. Các môn đệ, muôn loài chim muông và thú rừng cũng ở quanh Ngài, rồi Ngài ra đi một cách nhẹ nhàng và thánh thiện. Cái thế nằm như vậy thật vững vàng, nên sau khi Ngài nhập Niết Bàn, đạo của Ngài không gặp sóng gió. Đạo của Ngài có thể phát triển bất cứ ở đâu, bất cứ thời nào. Tăng chú và Phật Tử noi gương đức từ bi của Ngài nên có thể hòa đồng với bất cứ tôn giáo nào. Tất cả mọi người có thể đến với Ngài và học hỏi ở nơi Ngài những triết lý cao thâm huyền diệu từ trái tim của họ. “Phật tại tâm” là như vậy.



27. Tất cả hành vi, lời nói, suy nghĩ tốt lành phải xuất phát từ cái “tâm”. Người nào tu Đạo Phật phải biết diệt trừ “vọng tâm” đó để biến cái vọng tâm đó thành “tâm Phật”. Nếu đã biết tu tập để đạt được “Tâm Phật”, thì “tiêu cực” chỉ là “lộng ngữ”. Theo Luật sư, Tiểu Thừa là tiêu cực, Đại Thừa là tích cực, còn Tông Phái Tây tạng thì sao? Chắc cả hai phải không? Hồi bé tôi đi xe lửa, tôi thấy cây cối và cột đèn chạy từ đằng trước ra đằng sau. Tôi thấy mặt trời chuyển động, trái đất đứng yên một chỗ, cũng như trái đất quay quanh mặt trời, trái đất không đứng yên. Cái nhìn của Luật sư về Phật giáo là cái nhìn của trẻ thơ ngồi xe lửa hay như Tòa Thánh nhìn mặt trời. Vô minh gây phiền não là như vậy. Phật giáo không nói tiêu cực hay tích cực, chỉ có vô minh hay giác ngộ, chỉ có tinh tấn hay không tinh tấn, chỉ có rốt ráo hay không rốt ráo…



28. Cũng như có người gọi Phật giáo là “vô thần” và gọi Cộng Sản cũng là “vô thần”. Đặt vấn đề “vô thần” hay “hữu thần” với Phật giáo là “out of context”. Trong cuốn The Contempolary Status of Atheism, Jean-Marie Le Blonde viết: “… life without God need not be bestial, unintelligent, or immonal, atheism can be serene and deeply human”, xin tạm dịch là “… đời sống không có Thượng Đế không nhất thiết phải là đầy thú tính, thiếu thông minh và vô luận, vô thần có thể là trong sáng và thật đầy nhân tính”. Người ta vẫn lạm dụng chữ “vô thần” để sỉ nhục những người nào không ở trong cái cộng đồng chấp nhận không có Thượng Đế. Tại Pháp cho tới thời Cách Mạng 1789, người nào viết, ấn loát những tài liệu có tính cách vô thần bị truy tố như là theo tà giáo. Khi đó Inquisition ra tay trừng phạt. Nhìn lại lịch sử Việt Nam, 18 đời vua Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Đinh Bộ Lĩnh, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Huệ… là những người không theo Kitô Giáo. Các anh hùng liệt nữ đó là “vô thần” đấy, các vị này là Cộng Sản ư? Là đáng khinh bỉ ư? Việc gán chữ “vô thần” cho Phật giáo chắc chắn không phải là sự biểu lộ sự thân hữu hay tương kính. Giáo Hoàng Paul VI trong thông điệp Ecclesiam Suam đã có cái nhìn khác về những người không chủ trương có Thượng Đế, nhưng Giáo Hoàng Jonh Paul II trở lại tư tưởng thời trung cổ, khi Inquisition phát triển mạnh. Ông Phật không phải là một ông Thượng Đế, thần hay thánh. Ông Phật chỉ là một vị Đại Sư. Nhưng người đời tôn sùng Ông, thờ hình tượng Ông, thờ hình tượng Phật Bà Quan Âm (người Nhật gọi là Canon, tên máy chụp hình).



29. Theo triết gia Mortimer J.Adler, chủ biên bộ đại tự điển bách khoa Encyclopedia Britannica, Giám đốc Institute for Philosophical Research ở Chicago, thì triết gia Tây Phương phạm nhiều lầm lỗi triết học từ nhiều thế kỷ nay, trong đó có sự lẫn lộn giữa conception và perception. Ý niệm Thượng Đế là một perception chứ không phải là một conception, vì thế KTG cứ nghĩ rằng Thượng Đế là một sự thật hiển nhiên. Tây Phương quan niệm Thượng Đế từ phía ngoài, chân như của Phật giáo nhìn từ nội tâm. Vì vậy gán “vô thần” cho Phật giáo là một quan niệm sai lầm lớn lao. Cái nhìn sai lạc về Phật giáo cứ tiếp diễn từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Điển hình nhất là nhận định của Giáo Hoàng Jonh Paul II mới đây. Luật sư Phổ như một người thợ mộc mắt toét dùng cây thước đã bị bẻ cong.



30. Vì thế, tạm thời ta hãy đứng ở vị trí của mình. Đừng vội coi cái đức tin của tôn giáo mình là một sự thật “beyond reasonable doubt”. Trang 43 của cuốn Crossing the Theshold of Hope, Giáo Hoàng John Paul II nói:

“Buddha is right when he does not see the possibility of human salvation, but he is wrong, for that reason, he denies that creation has any value for humanity.”

(Bản dịch của nhà xuất bản Thăng Tiến: “ Phật Thích Ca đúng khi không nhìn thấy khả năng cứu rỗi con người qua việc tạo dựng, nhưng lầm, vì lí do này, Đức Phật chối bỏ cả việc tạo dựng có bất cứ giá trị nào cho nhân loại).

Giáo Hoàng đúng khi nói Phật giáo phát triển mạnh tại Tây Phương, nhưng sai và sai lớn khi nói rằng Đức Phật sai.



31. Như đã nói ở trên “Giải thoát” chẳng có một liên hệ gì đến “cứu rỗi”. Đức Phật có nói về tội Tổ Tông đâu mà cứu rỗi. Phật giáo không quan niệm “Cha ăn mặn, con khát nước”, mà quan niệm “Quýt làm, Quýt chịu”, nghĩa là mỗi người chịu hứng lấy cái “nghiệp” (karma) của mình. Đức Phật Thích Ca có quan niệm Đấng Tạo Hóa hay Thiên Chúa (Creator) tạo dựng lên trời đất đâu. Việc chối bỏ hay chấp nhận phải được coi là “out of context”. Cái ý nghĩa Thượng Đế của KTG tức là cái “Chân Như” của Phật giáo vậy. Chân Như nằm trong nội tâm. Quả thật tôi không hiểu tại sao Giáo Hoàng John Paul II, sinh sau Đức Phật 2,500 năm, lại nói Đức Phật sai. Tượng Phật thấy trên khắp thế giới trên 2,500 năm nay, và Đạo Phật đang phát triển mạnh tại Tây Phương, vậy Đức Phật sai ở chổ nào? Tôi nghĩ một Giáo Hoàng không nên nói Đức Phật sai cũng như một hòa thượng không nên nói Chúa Giêsu Kitô là sai. Căn cơ của các vị đó không đủ để có lời phê bình như vậy.



32. Đường lối của Tòa Thánh: Người đứng đầu tòa thánh Vatican không ai khác hơn là Giáo Hoàng, một biểu tượng của thần quyền cao nhất. Bất cứ điều gì Giáo Hoàng nói, làm đều đúng. Tòa thánh không bao giờ sai, lúc nào cũng đúng trong cái sai. Tất cả những lời phát biểu của Giáo Hoàng về Phật giáo phải được coi là đúng. Vì thế cái chủ thuyết cứu rỗi “đầu gà đít vịt” của nhà tân thần học Phạm Văn Phổ mới ra đời. Luật sư Phổ thuyết giảng “giác ngộ” chỉ là giai đoạn đầu, sau đó còn phải đi xa hơn nữa để kết hợp với Thiên Chúa để được cứu rỗi.

Nhưng trên thực tế, sự thật lại khác. Chẳng hạn Giáo Hoàng Liberius (352-366), Giáo Hoàng Vigilius (537-555) đưa ra những giáo lý sai lầm. Các Giáo Hoàng thời Phục Hưng (1470-1530) là động lực thúc đẩy Martin Luther ra thành lập giáo phái mới. Galileo chỉ được phục hồi danh dự sau 400 năm; Jeanne d’Arc, một cô gái quê người Pháp, nghe tiếng gọi của Thiên sứ Michael, vùng lên giải phóng cho Pháp. Cô bị cột vào cây gỗ, chất củi xung quanh và đốt cho chết cháy lúc mới 19 tuổi. Mãi tới 140 năm sau bản án mới được hủy bỏ, danh dự được phục hồi, nhưng cô đã chết trước đó hơn 1 thế kỷ. Năm 1920, cô được Vatican phong làm nữ thánh St Jeanne d’Arc (30 tháng 5). Có phải Tòa Thánh sai không? Và rất nhiều thí dụ khác nữa. Phạm vi bài báo không cho phép nói hết.



33. Muốn có một cái nhìn rõ ràng hơn, ta nên đọc The March of Folly: From Troy to Vietnam của nữ sử gia Barbara W. Tuchman (Hai lần được giải thưởng Pulitzer, tác giả Distant Mirror, Guns of August, Bible and Sword…); 5 cuốn sách của Malachi Martin: The Vatican, The Final Conclave, Hostage to the Devil, The Jesuits, The Keyes of this Blood (Malachi Martin là mợt thần học gia Tòa Thánh La Mã, linh mục dòng Jesuit, giáo sư tại Vatican’s Pontifical Biblical Institute, ông rất gần với Hồng Y Augustin Bea và Giáo Hoàng John XXIII); The Oxford Dictionary of Popes của J.N.D. Kelly; The Crusades của Henry Treece; In Spanish Prisons của Major Arthur Griffiths; Inquisition: Hammer of Heresy của Edward Burman; A Crisis of Conscience của Dr. Hugh K. Barber, MD (Bác sĩ Baber là giáo sư y khoa tại Đại học Cornell, tác giả trên 400 bài viết khoa học và trên 200 cuốn sách. Năm 1991, tờ báo New York Magazine bầu ông là một trong số “best doctors in New York”); A History of Philosophy (9 cuốn) của Federi Copleston, S.J; A History of Western Philosophy của Bertrand Russel; đại tác phẩm The Story of Civilization (11 cuốn của sử gia Will Durant); The History of the English speaking peoples của Winston Churchill; A Study of History (12 cuốn) của Arnold Toynbee (đại sử gia của Hoàng Anh Quốc); History of the World (2 cuốn) của 25 tác giả, do Bonanza xuất bản, Dictionary of Wars của George C. Kohn để biết Chiến Tranh 30 năm, vài chục chiến tranh tôn giáo; và đừng quên đọc thêm New Catholic Encyclopedia của The Catholic University Press of America, Wasghinton D.C..

Tôi xin trích dẫn phần kết luận về đề tài Inquisition, trang 541, cuốn 12 (trong số 18 cuốn của New Catholic Encyclopendia) của bộ sách nói trên như sau: “Judged by contemporary standards, the INQUISITION, especially as it developed in Spain toward the close of the Midle Age, can be classified only as one of the darker chapters in the history of the Church”. Xin tạm dịch là: “Được phán xét theo tiêu chuẩn đương thời, INQUISITION - Tòa Án Tôn Giáo (có người dùng tòa án dị giáo) đặc biệt khi nó phát triển tại Tây Ban Nha vào gần cuối thời Trung Cổ, chỉ có thể xếp là một trong những trang sử đen tối lắm trong lịch sử của Giáo Hội”.



34. Lời phát biểu của Giáo Hoàng John Paul II: “Everyone who looks for salvation, not only the Christians, must stop before the Cross of Christ” (Trang 73) (xin tạm dịch là: Tất cả mọi người đi tìm sự cứu rỗi, không phải chỉ có người theo Kitô Giáo, phải ngừng trước Thánh Giá của Đấng Kitô). Có lẽ vì câu tuyên bố này mà Luật sư Phổ đưa ra cái thần thuyết “đầu gà đít vịt”. Lại nữa, trang 85, Giáo Hoàng nói: “Nevertherless, it needs to be said right away that the doctrines of salvation in Buddhism and Chritianity are opposed” (Xin tạm dịch là: Dầu sao đi nữa, cần phải nói ngay là chủ thuyết cứu rỗi của Phật giáo và Kitô giáo đối chọi nhau). Cái tội Tổ Tông từ Adam và Eve nó truyền nhiễm từ đời này sang đời khác, xâm nhập linh hồn của con người, nên con người phải ngừng trước thánh giá để được cứu rỗi (?).



35. Tôi không có ý kiến gì về doctrine of the father’s sins của KTG. Lãnh vực này thuộc về Đức tin, tin là có tội do ông cha ta kể lại, tin là Chúa sẽ tha tội. Mà đã là Đức tin, ta không thể bàn cãi. Văn nhân thi sĩ tin là trên Nguyệt Hằng có Thằng Cuội Ngồi Gốc Cây Đa. Thi sĩ cứ làm thơ, văn nhân cứ sáng tác, độc giả vẫn cứ thích thú đọc và phi hành gia cứ đổ bộ xuống mặt trăng. Người ta tin ngày 23 tháng Chạp Ông Táo lên chầu Trời tâu lại Ngọc Hoàng những chuyện hỉ nộ ái ố trên thế gian. Người ta vẫn tin có thần tài phù hộ, các cửa tiệm có thờ ông Thần Tài ngay ngoài cửa, miệng ngậm điếu thuốc lá, tay cầm đồng đô la. Người ta tin hóa vàng để người dưới âm phủ có tiền trả tiền “biu” dưới âm phủ. Mở đài truyền hình ra coi thấy hai võ sĩ Mễ, trước khi thi đấu đều làm dấu rồi nhắm mắt cầu nguyện. Một lúc sau một võ sĩ chảy máu mồm máu mũi ngả lăn đùng xuống sàn. Ta cũng thấy hình ảnh tương tự trong các trận đấu Boxing, hai võ sĩ Thái Lan múa may, làm bùa làm phép gì đó, khoảng phút một ông ngã lăn cu chiêng xuống đất. Họ tin có Đấng thần linh phù hộ. Nhưng nếu nhà thơ hay văn nhân quả quyết trên mặt trăng có thằng Cuội Ngồi Gốc Cây Đa thì phi hành đoàn của Phi thuyền Apollo sẽ bước tới và nói: “Hey man, wait a minute. We’ve just come back from there”. Đã là đức tin, không thể bàn cãi. Tuy nhiên không thể cho đức tin của mình là sự thật và bắt người khác tin theo.






Phật giáo quan niệm trong mỗi chúng sinh khi ra đời đều có sẵn Phật tính, đã có tội gì đâu mà cứu. Nếu cá nhân nào mang cái nghiệp xấu là do chính con người đó tạo ra. Cha tạo nghiệp xấu, cha chịu. Con tạo nghiệp tốt con hưởng, tức là “quýt làm, quýt chịu” và không có vấn đề “quýt làm cam chịu”. Sự việc “nghiệp” và “quả” của người cha và người con khác nhau, hoàn toàn không can dự vào nhau. Vì Phật giáo không quan niệm có tội tổ tông, nên không có vấn đề cứu rỗi. Mà đã không có cứu rỗi thì lấy gì để so sánh. Thuyết giải thoát khác hẳn với thuyết cứu rỗi. Đã khác nhau thì không thể so sánh. Vì thế tôi gọi thần thuyết cứu rỗi hay cứu chuộc gì đó của Luật sư Phổ là thần thuyết “đầu gà, đít vịt”, tức là trước sau chẳng ăn nhằm gì với nhau cả.



36. Có điều tôi không tin những phát biểu về Phật giáo là do chính Giáo Hoàng nói mà do Hồng Y Joseph Ratzinger. Đây là lập luận của tôi, có thể Luật sư không đồng ý: vào năm 1139, Công Đồng Lateran II đòi hỏi Tòa thánh truy tố những kẻ theo tà đạo (heresy), mà hình phạt là rút phép thông công, trục xuất ra khỏi giáo hội và bị nguyền rủa. Giáo Hoàng Alexander III bổ túc thêm ra lệnh cầm tù và tịch biên tài sản (1162-1163). Tiếp theo đó là các thông điệp Ad abolendam (1184), Vergentes in senium (1199), Excommunicamus (1231), Ille humani generis (1231), Ad exstirpanda (1252), v.v… Tòa án tôn giáo, Inquisition, phát triển mạnh tại Tây Ban Nha, và nhiều nước khác. Hình phạt: cả thể xác (tra tấn, cầm tù, tử hình) lẫn tinh thần (nguyền rủa). Tòa thánh tránh xử tử hình gây máu chảy, thay thế vào lối xử tử hình này bằng cách châm lửa đốt nơi công cộng sau khi đọc tố trạng sermo generalis. Điển hình nhất là cô gái gốc quê, 19 tuổi người Pháp, theo tiếng gọi của Thiên Sứ Michael, dấy binh trừ giặc bị thiêu sống tại thành Rouen. Đó là Jeanne d’Arc, trở thành St Jeanne d’Arc.



37. Người đi vào lịch sử với chức vụ inquisitor general (tổng phán quan tòa án tôn giáo, giống như chánh thẩm) không ai khác hơn là Tomas de Torquemada (1420-1498), một linh mục thuộc dòng tu Dominican. Spanish Inquisition thành lập năm 1478 và được bãi bỏ năm 1834. Ông đóng vai chủ động trong việc trục xuất người Do Thái ra khỏi Tây Ban Nha năm 1492. Để đương đầu với sự ra đời của Giáo Phái Tin Lành, Inquisition được trao cho Holy Office năm 1542. Công đồng Vatican II đổi tên thành Congregation for the Doctrines of Faith (1965). Những trang sử đen tối của Tòa thánh được khép lại sau nhiều thế kỷ làm điên đảo thế giới.

Năm 1985, Giáo Hoàng John Paul II bổ nhiệm Hồng Y Joseph Ratzinger đứng đầu Congregation for the Doctrines of Faith, và Latin American Bishops’ Conference (viết tắt là CELAM) có cùng địa chỉ và văn phòng. Chủ thuyết của Congregation for the Doctrines of Faith đưa ra làm các giám mục khắp nơi lẫn lộn. Các vị này không biết nhiệm vụ rõ ràng và biên cương của sự truyền giảng Phúc Âm. Giáo Hoàng John XXIII cho tổ chức Công Đồng Vatican II để lắng nghe tiếng nói từ nhiều phía ngõ hầu xây dựng một giáo hội tốt lành hơn, hiệp nhất hơn. Sau 30 năm chưa một bước tiến khả quan nào được ghi nhận. Tới đây ta có thể hiểu cái “state of mind” của Tòa thánh.




 GH J.P. II và Hồng y Ratzinger



Tiếng nói của những người có tinh thần xây dựng đã biến họ đứng vào chiến tuyến đối nghịch với Tòa thánh, điển hình như các nhà thần học Hans Kueng, Charles Curran, Edward Schillebeeckx, Jacques Pohier, William Callahan (dòng Jesuit), cha Terry Sweeny, Tổng giám mục Raymond Hunthausen, sister Teresa Kane… Tờ US News & World Report phát hành ngày 17 tháng 11, 1986 chạy một bài với đề tựa “The Pope Cracks Down on American Bishops”. Thần học gia Hans Kung, bị trục xuất ra khỏi chức vụ giảng dạy, kết hợp với một số thần học gia khác đưa ra một cuốn sách nhan đề là Church in Anguish – Has the Vatican Betrayed Vatican II? Để đàn áp sự chống đối, Giáo Hoàng John Paul II tuyên bố: “One cannot believe in Christ without believing in the Church, the body of Christ”. Xin tạm dịch là: “Một người không thể tin ở Đấng Kitô nếu không tin vào Hội Thánh, thân thể của Chúa Kitôi”.

Nhưng thần học giải phóng (liberation theology) vẫn phát triển mạnh tại Nam Mỹ Châu. Vào năm 2000, 70% tín đồ sẽ nằm ở Đệ Tam Thế Giới. Năm 1973, lần đầu tiên thần học giải phóng chính thức được Gustave Gutierrez nói tới. Nhóm nghiên cứu Thần Học và Hội Thánh được thành lập tại Peru, mà hai nhân vật tích cực là Leonardo Boff và Juan Segundo. Trong cuốn A Crisis of Conscience, trang 152, tác giả, Bác Sĩ Barber nói: “Liberation Theology is a worldwinde manifestation for human emancipation”. Xin tạm dịch là: “Thần học giải phóng là một sự thể hiện trên khắp thế giới cho sự thoát quyền của con người”. Thần học giải phóng không đặt trọng tâm vào thần học mà là giải phóng, bắt nguồn từ tư tưởng của những người viết sách Exodus trong Cựu Ước.

Vào thế kỷ 15, một linh mục dòng Dominican là Bartolomé de Las Casas (1474-1566) đứng lên chống lại bọn conquistadors đi tìm vàng để giải phóng cho người Da Đỏ. Thừa hưởng tinh thần Inquisition thời Trung Cổ, Hồng Y Joseph Ratzinger, đứng đầu Congregation for the Doctrines of Faith, đã đóng góp rất nhiều vào cuốn sách Crossing the Threshold of Hope, một loại “bút vấn - bút đáp” giữa Giáo Hoàng và ký giả Messori. Hồng Y Ratzinger không nghe được tiếng nói của Giám Mục Hoa Kỳ, Nam Mỹ Châu, các nhà thần học của Hội Thánh, thì làm sao hiểu nổi được Phật giáo là gì. Nếu nói Giáo Hoàng “phỉ báng” hay nói sai về Phật giáo có lẽ không chính xác. Chúng ta phải hỏi lại Hồng Y Joseph Ratzinger thì rõ hơn.



38. Làm sao sống hòa đồng trong cộng đồng thế giới? Chỉ còn vài năm nữa chúng ta bước sang một thế kỷ mới. Thế giới phải có một “consensus”, trong đó có sự tương nhượng (compromise), tương kính (mutual respect) và nhất là tôn giáo đa nguyên (religious pluralism). Trên thị trường sách trong vài tuần lễ vừa qua, có xuất hiện một cuốn sách đề tựa là The Jew In The Lotus của Roger Kamenetz. Tác giả là một thi sĩ và giáo sư Anh ngữ tại Louisiana State University. Đề tựa cuốn sách dựa vào The Jewel In the Lotus (Một viên ngọc quý trong bông sen). Trong cuốn sách ông đưa ra những cảm nghĩ của người Do Thái trải qua biết bao thế kỷ lưu đày mà vẫn giữ được đạo để san xẻ với Phật giáo Tây Tạng sau mấy chục năm bị đàn áp bởi Trung Cộng. Cuốn sách tường thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Lạt Ma và 8 vị Rabbi người Do Thái. Họ thấy giữa Do Thái Giáo và Phật giáo Tây Tạng cùng chung những trớ trêu của lịch sử, họ thấy gần gũi nhau hơn. Hai bên đều “giác ngộ” (enlightened) trước hoàn cảnh lịch sử đau thương phủ lên tôn giáo họ.

Kitô Giáo và Phật giáo Việt Nam cũng có chung một định mạng lịch sử trong mấy chục năm chiến tranh. Biết bao nhiêu nhà thờ bị đỗ nát, tượng Phật bị bắn thủng mắt, biết bao nhiêu tín đồ hai tôn giáo quằn quại trong trại cải tạo, biết bao nữ tín đồ phải chịu ô nhục ngoài biển cả trên con đường tranh đấu đòi tự do, tôn giáo là thành trì và vũ khí cuối cùng. Thành trì bị chọc thủng, vũ khí bị rỉ sét, quân sĩ chia rẽ, liệu chúng ta có thể tạo được chiến thắng sau cùng hay không? Hẳn là không. Đạo của ai người nấy giữ. Đức tin của ai người nấy theo. Một Giáo Hoàng, một Hòa Thượng hay bất cứ người nào trong chúng ta chưa đủ căn cơ để phê phán các Đấng Giáo Chủ và Tín Lý của các Ngài đã tồn tại mấy ngàn năm nay.



39. Nhà bác học Albert Einstein nói: “The religions of all civilized peoples, especially the peoples of the Orient, are primarily moral religions. The development from a religion of fear to moral religion is a great step on peoples’ lives.” (xin tạm dịch là: Những tôn giáo của những dân tộc văn minh, đặc biệt là những dân tộc của Đông Phương, chính yếu là những tôn giáo dạy luân lý. Sự phát triển từ tôn giáo lấy căn bản là sự sợ hãi sang tôn giáo dạy luân lý là một bước tiến vĩ đại trong đời sống của các dân tộc). Ông nói tiếp: “There is nothing divine about morality; it is purely human affair”. (Xin tạm dịch là: Chẳng có gì là thiêng liêng trong vấn đề luân lý cả; đó chỉ là công việc của con người). Ông lại nói tiếp: “Science without religion is lame, religion without science is blind” (Xin tạm dịch là: Khoa học không có tôn giáo là khoa học què quặt, tôn giáo không có khoa học là tôn giáo mù quáng). (Trích trong Ideas and Opinions, Dell Publishing, Inc. 1954). Tôn giáo mà nhà bác học Albert Einstein nói ở đây là thứ tôn giáo dạy luân lý (moral religion), chứ không phải tôn giáo lấy sự sợ hãi (religion of fear) của tín đồ làm phương tiện. Chỉ có “moral religion” mới là thứ tôn giáo đích thực của thế kỷ 21, mà thế giới mong đợi.




Albert Einstein (1947),


 

Con người hiện đại quá chán ghét những gì gò bó, khuôn mẫu lỗi thời. Con người cần được giải phóng toàn diện trong phạm vi đạo đức. Thần quyền hình như không còn hợp với nếp sống tâm linh của con người nữa. Trí óc con người đã phát triển, mọi điều thiếu hợp lý, thiếu hợp tình, thiếu công bằng, bóp chẹt sự phát triển con người toàn diện sẽ không còn chỗ đứng. Vì thế tôi rất thích thần học giải phóng (liberation theology) của các vị linh mục Nam Mỹ Châu, đang thịnh hành trong Đệ Tam Thế Giới, chiến 70% số tín đồ của Giáo Hội La Mã vào năm 2000.




PHẦN IV
 



Vài hàng góp ý với Luật Sư Phổ, người viết mong có một sự đả thông tư tưởng. Vì phạm vi bài viết không cho phép nói nhiều hơn. Chúng ta đều ngập lụt trong cõi “u minh”, nên có thể có những hậu quả không tốt. Tôi hân hạnh trích lời của Hòa Thượng Thích Mật Thể trong Thế Giới Quan Phật giáo, trang 15: “Muốn tìm hiểu chân lý, trước hết ta phải thành thật với ta, và chớ coi mình là trung tâm điểm của vũ trụ hay lấy mình làm thước đo người chẳng hạn. Phải coi bản ngã của ta, nó có thể biến hóa rất nhiều cách, hòng phỉnh phờ ta vào con đường sai lạc. Ta không nên chiều theo nó quá, phải ngược dòng lại, dẹp hết lòng ích kỷ nhỏ hẹp, tính tự kiêu mê lầm, cùng phê phán lý thuyết này với chủ nghĩa nọ, và mở rộng lòng ta để đón lấy cái có ích cho nhân loại trên mục đích xây dựng hạnh phúc chân chính thiện mỹ”.

Ra tòa hàng ngày, chắc Luật Sư thường nghe “… to tell the truth, the only truth, the whole truth, nothing but the truth, so help me God”. Truth will prevail. Khi đặt bút viết bài này, tôi luôn nghĩ có rất nhiều vị linh mục Kitô giáo uyên bác kinh điển Phật giáo, cũng có những vị cao tăng thấu hiểu thánh kinh và thần học. Tôi ví kiến thức và đức độ các ngài như ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn, kiến thức của tôi về hai tôn giáo chỉ là một cọng cỏ bên khe suối. Những gì tôi viết ra dựa vào những tài liệu có sẵn, nếu độc giả đòi hỏi, tôi xin dẫn chứng.

Vừa viết tới đây, tôi nghe tiếng chuông đổ từ ngôi nhà thờ của người Châu Mỹ La Tinh cách đó một dặm vọng qua cửa sổ. Vừa đọc xong 2 cuốn Apology của Plato và Zenephon, tôi phải viết bài này nên tôi tạm ngưng đọc The Clouds của Aristophane, bây giờ trở lại đọc tiếp.

Kính chào Luật Sư Phạm Văn Phổ.



Hoàng Hà Thanh

         Los Angeles, California

0 nhận xét:

Đăng nhận xét