người đã thú nhận hơn 100 tội lỗi của Giáo hội Công giáo La Mã.
Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014
RA VÀ VÀO NGƯỠNG CỬA HY VỌNG : ĐỌC TÁC PHẨM CỦA GIÁO HOÀNG PHAO LỒ II
Nguyễn Kết
Có hay không có
niềm tin tôn giáo thì ai cũng thừa nhận ảnh
hưởng không thể chối bỏ của tôn giáo trên các
khía cạnh tâm lý, đạo đức, xã hội… của đời sống,
và tác giả hay “nhân vật” của loại sách này hiển
nhiên ảnh hưởng nơi người tín đồ và “người
ngoài” do đó cũng thấy cần thiết phải đọc. Quyển
sách của vị lãnh đạo cho gần một tỷ tín đồ Công
giáo như thế chắc chắn cũng được người không
Công giáo lưu ý đặc biệt, như trường hợp người
không Phật giáo đối với những tác phẩm viết về
Dalai Lama của các tác giả Anh, Đức, Pháp, Thụy
Điển v.v… cùng quyển tự truyện của ngài
Freedom in Exile và rất nhiều bản dịch của
nó. Tuy nhiên nó có tạo được ấn tượng tốt đẹp
lâu bền hay không lại là chuyện khác. Bài phân
tích này có mục đích nhận diện ấn tượng đó, đặc
biệt nơi những khía cạnh ít nhiều liên quan đến
người đọc Việt Nam; vấn đề đặt ra sẽ không hẳn
tác giả thật sự muốn nói gì, mà là dấu ấn của
tác phẩm trên tiềm thức và ý thức người đọc.
NHỮNG SỰ KIỆN
ĐÁNG TIẾC :
1.1. Bản Việt dịch
của quyển sách, có tựa đề Bước Qua Ngưỡng Cửa
Hy Vọng (NXB Thăng Tiến 1995) - từ đây được
gọi tắt là BQNCHV - là một sự kiện đáng tiếc
theo nhiều nghĩa. Được bảo trợ, khuyến khích của
cấp lãnh đạo giáo hội và được thực hiện với một
tập thể dịch, duyệt hùng hậu hiếm thấy ở hải
ngoại nhưng nó có hơi nhiều khuyết điểm làm giảm
giá trị của nguyên tác. Dễ thấy nhất là nơi các
lời giới thiệu, trong sự thần thánh hóa tác giả,
tác phẩm có những điểm phi lý, chẳng hạn như tác
phẩm là một trong những chuyện phi thường mà
Giáo Hoàng đã làm, như cộng sản sụp đỗ và ngài
bị ám sát mà không chết là phép lạ. Phép lạ chắc
chắn không là nguyên nhân và điều kiện trần tục
như khó khăn nội và ngoại tại của các nước cộng
sản, như bác sĩ giỏi và sự cứu trị kịp thời… mà
là một cái gì đó không giải thích hợp lý được.
Đâu là cái như thế trong các biến cố đó? Nếu nói
nó nằm sau các nguyên nhân và điều kiện thông
thường thì càng phi lý hơn, vì nếu những điều
này tự chúng đủ để giải thích hợp lý các biến cố
thì tại sao còn nói đến phép lạ?... Người bình
dân thường vô tình làm hại đến tôn giáo theo lối
đó, làm người khác tưởng chừng tôn giáo chỉ một
mớ mê tín dị đoan.
1.2. Trong khá
nhiều khuyết điểm của tập thể dịch, duyệt 7
người, ở đây có thể kể đến sự sử dụng các thuật
ngữ thần học và triết học. Realism mà dịch thành
“chủ nghĩa thực tiễn” thì còn tạm bỏ qua được.
Nhưng “thực nghiệm” trong tiếng Việt mang ý
nghĩa tích cực (như trong tiếng Anh) mà đem dùng
như positivism (tr.55) thì quý vị tiến sĩ, kỹ
sư, cựu thẩm phán, nhà văn này đang đề nghị
chúng ta bỏ đi thực nghiệm, nền tảng và phương
pháp của khoa học, kể cả tôn giáo học. “Vô thức”
từ lâu được dùng như một khái niệm tâm lý học,
chẳng có liên quan gì đến agnoticism (tr.61) mà
chúng ta thường dịch là quan niệm/thuyết bất khả
tri. Còn “tân chuyển hóa Phúc Âm”? Nếu chỉ nhìn
nhóm từ này thôi, người ta sẽ nghĩ, té ra Phúc
Âm đầy khuyết điểm và do đó người Kitô giáo một
lần nữa phải chuyển hóa, biến đổi nó, làm nó tốt
hơn! Một số khái niệm, ý niệm thần học quan
trọng cũng không được giải thích mà gần như chỉ
được dịch theo lối “one là một, two là hai”,
chẳng hạn “thần học của tự nhiên”, “vật ngẫu
nhiên”, “Đấng Tất Nhiên” - phải chăng các khái
niệm, ý niệm này rất là dễ hiểu đối với người
đọc? Và cách dịch như thế có phản ảnh hiểu biết
của dịch và duyệt giả?
1.3. Cũng cần nói
đến là việc sử dụng những từ ngữ như từ bi, thần
khí, nhân chủ, Thượng đế v.v… trong bối cảnh
Kitô giáo, một điều hiện nay có vẻ phổ biến chứ
không chỉ trong BQNCHV mà thôi. Spirit mà dịch
là “thần khí” thì phải chăng nó phải được hiểu
theo theo tư tưởng Trung Hoa, kiểu “bảo tinh,
tồn khí, dưỡng thần”? Từ bi theo định nghĩa Phật
giáo là ao ước đem niềm vui đến, và lấy đi nỗi
khổ cho mọi loài có tình cảm, tri giác và như
thế không thể dùng để nói về thuộc tính “thương
người vô cùng” của Chúa trời, hay nói đúng hơn,
Thần (1). Tuy trong thời đại của ý thức môi
sinh, Giáo Hoàng cũng đã nói trong vòng riêng
tư, khoảng năm 1987, rằng ngài chắc chắn là các
nhà thần học thế nào rồi cũng “sẽ tìm ra một chỗ
cho thú vật trên Thiên đường”, nhưng bao lâu
điều này chưa thực hiện thì việc nói Chúa từ bi,
Mẹ từ bi là… “cấp tiến”. Người Công giáo Việt
Nam cũng chưa có một thần học với bản sắc riêng
biệt (như trường hợp các đảo quốc Thái Bình
Dương, người da đỏ Mỹ Châu v.v…) trong đó các
khái niệm này có một định nghĩa mới thì việc sử
dụng dễ đưa đến tình trạng lạm phát từ ngữ và
đặc biệt làm người khác nghĩ Kitô giáo cũng quan
niệm con người có thể trở thành Thần, Mẹ Maria
và Thánh Linh.
Vì chẳng hạn từ bi
(hoặc thần khí) là (hai) khái niệm thực nghiệm
Phật giáo (hoặc Lão giáo): Phật (hoặc Lão) giáo
vì chúng bắt nguồn từ hai tôn giáo này, và thực
nghiệm vì các khái niệm này có thể xác minh với
thực nghiệm (empirical verification), ít nhất là
trong triết và mô hình tâm lý học của hai tôn
giáo đó. Trong khi đó thuộc tính "nhân lành vô
cùng" của Thần chưa phải là khái niệm có nội
dung cụ thể để có thể được xác minh (một điều
không ít các nhà thần học xem như tốt, vì cho
đến nay các nỗ lực tái định nghĩa thuộc tính này
để nó có thể xác minh đều có tác động dội ngược
tai hại trên thần học Kitô giáo) và là cái theo
định nghĩa con người không có được.
1.4. Việc làm giảm
giá trị của nguyên tác là một điều đáng tiếc.
Nhưng chính tác phẩm và chủ trương của hàng lãnh
đạo Giáo hội nhằm phổ biến nó đến người đọc Á
Đông nói chung và Việt Nam nói riêng mới là hai
sự kiện đáng tiếc thật sự, không phải vì nó chứa
đựng những khẳng định tiêu cực về một tôn giáo
có nhiều tín đồ ở Á Đông và xem tôn giáo này như
kình địch số một của Kitô giáo, mà vì chúng được
tuyên phán bởi một nhà lãnh đạo tôn giáo được
tin là không thể sai lầm trong vấn đề tín lý.
Trên bình diện học thuật, việc người tôn giáo
này phê phán, đánh giá tôn giáo khác là lẽ
thường. Nhưng BQNCHV không phải là một công
trình khoa học, người đọc bị đặt vào thế tin
hoặc không tin, vì khó mà biết những khẳng định
đó có hay không thuộc về phạm vi tín lý Công
giáo.
Vấn đề trở nên
trầm trọng hơn với người tôn giáo Á Đông chưa
quen với tinh thần phê phán và thường nhìn vấn
đề bằng tình cảm. Người Việt, cũng như người Á
Đông khác, đã đổ rất nhiều máu và nước mắt vì
Kitô giáo - vì niềm tin vào Kitô giáo cũng có mà
vì không chịu tin Kitô giáo cũng có. Chúng ta rõ
ràng hoàn toàn sai lầm nếu không cho rằng oan
trái lịch sử này không tiếp tục ám ảnh người
Việt, và những nhận định về Phật giáo trong
BQNCHV do đó khó có tác dụng nào khác hơn là
khẳng định, nếu không nói đào sâu thêm, hố chia
rẽ: nếu cách đây không lâu nhiều người còn tự
nhắc nhở mình mỗi ngày rằng người Phật giáo thờ
"bụt thần ma quỉ", thì giờ đây người Phật giáo
lại vẫn cũng bị xem như tin thờ một kẻ phủ nhận
cuộc đời, bi quan, tiêu cực, nên xa lánh… người
Phật giáo chắc chắn cũng có kẻ hiểu nông nghĩ
cạn, đồng nhất sự kiện đặc thù với quy luật phổ
cập, và đây là một dịp nữa để họ thấy định kiến
về Thiên Chúa Giáo của mình là đúng. Đó là chưa
kể những Phật - tử - tự - xưng với thái độ cực
đoan cùng những người/ thế lực chực chờ cơ hội
triệt phá sức mạnh của người Việt.
NHẬN XÉT TỔNG
QUÁT
2.1. Theo một khía
cạnh, BQNCHV rất đáng đọc vì nó, qua các câu hỏi
đặt ra, phản ánh sự xao xuyến bất an của người
Công giáo Tây phương về những khó khăn mà họ
đang đối mặt ở cả hai lĩnh vực thần học và thực
tế, và, quan trọng hơn, một ý niệm về phương
hướng giải quyết hoặc thái độ trước các vấn đề
đặt ra mà Giáo Hoàng muốn Giáo hội Công giáo
Roma sẽ theo đuổi. Ở lãnh vực thứ nhất là các
vấn đề hầu như thời nào cũng đè nặng trên các
học giả Kitô giáo: có Thần hay không? Có toàn
năng, toàn thiện hay không? Nếu ngài là tình
thương thì tại sao cái ác lại có ..v..v.. Ở lĩnh
vực thứ hai chính yếu là sự kiện đạo Phật có dấu
hiệu phát triển tại Tây Phương, quan niệm chính
thống về các tôn giáo đó là thế nào, Giáo hội sẽ
làm thế nào để phát triển và đối phó với "nguy
cơ" đó, và cuối cùng những thắc mắc về Giáo hội
với sự trung ương tập quyền có vẻ không còn
thích hợp với thời đại, thái độ "bảo thủ" của
Giáo hội trong vấn đề ngừa thai, phá thai, v.v…
2.2. Một điểm đáng
tiếc, thuộc về các dịch giả, là, họ hoàn toàn
không giúp người đọc hình dung rõ hơn, vì sao mà
người Kitô Giáo Tây Phương có những âu lo, hay
những lối đặt vấn đề như phải chăng Giáo hội
Rôma đang thoái hóa, với Công đồng Vatican II nó
đến ngày tàn, sẽ sụp đổ v.v... Nếu có theo dõi
báo chí, chúng ta có thể biết rằng khủng hoảng
mà Giáo hội Công giáo Roma đang trải qua trong
căn bản là khủng hoảng giáo quyền. Như trình bày
của ký giả Công giáo Thụy Điển Gunnel Vallquist
trong bài báo cáo dài trong đó bà lượt qua các
tác phẩm có thẩm quyền về vấn đề này (2), đó là
sự mâu thuẫn giữa "Roma" và một bộ phận lớn của
Công giáo. "Roma" đại khái là Giáo hoàng Gioan
Phaolồ II, Thánh bộ Đức tin (?) và một số thần
học gia gần mặt trời, trước và trên hết các
chuyên gia thuộc Thần Học viện Lateran. Bộ phận
đối lập là một số lớn thần học gia, linh mục,
không ít giám mục ở rải rác khắp thế giới và,
tất nhiên, nhiều giáo dân Tây phương.
Gunnel Vallquist,
link:
http://www.svenskaakademien.se/en/the_academy/members/-
gunnel_vallquist_1?UsePrintableVersion=true
Vallquist và các
tác giả bà đề cập vẽ ra một bức tranh xám ngắt,
một phía là một triều đình phong kiến cổ hủ xa
lạ với thời đại dân chủ và do đó hầu như luôn
luôn vụng về hay thô bạo hoặc sai lầm trong cách
giải quyết vấn đề, và phía khác là những phản
kháng thoạt đầu thầm lặng nhưng càng lúc càng có
vẻ to tiếng, của những người kính yêu Giáo Hoàng
rất mực nhưng đồng thời đau xót khi thấy ông
phạm hết ngộ nhận này đến sai lầm khác. Theo tác
giả bài viết, tâm trạng chung của nhiều người
Công giáo Tây Phương hiện nay được diễn tả xác
thực với kết luận của Linh mục J.Dunn, "I think
that John Paul II is a good saintly man who has
done a lot of harm to the church in my
generation." (Theo tôi Gioan Phaolô II là một
người tốt lành thánh thiện nhưng đã làm hại rất
nhiều cho Giáo hội trong thế hệ của tôi.)
Ngược với thái độ
chua xót và gần như tuyệt vọng của các tác giả
bà đề cập, Vallquist đã tỏ thái độ lạc quan;
theo bà đã có những giám mục nói rằng, "Chúng
tôi đã nghiêm cẩn lắng nghe Roma, nhưng chúng
tôi không tin tưởng, và vấn đề phải được nghiên
cứu kỹ lưỡng hơn." Nếu trình bày của bà đúng thì
người "giáo dân tầm thường" đặt câu hỏi để Giáo
hoàng trả lời và lo việc nhuận sắc và xuất bản
tác phẩm, ký giả người Ý Victorio Messori, qua
thái độ đối với những câu trả lời của Giáo Hoàng
đã cho thấy ông thuộc về một thiểu số vẫn còn
tin vào một giáo điều hiện không còn hiệu lực:
Roma đã phán quyết, vấn đề đã giải quyết -
roma locutta, causa finita!
2.3. Những "thắc
mắc" như thế lần đầu tiên được một "giáo dân tầm
thường" đặt ra cho vị lãnh đạo tối cao, và được
trả lời. Giáo hoàng hiển nhiên thấy đây là cơ
hội tốt để "làm việc tông vụ", vì ngài trả lời
rất kỹ lưỡng, nhiều hơn yêu cầu đặt ra ban đầu
và với mục đích rõ rệt là viết sách (trong khi
nhà Thăng Tiến làm người đọc có cảm tưởng đó là
một thu tập những câu trả lời tức thời trong một
cuộc phỏng vấn trực tiếp!). Trong bối cảnh lịch
sử Giáo hội, đây đúng là một biến cố. Nhưng đặt
trong bối cảnh thời đại thì dù sao nó cũng là
một "biến cố bình thường" mà thôi; các nhà lãnh
đạo tôn giáo ngày nay nói chung không vị nào
đứng yên trong tháp ngà thần thánh của mình.
Điều đáng nói ở
đây là, qua tác phẩm, người đọc thấy sự cương
quyết, không nhân nhượng của một người thách
thức với xu thế thời đại và tự tin rằng ông ý
thức sáng tỏ về những khó khăn mà ông, và giáo
hội "của ông" đang và sẽ gặp. Những nhà thần học
không được cấp phép thi thố tài năng chuyên môn
hoặc bị lên án "cấp tiến" sẽ không thấy có hy
vọng gì vào một đường hướng mới mẻ nào đó. Nếu
nhìn như thế, người đọc có lẽ sẽ không còn lấy
làm lạ rằng nhiều vấn đề nóng làm bận lòng giáo
dân hiện nay, như Giáo hội thật sự đứng về phía
nào trong vấn đề bất công xã hội ở các nước Công
giáo Mỹ Châu, vấn đề linh mục lập gia đình, phụ
nữ đòi làm linh mục.v.v... đã không được đề cập.
Và nếu nhìn như
thế, người đọc có thể thấy "giữa những hàng chữ"
là khá nhiều điều gợi ý rằng, giải pháp đối trị
vấn đề mà Giáo Hoàng nghĩ đến đang nằm ở các
giáo hội ở các quốc gia ngoài Tây Phương, các
giáo hội của các giáo dân trước đó theo các tôn
giáo "sơ khai", "thờ linh hồn", các giáo hội
hiện nay tuy vẫn ít tín đồ nhưng mạnh mẽ trong
niềm tin, trung thành với Roma, không (hay chưa
gặp?) vấn đề như ở Tây phương.
2.4. Tuy nhiên
người đọc chắc chắn là sẽ thất vọng nếu muốn có
một cái nhìn cụ thể về Giáo Hoàng như một con
người. Ngài chẳng hạn không nhắc đến rất nhiều
những nhân vật tôn giáo quan trọng mà mình đã
gặp, và nếu nhắc - điều rất hiếm! Thì có vẻ miễn
cưỡng, nhắc vì không thể không nhắc, nhưng ngược
lại hoàn toàn không cho biết cảm nghĩ tức thời
của mình như thế nào. Vì sự phát triển của Phật
giáo ở Tây Phương được xem như một vấn đề mà
Dalai Lama được nhắc đến, chỉ như "một hình ảnh
rất quen thuộc đối với Tây Phương mà tôi đã gặp
một vài lần. Ông đem Phật giáo đến với người
Kitô Tây Phương, làm nhiều người thích thú với
những phương thức tu tập và cầu nguyện Phật
giáo". Nhận xét này có thể chỉ là do tính tình
khép kín của Giáo hoàng, nhưng nó có thể cũng
làm người đọc nghĩ đến một lời cảnh cáo, kiểu
"Coi chừng, người đó nguy hiểm lắm!" cũng như có
thể vẽ ra trong trí mình hình ảnh hai địch thủ
gặp nhau trong sự thủ thế cẩn thận, rất là khác
với trạng thái tự tại cởi mở của Dalai Lama như
được ngài kể lại trong tự truyện (3). Nhận xét
này càng thêm chắc chắn hơn nếu chúng ta biết,
Giáo Hoàng đã từng đưa lời cảnh cáo những tu sĩ
và nhà thần học thực hành các phương pháp tu tập
Á Đông hoặc đề nghị sử dụng "thần học" và triết
tôn giáo Á Đông, và ngay trong tác phẩm, thì
trong số nhiều nhân vật Islam/Hồi giáo Giáo
hoàng chắc chắn đã gặp, ngài chỉ nhắc đến một
người mà ngay lúc thưởng thức cái đẹp cũng không
quên "căn cước" của cái đẹp đó: không là Islam
thì chưa hoàn toàn (tr.110).
Dalai Lama thứ 14,
2.5. Nếu muốn biết
rõ rệt Giáo Hoàng đã nghĩ sao về mình như
vicarius christi, "Kẻ thay thế Đấng Cứu Thế
[trên trần gian]", thì người đọc cũng không được
thỏa mãn. Câu hỏi này là một trong những quan
tâm hàng đầu của người Công giáo Tây Phương hiện
nay, một phần vì họ đối mặt với phương pháp sử
học trong việc học hỏi về Kitô giáo – và nhìn từ
phương pháp này, một ý niệm như thế có vẻ mâu
thuẫn với Kinh Thánh, như chính tác giả đã nói
(tr.31) - và phần khác vì nó chứa đựng khá nhiều
vấn đề thần học tế nhị vẫn là đề tài tranh luận
giữa các hệ phái Kitô khác nhau. Có lẽ chính vì
thế nên một lập luận hiểu được cũng như một kết
luận sắc nét, mới lạ là điều rất khó thấy nơi
câu trả lời của Giáo Hoàng. Phải chăng vì thế
nên Linh mục Hồng Phúc, ngay từ đầu, đã rán giúp
người đọc hiểu rõ, rằng Giáo Hoàng tuy nói hơi
mờ ảo như thế nhưng tư cách và bản chất của
"đấng Đại Diện Thiên Chúa" vẫn nên được hiểu như
xưa (tr. 13-21)?
2.6. Thật ra,
nhiều vấn đề đặt ra đã được trả lời mà không trả
lời gì cả. Đó là những tín niệm không thể xác
minh, chẳng hạn tính độc nhất vô nhị của Chúa
Giêsu. Điều này người Kitô giáo nói chung chẳng
những không có gì để phàn nàn mà đôi khi còn
trình bày nó như thể đó là một chuyện đáng hãnh
diện. Việc Giáo Hoàng đã nhắc đến Kitô luận và
Maria luận (Christology; Marialogy) và dùng đến
6 trang giấy (tr. 65-71) để nói về điều này có
thể gây cảm nghĩ Ngài như thế là đã phát họa một
lý luận. Thật ra thì những luận thuyết đó chỉ mô
tả niềm tin: Giêsu là "Con trời", được một trinh
nữ hoài thai qua trung gian Thánh linh, chịu
chết vì loài người, phục sinh, về trời và sẽ trở
lại trong ngày Tận thế để phán xét kẻ sống và
người chết. Nghĩa là Ngài chỉ làm hai việc: (i)
lấy niềm tin này khẳng định niềm tin khác, và
(ii) vì truyền thống tin nên chúng ta cũng phải
tin như thế. Đặt sau câu trả lời cho câu hỏi
"Thần có hay không? Chứng minh sự hữu của Thần
ra sao?" (tr. 51-59) thì những gì Ngài nói về
các vấn đề như thế có vẻ vững chắc tuy chúng
không thật sự được lý luận. Tuy nhiên nếu nghĩ
như thế thì người đọc sẽ nhầm (xem 3.5).
2.7. Tất nhiên là
Giáo Hoàng có lý luận và ngài tin mình lý luận
hợp lý. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp lý luận
hợp lý của Ngài chỉ có giá trị đối với người đã
sẵn chấp nhận các tín điều Kitô giáo, hay chính
xác hơn, Công giáo chính thống. Một trường hợp
điển hình là như sau. Sau khi đã "chứng minh" sự
hiện hữu của Thần, Giáo hoàng nói đến "sự kiện"
Thần không "ẩn mặt", không che dấu sự hiện hữu
của Ngài, mà đã hiển lộ cho người biết, nhưng sở
dĩ có thêm nhiều tôn giáo, sở dĩ Thần có vẻ như
chơi trò cút bắt làm khổ con người là vì con
người mù lòa, không chịu thấy, không muốn thấy
Thần quá gần gũi với mình: "Chúng ta hãy cố gắng
lý luận vô tư: Thần còn có thể đi xa hơn nữa
trong việc hạ mình xuống, tiến tới gần con
người, để nhờ đó mà chúng ta được hiểu biết
Ngài? Thật ra Ngài có vẻ đã đi quá xa khả năng
của mình […] Loài người chẳng thể chấp nhận hơn
nữa mức độ gần gũi như thế, và vì thế mà phát
sinh những phản kháng… lớn lao nhất… là Pháp
đường [Do Thái] và rồi Islam." (tr.63; Giáo
Hoàng nhấn mạnh).
"Lý luận vô tư ở
đây hiển nhiên không thể hiểu được nếu chúng ta
không thêm vào ngoặc […] nhóm từ "bằng việc (gửi
Con mình) xuống thế làm người, chịu khổ, chịu
chết". Vấn đề là thêm chúng thì lý luận trên
không thể gọi là "vô tư". Và nếu Thần "chẳng thể
đi xa hơn được nữa, thì phải chăng khả năng của
Ngài có giới hạn, không là toàn năng?
2.8. Thế nên trong
toàn bộ tác phẩm, Giáo Hoàng chỉ nhìn mọi sự
theo một quan niệm Kitô giáo rất đặc thù. Quan
niệm này đáng tiếc là trở nên tai hại khi nói
đến tôn giáo khác. Đề cập đến hai tôn giáo độc
thần Do Thái và Islam, tác giả rất là nhẹ tay,
đến độ chỉ nói tốt cho Do Thái giáo. Nhưng trích
dẫn ở trên, dễ dàng - nhất là kế đó nó còn được
giải thích rõ hơn - cho thấy rằng trong quan
niệm của Giáo Hoàng, không chấp nhận Giêsu như
đấng Cứu thế nhất định có nghĩa là chối bỏ Thần,
và ngài nhấn mạnh, "con người xét xử Thần (Chúa
trời) không đặt căn bản trên chân lý nhưng trên
sự lạm quyền và âm mưu được toan tính” (tr.86).
Người của hai tôn giáo này, và chẳng những thế
mà hầu như tất cả những ai nghĩ khác với tác
giả, đều có thể cảm thấy mình bị kết án trong
nhận định đó, chẳng những vì Ngài nói thêm rằng
nó là "chân lý lịch sử của nhân loại, chân lý
lịch sử trong thế kỷ chúng ta", mà còn vì ý tứ
này được thấp thoáng tại nhiều nơi khác trong
sách. Người không tôn giáo, ví dụ, tuy có thể
chẳng quan tâm gì với nhận định đó, nhưng ở nơi
khác (tr.201), họ lại được nhắc nhở rằng "thế
giới hữu hình không cung ứng những căn bản khoa
học biện minh cho một lối giải thích vô thần về
thực tại cuộc sống, trong khi suy tư lương thiện
sẽ tìm ra đủ yếu tố trong thế giới để đi tới một
kiến thức về Thần. Như thế cái nhìn vô thần trở
thành phiến diện và trở thành có dụng ý."
2.9. Nói rộng hơn
nữa thì quan niệm này trong một vài trường hợp
có thể còn tai hại cho cả người Công giáo. Nói
về việc người Kitô giáo vẫn còn là thiểu số ở Á
Đông, tác giả nói rằng nguyên nhân là vì "truyền
thống của những nền văn hóa rất xa xưa… vẫn còn
ảnh hưởng rất mạnh tại Đông Phương" (tr.100).
Thoạt tiên cách nhìn như thế trông có vẻ hiển
nhiên. Nhưng đáng lý một người như Giáo Hoàng
không nên nghĩ đơn giản như thế. Vì nếu thế thì
phải chăng những người Kitô giáo Á Đông thì
không chịu nhiều ảnh hưởng truyền thống, hoặc do
không chịu nhiều ảnh hưởng truyền thống mà thành
Kitô hữu? Phải chăng sự phát triển của Công giáo
ở Á Đông đã, và sẽ được trả bằng giá của sự từ
bỏ hay đánh bật gốc các giá trị truyền thống?
Quan niệm này có liên hệ gì với việc, ví dụ, các
Giáo Hoàng trước Công đồng Vatican II lên án,
không cho phép người Công giáo Á Đông thờ cúng
tổ tiên để rồi tục lệ này bây giờ được xem như
gần gũi, dọn đường cho sự phát triển Công giáo
(tr.102)?
Dù sao, khi cho
rằng sự thờ cúng tổ tiên gần gũi và có vẻ như
dọn đường cho đức tin Công giáo, tác giả đã gián
tiếp nói sự lên án trước đây là sai. Khi sự việc
này là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến
vua quan và các nhà Nho cho rằng người Công giáo
tân tòng là theo tà ma ngoại đạo, khiến chỉ ở
Việt Nam thôi mà đã có hàng trăm ngàn giáo dân
chịu chết và nhiều người Việt một phần vì thế mà
chia cách hiềm thù nhau đời này qua đời khác,
thì Giáo Hoàng có nên đưa ra một lời xin lỗi,
như ngài đã làm với người Phi châu và dân da đỏ
Mỹ Châu?
BQNCHV như một
vấn đề nhận thức
3.1. Ở trên chúng
ta đã thấy lý luận của Giáo Hoàng thiếu giá trị
phổ biến và, ngay trong phạm vi Kitô giáo, có
trường hợp còn chứa đựng hay dẫn đến những vấn
đề chưa có câu trả lời hợp lý. Quan niệm tôn
giáo của Ngài vì thế cũng không đủ bao dung và
đủ rộng để người không Kitô và không tôn giáo
thấy tôn giáo/quan niệm sống của mình có quyền
hiện hữu trong trình bày của tác giả. Quan niệm
này sẽ đưa chúng ta đến đâu?
3.2. Trở lại
trường hợp tác giả trách người Do Thái giáo và
Islam, rằng bằng sự không nhìn nhận Chúa Giêsu
như đấng Cứu Thế họ đã chối bỏ Thần (xem 2,8),
chúng ta có thể khẳng định ngay, rằng lý luận
này không tương hợp, ít nhất là với bối cảnh sử
tôn giáo trong khoảng thời gian 2,3 thế kỷ trước
và sau Tây lịch. Đó là thời của những "đấng Cứu
Thế". Người Do Thái bây giờ đau khổ do nạn thống
trị của La Mã và mong đợi, như tín ngưỡng của họ
qui định, một đấng thần nhân đến giải phóng Do
Thái khỏi ách thống trị và xây dựng lại Nước
Trời, một đấng Cứu Thế hay Con Trời (Con Trai
Thần) (4). Thế là liên tiếp xuất hiện những
người được tin thờ như Đấng Cứu Thế Con Trời, vì
tất cả đều rao giảng về việc "Nước Trời sắp đến"
và con người phải chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận
sự Phán Xét. Trong những người này, có kẻ cũng
như Giêsu, được tin là sinh ra theo một cách thế
thần thánh, sống lại sau khi chết, và có thể,
như Di thư Quram (5) cho biết, có kẻ còn sinh ra
để chịu chết vì con người.
Giêsu được biết
như đấng Cứu Thế vì niềm tin vào Ngài không chết
đi theo cái chết của Ngài, mà chẳng những thế
còn làm tân giáo phái hình thành quanh Ngài trở
thành một tôn giáo thế giới. Nhưng người Do
Thái hiển nhiên có lý do để không thể chấp nhận
Giêsu: đã có nhiều đấng Cứu Thế, vậy biết ai là
thật, nhất là khi các "đấng Cứu Thế" đều không
đem lại bình an cho Do Thái (tái lập lại Nước
Trời)? Mặt khác, nếu Thần muốn để con người
biết Ngài qua Giêsu nhưng bên cạnh đó còn để
hàng loạt "đấng Cứu Thế giả" làm rối lòng người
(và làm quân xâm lăng có lý do xiết chặt gọng
kìm thống trị), thì phải trách Thần chứ sao lại
trách người Do Thái?
Thế nên lý luận
của Giáo Hoàng ở điểm này không đi sát với thực
nghiệm, ở đây là hiểu biết sử học.
3.3. Chúng ta cũng
có thể thấy điều này với một sự kiện xảy ra ngay
trong thời hiện tại. Trong nỗ lực biện minh dựa
hoàn toàn trên khoa học cho quan niệm sống của
mình, những người không tôn giáo hiện nay phát
triển được một dạng vô thần luận nhất quán và
giải thích được nhiều dạng thức kinh nghiệm của
con người, kể cả kinh nghiệm đạo đức, kinh
nghiệm tôn giáo, đặc biệt theo một cách khiến sự
hiện hữu của tôn giáo được chấp nhận. Có thể
thấy, trong khung giải thích của vô thần luận
này vẫn có nhiều điểm không như ý, nhưng một căn
bản khoa học cho quan niệm như thế rõ ràng không
thể nói là không có (xem 2.8). Và nếu suy tư
trên căn bản những hiểu biết chắc chắn của khoa
học mà là không lương thiện thì phải chăng khoa
học trong căn bản là không lương thiện?
Được bao quanh bởi
một đội ngũ hùng hậu các chuyên gia mọi ngành mà
tác giả lạ lùng thay lại không biết đến sự kiện
phổ biến trong khoa học và tư tưởng giới này. Dù
sao đi nữa thì chúng ta một lần nữa thấy tư duy
của Giáo Hoàng có chỗ quá hẹp để có thể tương
hợp với thực tế. Một điểm đáng suy nghĩ là, nếu
người không tôn giáo có một căn bản lý thuyết
cho sự bao dung tôn giáo, thì chắc gì các tôn
giáo thiện hơn nếu chưa thể dung tha nhau trong
căn bản lý thuyết?
3.4. Chẳng những
lý luận của tác giả khiến chúng ta gặp khó khăn
khi đối chiếu với thực nghiệm, mà khi Ngài đề
cập đến thực nghiệm chúng ta cũng gặp vấn đề, đó
là đồng nhất kinh nghiệm về thực tại với chính
thực tại, vì như Ngài nói, "… con người [bây
giờ] có khả năng từ một nền tảng vững chắc để đề
cập tới kinh nghiệm nhân linh, kinh nghiệm luân
lý và kinh nghiệm tôn giáo… Và nếu như thế… thì
thật là khó chối bỏ rằng ngay trong lòng kinh
nghiệm con người, người ta cũng phải thấy đâu là
điều thiện, đâu là điều ác, đâu là chân lý, đâu
là vẻ đẹp, và đâu là Thần." (tr. 56-7).
Như nhiều người
Kitô giáo khác, Giáo hoàng có thể do kinh nghiệm
tôn giáo của mình (chẳng hạn cảm nhận một tình
thương vô hạn lượng nào đó phủ trùm lên Ngài) mà
khẳng quyết tình thương đó là từ Thần và như thế
một vị Thần nhân lành phải có. Nhưng người tôn
giáo khác cũng có kinh nghiệm tôn giáo/huyền bí,
và họ không thấy như Ngài, mà thấy các vị Phật
hoặc Bồ Tát hoặc thấy Pháp thân (Dharmakaya)
hoặc thấy Đạo (Dao/Tao) v.v... thì sao? Đó là
những sự kiện không thể phủ nhận vì chúng được
kiểm chứng, ví dụ nơi các thiền gia hoặc ví dụ
như những người được khơi động với thuốc LSD …
theo tiêu chuẩn khoa học chặt chẽ. Nếu theo đúng
quan niệm của tác giả, những người có kinh
nghiệm thấy Phật, ví dụ, tất nhiên phải nói thực
tại tối thượng là Phật!
Đó có thể là một
sai lầm chí tử, cả cho mình lẫn cho người, mà
chúng ta thấy suốt lịch sử nhân loại. Nhiều tân
giáo phái đã phát sinh từ sự đồng nhất kinh
nghiệm và thực tại, và để nói về một trường hợp
hại mình hại người thì, nếu tôi thấy Chúa Giêsu
trở lại Xét Xử thế gian và đón tôi và những
người đồng tín ngưỡng với tôi vào Nước Trời, và
nếu không có một quan niệm vững chãi về kinh
nghiệm tôn giáo, thì tất nhiên chúng tôi vui
lòng tự sát. Ví dụ này có thể là trường hợp của
những giáo phái Tận Thế (mà chỉ mới được biết từ
năm 1978 đến nay (6), vì theo nghiên cứu hiện
đại về kinh nghiệm huyền bí và kinh nghiệm tôn
giáo (cũng như theo đạo Phật!), dạng thức của
các kinh nghiệm này lệ thuộc nhiều vào các tín
điều tôn giáo mà một người có. Các "Đấng Cứu
Thế" mà chúng ta đã đề cập ở trên như thế có thể
không hẳn là "của giả", họ có thể rất thành thật
nếu cho mình là Con Trời, vì họ sinh ra trong
bối cảnh của sự chờ đợi ngày Phán Xét.
3.5. Hiểu biết có
được do sự nghiên cứu về kinh nghiệm tôn
giáo/huyền bí nêu trên cho thấy sự phổ cập của
một nhận thức khoa học thực nghiệm theo đó thực
nghiệm và sự khảo sát luôn luôn bị khuôn nắn,
nhuộm màu bởi lý thuyết: lý thuyết/quan niệm là
một cặp kính qua đó nhà khoa học/người nhìn sự
vật, cùng nhìn một hiện tượng nhưng cái thấy của
những người với góc độ lý thuyết hay lăng kính
khác nhau sẽ không giống nhau. Do biết rằng cái
nhìn thực tại của mình đã bị qui định bởi một
khuôn mẫu (paradigm) nhất định và như thế luôn
luôn có giới hạn, người khoa học sẵn sàng lắng
nghe những giải thích thực tại khác. Do đó, nếu
Giáo Hoàng chỉ vì thấy thái độ cởi mở của họ
trước giải thích thực tại của tôn giáo (tr.201)
mà buồn lòng, nghĩ họ không hợp lý khi cố tình
không chấp nhận Thần giáo thì Ngài đã lầm lớn:
nếu cái được thấy qua một khuôn mẫu khoa học là
một mảnh thực tại bị biến dạng, thì thực tại
theo một khuôn mẫu tôn giáo nào đó cũng không
phải là chính thực tại, nhất là nếu khuôn mẫu đó
không được xây dựng trên thực nghiệm chặt chẽ mà
trên tín điều không thể xét nghiệm.
Chính vì thế mà
con người thời nay tuy tái khám phá chiều kích
tôn giáo của đời sống nhưng không dám quả quyết
đằng sau đó là cái gì, mặc cho Giáo Hoàng than
trách (ví dụ, tr. 55).
3.6. Chúng ta có
thể ngờ rằng Giáo Hoàng không có một cái nhìn
phiến diện như thế về kinh nghiệm tôn giáo, rằng
có lẽ theo Ngài nó chỉ là một phần trong chứng
minh về sự hữu của Thần mà thôi. Quả thật Ngài
đã khẳng định rằng không một ai có thể kinh
nghiệm Thần một cách trực tiếp (tr.57). Nếu đây
là tín niệm phổ biến, nó có thể là một trong các
nguyên nhân làm người Kitô giáo không kinh
nghiệm mà thường chỉ cảm nghiệm. (Cảm
trước cái đẹp.v.v... rồi liên tưởng đến Thần và
nghiệm rằng cái đẹp đó là công trình của
đấng Sáng tạo, khác với kinh qua chính sự
Sáng Tạo của Thần rồi nghiệm lại sự kiện
đó). Dù sao thì theo Giáo Hoàng, sự hữu của Thần
không chỉ là niềm tin thuần túy, mà còn có thể
lý luận, và bên cạnh kinh nghiệm tôn giáo, lý
luận này nếu có thì không còn gì để không tin
vào sự hữu của Thần. Ngài tin là chứng minh này
có.
Quả thật trong
toàn bộ BQNCHV, lập luận rõ rệt nhất của tác giả
là lập luận về sự hữu của Thần. Theo phác họa
của Ngài, việc chứng minh dựa vào (i) sự tái
nghiên cứu "Ngũ Phương Aquinas", tức năm phương
thức mà Thánh Thomas Aquinas đề ra để chứng minh
sự hữu của một Thần Sáng Tạo (tr.51-54) và (ii)
vận dụng những hiểu biết đem đến từ triết ngôn
ngữ, triết tôn giáo hiện đại trong đó quan niệm
duy nghiệm - hay "chủ nghĩa thực nghiệm" theo
cách gọi của các dịch giả - bị xem như lỗi thời
(tr.55-59).
3.7. Tuy nhiên như
đã đề cập, kinh nghiệm tôn giáo không chỉ có
trong Kitô giáo mà còn có trong Ấn giáo, Phật
giáo và trên lý thuyết mọi tôn giáo (cả thiện
lẫn bất thiện). Do đó sự song hành giữa kinh
nghiệm, nhất là nếu kinh nghiệm này chỉ là cảm
nghiệm, và chứng minh thuần lý chưa đủ để nói về
giá trị chân lý của cái nằm sau kinh nghiệm;
người thờ Satan có thể dễ dàng "kết hợp" kinh
nghiệm của mình và một dạng biến chế lý luận của
Thánh Aquinas mà khẳng định rằng Satan mới là
đấng Sáng Tạo Tối Cao. Dù sao thì như được phân
tích trong một luận án triết tôn giáo, lý luận
của Thánh Aquinas, cũng như mọi nỗ lực lý luận
về sự hữu của Thần mà các thần học gia và tư
tưởng gia Kitô giáo đưa ra, đều chưa đi đến đâu
cả. (7)
3.8. Các phân tích
ở trên cho thấy hai khiếm khuyết trong căn bản
lý luận của Giáo Hoàng, khiến chúng ta (i) khó
so chiếu luận lý với hiểu biết thực nghiệm để
điều chỉnh lý luận của mình, và (ii) khó có quan
niệm nhất quán và đủ sâu sắc khi đề cập đến thực
nghiệm. Chỉ với hai điều này thôi chúng ta đã
không thể thoát ra khỏi sự kềm chế của cái gọi
là "tự tôn văn hóa" (ethnocentrism), xu hướng
nhìn sự vật theo lăng kính tôn giáo/chủng tộc
(ethnos) hoặc nói chung văn hóa gọi là ưu việt
của riêng mình. Thói tật này ai cũng có, văn hóa
nào cũng có - có thể nói nó là một thôi thúc tâm
lý lúc nào cũng khiến con người để mình dính mắc
vào thành kiến, quan niệm, hiểu biết sẵn có - và
nó đã đưa đến những ảnh hưởng tai hại. Trong
nghiên cứu về các nền tôn giáo và văn hóa xa lạ
với Tây phương, ý thức được điều này nên giới
chuyên gia hiện nay luôn cố gắng tránh, để có
thể mô tả khách quan, trung thực, để người của
một tôn giáo, ví dụ, có thể nhận ra tôn giáo
mình trong mô tả của nhà khoa học. Mọi phê phán
về một tôn giáo theo đó cũng phải thực hiện
trong tinh thần đó. Tác giả BQNCHV do những sơ
suất nêu trên nên có vẻ đã không tránh được điều
này. Và khi Ngài không nhìn hai tôn giáo anh em
Do Thái và Islam theo một cách khiến người hai
tôn giáo này có thể chấp nhận được, thì cái nhìn
của Ngài đối với Phật giáo càng sai lệch trầm
trọng, vì căn bản tư duy của Phật giáo và của
Kitô giáo hoàn toàn khác nhau.
Giáo hoàng Gioan Phaolồ II (1920-2005),
người đã thú nhận hơn 100 tội lỗi của Giáo hội Công giáo La Mã.
người đã thú nhận hơn 100 tội lỗi của Giáo hội Công giáo La Mã.
Link:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Gioan_Phaol%C3%B4_II#cite_note-15
;
http://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_c%C3%A1c_l%E1%BB%9Di_xin_l%E1%BB%97i_c%E1%BB%A7a_Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Gioan_Phaol%C3%B4_II
NGỘ NHẬN VỀ PHẬT
GIÁO
4.1. Về Phật giáo
và khác biệt căn bản giữa Phật giáo và Kitô giáo
(hoặc Thần giáo nói chung), Giáo Hoàng khẳng
định:
"Giáo lý giải
thoát của Phật giáo là trung tâm điểm của đạo
Phật, hoặc nói đúng hơn đó là điểm duy nhất mà
hệ thống này có… cả truyền thống Phật giáo lẫn
những phương pháp bắt nguồn từ đó đem đến một sự
giải thoát luận hoàn toàn tiêu cực. Sự giác ngộ
của Phật thu gọn trong niềm tin rằng thế giới là
ác xấu, nguyên nhân của cái ác xấu và đau khổ
của con người. Để tự giải thoát khỏi cái ác,
người ta phải giải thoát chính mình khỏi thế
giới… Sự giải thoát này không có nghĩa là hội
thông với Thần, mà là Niết Bàn, trạng thái triệt
để dửng dưng với thế giới."
Đó là dịch theo
bản Anh ngữ. Trong bản Việt dịch, "giáo lý giải
thoát", "giải thoát luận", "giác ngộ"… được gọi
là "giáo lý về ơn cứu độ", "thần học cứu rỗi"
"được khai ngộ"… (tr.105). Đã chủ trương tự giải
thoát, không đề cập đến Thần và sự cứu rỗi (của
Thần) mà còn nói đến "ơn", "thần học cứu rỗi", …
thì Phật giáo quả kỳ cục, chỉ có thể nhìn chính
mình bằng khuôn khổ của các khái niệm Kitô giáo.
May là còn giữ được từ cứu độ, nghĩa là giúp đỡ
để một người nỗ lực tự cứu!
4.2. Cái nhìn của
Giáo Hoàng cho rằng người Phật giáo "tự giải
thoát chính mình khỏi thế giới", "dửng dưng với
thế giới" sẽ làm chúng ta hụt hẫng khi so chiếu
với sự kiện lịch sử. Nó quả có vẻ phù hợp với
một số sự kiện, quen thuộc nhất là Phật giáo Ấn
Độ sau thời Phật khoảng 100 năm đã lãng quên
người đời, bận tâm với nỗ lực thuyên giải giáo
lý và có bộ phái cho rằng chỉ tu sĩ mới có thể
giác ngộ. Nhưng nó không giúp giải thích hợp lý,
vì sao có một phong trào chống đối lớn rộng xảy
ra sau đó. Nếu chủ nghĩa xuất thế là chủ trương
của Phật, tại sao phần lớn đệ tử Phật lại đòi
hỏi ngược lại? Nó cũng không giải thích hợp lý
sự kiện Phật đã không ở rừng sâu núi thẳm sau
khi giác ngộ mà trở lại với người đời - những
kinh sách Phật giáo cổ nhất tuy được ghi thành
văn bản trong "thời kỳ Phật giáo xuất thế" và
như thế ít nhiều gì cũng bị ảnh hưởng bởi thời
gian và hoàn cảnh (như giáo lý duyên sinh nói),
nhưng qua đó người ta có thể thấy, trong lịch sử
tôn giáo có thể chưa có một vị Giáo Chủ nào có
nhân cách như Phật và tích cực hơn Phật trong
việc giáo hóa người đời (8).
Những gì Phật dạy
cũng không phải là từ bỏ đời sống, mà là cách
thế sống có lợi cho cá nhân và xã hội, những giá
trị tâm lý đạo đức phổ cập không giới hạn bởi,
hoặc nếu không thì dễ dàng thoát khỏi, điều kiện
văn hóa đặc thù của Ấn Độ. Tại sao Phật lại làm
thế khi Ngài đã “triệt để dửng dưng với thế
giới”? Và tại sao những người đi theo con đường
Phật thuộc mọi truyền thống Phật giáo và mọi
quốc gia có mặt Phật giáo gần như luôn luôn cố
gắng để làm nhiệm vụ những bậc thầy tâm linh và
đạo đức cho cuộc đời chứ không là nhà khổ hạnh
xa lánh xã hội?
4.3 Thế nên những
nhận xét của Giáo Hoàng sẽ đưa chúng ta đến một
quan niệm lịch sử độc nhất vô nhị: xem những
biệt lệ đặc thù như mô thức phổ cập như biệt lệ
hoặc không có. Tất nhiên chúng ta không thể chấp
nhận như thế trừ phi có người chứng minh được
rằng những sự kiện được biết chắc chắn sau đây
là không có. Đó là các triều đại hùng mạnh, văn
hiến huy hoàng, với những vì vua sống như tu sĩ,
những tướng lãnh, văn nhân, triết gia, thi sĩ
Phật giáo ở Ấn Độ, Miến Điện, Tây Tạng, Tích
Lan, Triều Tiên, Trung Hoa, Việt Nam v.v… Đáng
tiếc là đã có khá nhiều người Việt chấp nhận
quan điểm đó, rồi không phải tốn công sức gì cả
mà có thể thấy thời Lý, Trần chỉ có nơi người
giàu tưởng tượng, Nguyễn Trải, Nguyễn Du… tuy
mang hơi quá nhiều tư tưởng Phật giáo nhưng chỉ
trong những văn thơ thù tạc chúng ta mới biết
chân diện mục của họ! Và biết đâu quan niệm đó
còn đang giúp một vài người nào đó ngồi yên
thưởng thức vở kịch phi lý: Phật giáo trong nước
lo toan tranh giành độc quyền xuất thế trốn
đời!!
4.4. Tác giả đã
nói đúng, giáo lý giải thoát là trung tâm điểm
của giáo Phật. Cũng đúng, là nhận xét rằng giải
thoát là giải thoát khỏi những khổ đau có đầy
dẫy trong cuộc đời. Người Phật giáo quả nghĩ
rằng một chân lý của đời sống là đau khổ
(duhkha, dukkha), rằng nó lúc nào cũng có trong
cuộc đời. Cái ác xấu vật lý (như thiên tai,
nghèo đói, nhân mãn, chiến tranh…) không có ở
đây thì ở đằng kia, không theo hình thức này thì
theo hình thức khác, và diệt trừ được dạng này
thì dạng khác phát sinh v.v… Nhưng khổ không chỉ
ở khía cạnh vật lý hữu hình mà căn bản là ở nội
tâm, ở nhận thức của chúng ta, cái khổ đó cũng
có trong nhiều dạng, từ những cực độ của tâm
bệnh đến sự ưu phiền bất an, sợ hãi, bất như ý…
và như thế không một ai tránh thoát - những lời
lẽ đầy ưu phiền (về nền văn minh vật chất Tây
Phương, về sự bất đồng ý kiến trong Giáo hội
vv…) cho thấy Giáo Hoàng cũng không là một ngoại
lệ. Như được thấy rãi rác trong BQNCHV, tác giả
thật ra đã hoàn toàn đồng ý với Phật giáo về sự
có mặt của cái ác xấu; Ngài còn đi xa đến độ gọi
văn minh Tây Phương hiện nay là “văn minh của
cái chết” (tr.209).
4.5 Đứng trước cái
khổ như một sự kiện có trong thiên hình vạn
trạng nơi cuộc đời, người Phật giáo chỉ ghi
nhận, thấy sao nói vậy một cách khách quan.
Nhưng Giáo Hoàng thì không thế. Ngài không xem
đau khổ là một sự thật dù thừa nhận rằng nó đang
xảy ra trước mắt mình. Đây cũng là thái độ của
nhiều người, những kẻ nghĩ rằng khi nói đến sự
có mặt thường trực của khổ đau nơi cuộc đời, đạo
Phật đã xem đau khổ như bản chất, thực tính của
thế giới. Nhưng lấy gì để kết luận như thế? Như
Phật nói, mọi nhận xét về giá trị, ý nghĩa đều
chứa đựng trong nó sự so sánh (cái này đẹp vì
cái khác xấu v.v…), và những người hiểu và bài
bác Phật giáo kiểu này lấy gì để so sánh với
toàn thể thế giới để nói nó trong bản chất là
tốt lành có ý nghĩa, có giá trị tự thân?
Khi chưa biết về
toàn thế giới, rằng nó là hữu hạn hay vô cùng,
có bao nhiêu định luật căn bản chi phối nó, v.v…
người ta phải thừa nhận rằng nói như thế là hoàn
toàn thiếu căn bản khoa học, phi lý, và ý thức
hay không thì câu nói đó cũng là hoàn toàn bị
qui định bởi một niềm tin: vì Thần nhân lành
toàn thiện sáng tạo ra thế giới nên nó phải là
tốt lành từ căn bản! Do tin như thế, Người Thần
giáo luôn luôn bận tâm, luôn luôn gặp vấn đề khi
tìm cách giải thích vì sao cái ác, cái xấu lại
có thể phát sinh khi mà thế giới trong bản chất
là tốt đẹp. Người Phật giáo không gặp vấn đề
thuần lý thuyết đó (thuần lý thuyết vì các vấn
đề giải quyết đã đưa đến những vấn đề lý thuyết
khác; một lời giải thỏa đáng chưa có để biết nó
có lợi thực tiễn gì không).
4.6. Một trong
những câu chuyện trong Thánh Điển Phật giáo, tuy
rất thường được trích dẫn nhưng chiều kích của
nó thì cũng không được đánh giá đúng mức, là
chuyện người thiếu phụ Kisagotami. Đứa con trai
yêu quí độc nhất của bà chết, và trong tâm trạng
đau khổ cùng cực Kisagotami ôm xác con đến các
đạo sư nhờ cứu sống, người cuối cùng bà cầu cứu
là Phật. Ngài nói bà sẽ được như ý nếu tìm được
và đem về cho Ngài những hạt cải được trồng bởi
những người chưa biết đến đau khổ. Người thiếu
phụ liền ra đi, gặp ai cũng hỏi, và tất nhiên là
không gặp một con người nào như thế, bà trở về
và nói đã hiểu ý Phật. (10)
Thiếu phụ
Kisagotami cầu Phật cứu đứa con
Ý tứ của câu
chuyện, như Bohr cũng nói, là vấn đề so sánh.
Nhưng không lẽ chỉ vì so sánh mình với những
người đau khổ, rằng cái làm khổ không còn là
nghịch cảnh con chết, mà là một cái gì đó hoạt
động trong nội tâm. Tôi đau khổ vì mất mát, sự
mất mát không cứu vãn được nhưng trong tâm tôi
có một thôi thúc làm tôi tiếp tục đau khổ với sự
so sánh vô ý thức đó. Nhưng khi những người tôi
gặp ai cũng khổ thì tôi dựa vào gì để so sánh,
và tôi không so sánh gì với người, mà so sánh
cái tôi có trong hiện tại và cái tôi có trong
quá khứ. Cái tôi có trong hiện tại là sự mất
mát. Cái tôi có trong quá khứ bây giờ cũng là sự
mất mát. Thế ra tôi tiếp tục đau khổ chỉ vì đang
so sánh sự mất mát chính nó. So sánh một cái
không thực hữu với chính nó! Kisagotami trở về
xin Phật chấp nhận mình vào đoàn thể của những
người sống tỉnh thức, nói rằng đã hết khổ, đã
hiểu ý Phật.
4.7. Ý nghĩa thâm
sâu của câu chuyện trên, cũng như nhiều chuyện
khác trong kinh điển (chỉ) được cảm nhận khi
hiểu quan niệm của Phật về thế giới. Phật định
nghĩa thế giới (loka) như bao hàm trong 6 cơ
quan thức giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), 6
đối tượng tương ứng (vật thể, âm thanh, mùi, vị,
xúc, mọi hiện hữu) và 6 loại thức giác hay nhận
thức (của mắt, của tai v.v…) Như được Phật và
giáo đoàn sơ thời đề cập nhiều nơi (11), định
nghĩa này hàm chứa trong quan niệm rằng thế giới
như nó được kinh nghiệm thì luôn luôn bị qui
định, điều kiện hóa bởi hình thái và phương cách
nhận thức của chủ đề nhận thức. Ở điểm này Phật
đã đi trước khoa thực nghiệm và các triết gia
khoa học (như Kuhn, Toulmin, Hanson, Feyerben)
hơn 25 thế kỷ (xem 3,5). Dễ hiểu hơn, có thể nói
trong định nghĩa của Phật, thế giới là hàm số
của nhận thức.
Định nghĩa này
giúp tránh hay loại bỏ những câu hỏi bị quy định
bởi sự so sánh vô thức vô nghĩa hoặc không có
lợi ích trong vấn đề nhân sinh (như thế giới có
hay không biên giới v.v…), nghĩa là Phật, như
một nhà Phật học đã nhận xét, không trả lời
những câu hỏi siêu hình không vì Ngài phủ nhận
siêu hình học, mà vì những câu hỏi đặt ra vô
nghĩa nhìn từ quan niệm của Ngài.
Điều cần nói ở đây
là, theo định nghĩa như thế, đau khổ được nhìn
như một vấn đề nhận thức. Nó là một thực tại gồm
2 mặt chủ quan lẫm khách quan, hoặc như một
chiếc cầu nối liền nội tâm và ngoại giới: ở đâu
“chủ đề nhận thức” khổ đau là những cảm thức bất
như ý, thất vọng, đau đớn… và ở đầu khách quan
là vô thường (bất chợt, không thường còn), duyên
sinh (thay đổi biến hóa theo các nguyên nhân và
điều kiện) và vô ngã/vô chất (không tự tính, đặc
tính bất biến biệt lập. Do không biệt lập nên sự
vật thay đổi chuyển biến không chừng theo thời
gian và hoàn cảnh, hoặc ngược lại, và đối thủ
với chủ đề nhận thức chúng mang đến những cảm
thức khổ, vì ngay niềm vui cũng có thể chấm dứt
bất kỳ lúc nào.
4.8. Nếu đau khổ
là một vấn đề nhận thức thì nguyên nhân của nó
cũng nằm ở nhận thức: trong lý thuyết về khổ như
phác họa ở trên, khổ đau sở dĩ có không phải vì
đời sống là vô ngã, vô thường, duyên sinh - nói
cách khác những điều này tự chúng không là khổ
đau - mà có vì sự tương tác giữa ngoại giới vô
ngã, vô thường, duyên sinh và các thôi thúc tâm
lý tham luyến, sân hận ganh tị, si mê lầm lạc
nơi chủ thể. Ba chất độc đó là 3 khuôn mặt, 3
tác năng của vô minh, một vận động tâm lý mù lòa
khiến con người buộc chặt trong hình thái và
phương cách nhận thức của mình (từ đó mà có óc
tự tôn văn hóa v.v...) và như thế không thấy
được thế giới như nó là.
4.9. Do đó mà Giáo
Hoàng đã ngộ nhận khi nói đạo Phật cho thế giới
(khách quan) là nguyên nhân của đau khổ. Tất
nhiên Ngài cũng sai lầm khi cho giải thoát là từ
bỏ thế giới. Vì nguyên nhân đau khổ nằm ở nhận
thức thì giải thoát khỏi khổ đau cũng là vấn đề
điều chỉnh, chuyển hóa nhận thức. Khi thế giới
là một hàm số của nhận thức, thì kẻ thường tục
là người giác ngộ trong căn bản khác nhau ở nhận
thức chứ không phải ở bối cảnh sinh hoạt; người
Phật giáo đại thừa đã ý thức rõ ràng điều này
khi đưa ra ẩn dụ sinh tử (samsara) là Niết bàn.
Đối với kẻ bị điều kiện hóa bởi nhận thức sai
lầm thì đời sống đầy khổ đau, nhưng người giác
ngộ nhìn thực tại như nó là nên dù ở nghịch cảnh
mà vẫn tự tại. Phật chỉ giác ngộ khi Ngài dừng
lại chứ không tiếp tục trên đường tìm kiếm giải
thoát ngoài thế giới. Có lẽ chính với việc dừng
lại, việc nhận thức được sự vô nghĩa, phi lý của
lý tưởng “giải thoát ở ngoài thế giới”, Phật bắt
đầu biết đâu là đường giác ngộ.
4.10. Phật khi
chưa giác ngộ đã hoàn toàn lầm hệt như các nhà
khoa học hiện nay khi Ngài tìm cách phát triển
tâm lý học giải thoát của mình (12). Theo cái
các nhà khoa học gọi là phương pháp
thử-sai-thì-sửa (trial and error) Ngài bỏ hết vị
đạo sư này đến vị đạo sư khác, vì tuy đạt đến
những kết quả được người dẫn đạo của mình nói
đến nhưng cảm giác bất an, ví dụ, vẫn còn đó bên
cạnh hỉ lạc thiền định (nói cách khác sự so sánh
vẫn còn). Cũng với lý do này Phật từ bỏ đường
lối khổ hạnh nhị nguyên và bắt đầu phát triển
một lối tu luyện trong đó thân xác không còn bị
xem như kẻ thù, nguồn gốc của khổ đau. Căn bản
của đường lối này, Bát Chánh Đạo hay Tám con
đường của một đời sống chân chính, là điều trên
lý thuyết ai cũng có thể thực tập được dù trên
thực tế nó thích hợp nhất cho các tu sĩ, vì khi
nhận thức trong quan niệm Phật giáo, có liên hệ
sâu sắc với cả phần tiềm thức nơi con người, sự
điều chỉnh, chuyển hóa nhận thức cũng có những
đòi hỏi phức tạp hơn. Điều đáng lưu ý là thành
tựu của con người đó, Niết bàn, là trạng thái
không bị quy định và không còn gì để so sánh
hoặc không còn sự so sánh; nó được mô tả bằng
những từ ngữ như “không sinh, không khởi phát,
không tạo, không bị điều kiện hóa…”.
Sự nhất quán trong
lý thuyết của Phật và căn bản thực nghiệm
thử-sai-thì-sửa bảo đảm giá trị của nó. Các thảo
luận tâm lý học hiện nay cũng đi đến kết luận
như thế. Quả thật nhiều chuyên gia đã lý luận
rằng giải thoát luận của Phật thỏa mãn các yêu
cầu của mọi lý thuyết xác nghiệm được - cứ thực
hành thì sẽ đạt được ít nhiều kết quả về tâm lý
và tâm linh (13) - và có khả năng làm mẫu số
chung cho, hay khuôn mẫu bao trùm các lý thuyết
tâm lý trị liệu hiện đại (14).
4.11. Khi nói như
thế, chúng ta cũng đồng thời khẳng định rằng tâm
lý học hiện đại thừa nhận rằng một số phương
pháp, kỹ thuật có lý thuyết này có ích lợi, ít
nhất là ở khía cạnh tâm lý, nghĩa là chúng chẳng
những không đưa đến những hiệu ứng tai hại như
các kỹ thuật huyền học của các tôn giáo khác mà
còn làm gia tăng sức khỏe tâm lý (15). Điều này
có ý nghĩa rất quan trọng vì (i) không như Giáo
Hoàng hiểu lầm, các phương pháp Phật dạy không
phải là huyền học (mysticism) và do đó nếu một
số được thấy là có lợi cho sức khỏe tâm lý thì
tất cả có thể cũng có lợi (ở đây chúng ta không
dùng đến lý luận Phật giáo) và (ii) trong khuôn
khổ tâm lý của Phật nói riêng và Phật giáo nói
chung, sức khỏe tâm lý có quan hệ mật thiết đến
hành xử đạo đức.
Điểm (i) đã được
lý luận trong nhiều công trình chuyên môn (16)
và trong lập luận của bài này thì nó trở nên dễ
hiểu: các quả vị tâm linh đạt được mang chiều
kích nhận thức luận chứ không phải bản thể luận
(không có một vị thần linh mà hành giả sẽ hiệp
thông/hiệp nhất/phối hợp như huyền học). Điểm
(ii) có nghĩa là các phương thức tụ tập một mặt
có lợi cho người tập luyện ở khía cạnh tâm linh,
tâm lý và mặt khác tạo ra những hành xử đạo đức
tốt đẹp cho tương quan xã hội. Chẳng phải tình
cờ mà đạo Phật định nghĩa “thiện” như không có
lợi hoặc chỉ có cho một phía, một khía cạnh.
4.12. Như thế,
chưa cần nói đến một nội dung tích cực của khái
niệm Niết Bàn v.v…, chúng ta đã kết luận được
rằng, nếu Đạo Phật chỉ có duy nhất giải thoát
luận (như Giáo Hoàng nói), nhưng (không như Giáo
Hoàng nói) giải thoát luận đó ít nhiều gì cũng
có lợi cho con người ở hai mặt tâm lý và đạo
đức. Điều này dễ thấy ở nơi các quốc gia thuần
Phật giáo (Người Bhutan, Tây Tạng, Tích Lan…).
Điều này cũng giải thích vì sao trong những thời
Phật giáo cực thịnh (nghĩa là các phương pháp tu
tâm sửa tánh của Phật giáo được thực hành rộng
rãi) thì con người thời kỳ đó có đời sống tâm lý
và đạo đức lành mạnh (tự cường, tự tin, thương
người yêu đời v.v…).
Do đó, nếu một đời
sống đạo đức và tâm linh lành mạnh là thước đo
của văn minh, chúng ta có thể hiểu vì sao giáo
sư Robert Thurman khẳng định rằng, văn minh nhân
loại vẫn chưa bao giờ đạt được độ cao của Ấn Độ,
Campuchia, Miến Điện, Nhật Bản, Tây Tạng, Thái
Lan, Triều Tiên, Trung Hoa, Việt Nam, Uighuria
v.v… trong thời hưng thịnh của đạo Phật (17). Ý
kiến này chắc Giáo Hoàng đồng ý vì Ngài đã cho
rằng văn minh Tây Phương hiện đại là duy vật,
trục lợi, vị kỷ, xem nữ giới như đối tượng nhục
dục, là “văn minh của cái chết”!
Hình ảnh Hoa Sen
(biểu trưng sự giác ngộ trong Đạo Phật)
HÒA NHI BẤT
ĐỒNG
5.1. Như được phân
tích ở trên, BQNCHV trong nhiều điểm là một sai
lầm ngay từ căn bản lý luận. Trên căn bản đó tác
giả đã xây dựng những nhận định không thể nói là
phù hợp với tinh thần cộng đồng Vatican II của
mình. Nếu những luận định đó không mấy ảnh hưởng
đến trên người Tây Phương từ lâu đã chấp nhận đa
nguyên tôn giáo và có đủ tinh thần phê phán, đủ
phương tiện để kiểm chứng những gì tác giả nói,
thì chúng ngược lại rất tai hại đối với người Á
Đông, có tác dụng khẳng định những thành kiến
vẫn làm quan hệ Công giáo và không Công giáo
không lấy gì làm tốt đẹp. Không lẽ trong khi
người Tây Phương càng lúc càng trưởng thành về
tôn giáo, thì người Việt Nam, ví dụ, tuy có
truyền thống “hòa nhi bất đồng” trong tôn giáo
nhưng phải duy trì một cái nhìn thiếu thiện cảm
đối với người khác tôn giáo? Và tôn giáo có lợi
gì, giúp được gì cho người nếu nó không làm con
người nhìn nhau bằng cặp mắt không thành kiến?
Chính vì thế mà những ngộ nhận nhân danh tôn
giáo đã phải được làm sáng tỏ.
5.2. Tác giả
BQNCHV một phần vì nghĩ Phật giáo vô thần mà
sinh ra những ngộ nhận hoàn toàn tiêu cực. Thần
quả không có trong mô tả Phật giáo, và Phật giáo
để dọn chỗ cho giáo lý của nó, đôi lúc cũng đã
bắt buộc phải lý luận về những vô lý trong mô tả
của Thần giáo, nhưng điều đó hoàn toàn không có
nghĩa là Phật giáo phủ nhận sự hữu của Thần. Như
đã lý luận, thế giới của người Phật giáo là thế
giới của người nhận thức, và người Kitô giáo do
đó có thể hiểu, rằng khi Thần nằm ngoài tầm nhận
thức con người - không thì Thần nhỏ hẹp hơn
người - thì người Phật giáo chẳng có gì để phải
nói đến, vì một lần nữa, phương trình giải thoát
Phật giáo là chuyện điều chỉnh, chuyển hóa nhận
thức.
5.3. Khi nói con
người bị điều kiện hóa bởi nhận thức, Phật giáo
theo đó cũng nói rằng không một tôn giáo hay hệ
thống nào, kể cả chính nó, có khả năng thỏa mãn
đòi hỏi của tất cả mọi người. Vì nếu con người
bị qui định bởi trạng huống hay dạng nhận thức,
thì luôn luôn có những người với những đòi hỏi,
những xu hướng khác biệt so với người khác, và
tôn giáo, chính với mục đích thoả mãn nhu yếu
tâm linh/tôn giáo của con người, cũng bị qui
định, điều kiện hóa bởi thời gian và hoàn cảnh.
Tôn giáo hay Giáo hội nào không chịu như thế hay
không giải quyết được vấn đề tùy duyên nhưng vẫn
bất biến thì tôn giáo/Giáo hội ấy sẽ chết. Không
ai giết được tôn giáo, trừ chính nó.
5.4. Sự kiện nhân
loại có nhiều tôn giáo theo đó chẳng những tất
nhiên mà còn có lợi, vì như thế người ta có cơ
hội lựa chọn theo xu hướng và nhu cầu của mình.
Và nếu các tôn giáo thế giới đều có những giá
trị và đóng góp cao quý đẹp đẽ cho sự trưởng
thành của con người, thì để mô phỏng Dalai Lama,
không chỉ vì tôi thích hoa hồng mà không thừa
nhận cái đẹp của hoa cúc. Hơn thế nữa, người ta
còn nên nghĩ rằng, không thể yêu hoa hồng mà tôi
không ái ngại khi hoa cúc có triệu chứng héo úa
(18). Chính vì thế mà một danh tăng khác đã làm
cho người kitô giáo Đan Mạch ngạc nhiên khi vị
này cầu cho Kitô giáo thôi suy vi!
5.5. Người Phật
giáo do đó dễ dàng chấp nhận quyền sống của tôn
giáo khác. Cũng dễ dàng thấy từ lý luận trên, vì
sao Phật đã nói rằng một đạo sĩ tôn giáo khác
cũng có thể giải thoát khỏi sinh tử luân hồi,
cũng như vì sao Ngài nói rằng giáo lý của mình
chỉ là chiếc bè qua sông như ngón tay chỉ mặt
trăng. Thế nên sự chấp nhận ở đây hơn hẳn việc
thừa nhận người khác nhưng vẫn cho mình tuyệt
đối đúng. Đối với người Phật giáo, việc gán cho
đạo Phật một giá trị tuyệt đối chẳng những sai
lầm mà còn hại người hại mình và làm hại đến
chính tôn giáo: thay vì giải thoát, giải phóng
con người, tôn giáo như thế bị con người biến
thành một cái ách, một xiềng xích trói buộc.
5.6. Hòa nhi bất
đồng chưa bao giờ là vấn đề cho người Phật giáo.
Hy vọng nhận thức này sẽ góp phần hữu ích đó để
người Việt cùng nhau mạnh dạn bước vào ngưỡng
cửa hy vọng (19) - ở đây là hy vọng về viễn
ảnh kế tục một tiến trình bị đứt đoạn 4 thế kỷ
để đứng vững trên niềm tin của mình nhưng đồng
thời có thể thừa nhận giá trị nơi niềm tin của
người khác.
Nguyễn Kết
CHÚ THÍCH :
(1) Người Kitô
giáo nói chung phân biệt rõ ràng giữa thần (God)
và Chúa (Lord, the Lord), trừ người Việt. Chúa
theo từ nguyên (kyrios trong tiếng Hy Lạp
và adonaj trong tiếng Hebraic) là “ông
chủ”, “chủ nhân”, từ dùng để tôn xưng người vua
hay người có thế lực và trong tương quan tôn
giáo dùng để tránh phải gọi Jahve hay Jehova,
tên của thần (theos trong tiếng Hy Lạp và
el trong tiếng Habraric). Do niềm tin vào
Giêsu, những tác giả Tân Ước cũng nhiều
lúc gọi Ngài là kyrios nhưng tất nhiên
tùy theo tương quan người ta hiểu, lúc nào từ
này được hiểu ngầm/dịch là Chúa trời/Chúa Jahve
và vào lúc nào là chúa Giêsu. Nhưng theos
mà cũng dịch là Chúa thì có lẽ chẳng khác nào
thay thế, ví dụ “con trai trưởng” bằng “Anh Cả”.
(2) G.
Vallquist, "Autoritetskrere i den katolske
kirke", Katolsk orientering, nr. 2,25/1/995, năm
thứ 21. Hai tác phẩm được đề cập là P.M.Lamet,
Teologernes oproer (G. Gunnarson dịch,
SILI, Upsala 1994) và J. Dunn, No Lions in
the Hierarchy (Columba Press, Dublin 1995).
Lamet là linh mục dòng Tên người Tây Ban Nha.
Còn Dunn người Ái Nhĩ Lan, một linh mục, phóng
viên quốc tế của Giáo hội Roma.
(3) Tenzin
Gyatso, Tự Do Trong Lưu Đày (Chân Văn &
Chân Huyền dịch, Văn Nghệ 1992). Nt. Freedom
in Exile (1990).
(4) Tín niệm
Nước Trời & Con Trời phản ánh một hoài niệm về
thời hoàng kim Nghiêu, Thuấn của Do Thái và có
ảnh hưởng sâu đậm trên lịch sử dân tộc này. Cho
đến thời Giêsu, Nước Trời hay Thần quốc, vẫn
được “hiểu” là một vương quốc trong đó các lề
luật Thần đặt ra được tuân giữ. Còn con Trời là
vua Do Thái, kẻ được xức dầu khi lên ngôi. Trong
Tân Ước, ý niệm Nước Trời không còn chiều
kích chính trị, không có trong thế gian, rất xa,
nhưng cũng rất gần!
(5) Di thư
Qumran là tên gọi những manh mún văn bản có
giá trị lịch sử cực kỳ quan trọng, được tình cờ
tìm thấy từ năm 1947 ở Qumran, một địa phương
bên bờ Tử Hải thuộc Ai cập. Trong nhiều thập
niên, một nhóm chuyên gia có và giữ độc quyền
nghiên cứu trong sự nóng nảy bực tức của người
khác. Tình trạng nghiên cứu rất ư thông thả -
trong mấy chục năm mà ngay việc xuất bản, phổ
biến cũng không thực hiện hoàn thành - chỉ chấm
dứt khi các văn bản này bị lén chụp hình và phổ
biến cách đây không lâu. Hiện nay đang có một
loạt giả thuyết kinh khủng - ngay một giả thuyết
ôn hòa (và có lẽ vững vàng nhất) mà cũng nói,
nhìn theo chiều kích sử học, Chúa Giêsu hoàn
toàn chẳng có gì khác với các “đấng Cứu thế”
khác (Nếu di thư Qumran được viết ra
trước Tây lịch hoặc nó có trong thời Giêsu nhưng
không liên hệ gì đến giáo phái của ngài). Tuy
nhiên người ta chưa đủ thời gian để có thể thẩm
định các giả thuyết đó. Điều chắc chắn là lịch
sử Kitô giáo sơ thời sẽ không còn như chúng ta
biết.
(6) Các giáo
phái với tín niệm rằng lịch sử hay thế giới sẽ
sớm chấm dứt theo sự an bài của Thần. Trong ngày
đó, người ngay lành (thành viên của giáo phái)
được Thần đưa vào Thiên Đường hưởng phúc, còn kẻ
có tội làm trái ý Thần sẽ đời đời chịu trừng
phạt. Tín niệm ngày phán xét hay Tận thế thường
có những biểu hiện bi kịch trong lịch sử tôn
giáo Tây Phương; đọc Kinh Thánh theo một cách mà
chính giáo đã từ bỏ, nhiều người đã gần như sống
trong sự chờ đợi ngày Tận thế và những xáo trộn,
biến lớn thường được xem như dấu chỉ ngày đó.
Trong thế kỷ XX, con số các lời tiên báo Tận thế
nhiều đến nỗi thế giới đáng lý đã phải chấm dứt
hàng trăm lần. Trong những năm tới, các giáo
phái Tận thế có lẽ còn lộ diện nhiều hơn, vì
trong Kitô giáo biệt truyền (esoteric) thì vào
khoảng năm 2000 chúa Giêsu sẽ trở lại Phán xét
thế gian.
(7) G.
Dharmasiri, A Buddhist Critique of The
Christian Concept of God (Goden Leaves,
Antioch 1988), chương 2. Cũng trong công trình
này, chúng ta thấy lý luận như Giáo Hoàng phác
họa đã được một nhà thần học nói đến (trang 24).
(8) Nếu không
nhớ lầm thì các nhà sử tôn giáo thượng thặng đều
nói như thế, tất nhiên trừ một số chuyên gia duy
sử, không muốn tin gì hơn là những dữ kiện lịch
sử cụ thể.
(9) Giới hạn
làm người ta ngán ngẫm, ít nhất trong trường hợp
người viết trong thời gian học môn tôn giáo ở
Gymnasium (cấp III) là sự chi li tỉ mẫn và khắc
khe của giới luật, nhất là ni giới. Có cảm tình
với tư tưởng Phật giáo đến đâu đi nữa thì học
trò cũng phát chán khi được cho biết thêm về
điều này. Thật ra thì giới luật được chép trong
thời Phật giáo bộ phái và chúng ta có quyền và
có lý do nghi ngờ rằng, cái phóng khoáng thời
Phật lúc bấy giờ đã bị đè bẹp bởi sức ép của
truyền thống khổ hạnh, vụ lễ nghi (dhrma, rita)
và xem nhẹ đàn bà của văn hóa Ấn Độ. Chả thế mà
Đại thừa Ấn Độ đã đưa ra một tác phẩm về giới
luật cũng mang tên Uphaliparpricchasutra
(P.Python dịch, Paris 1973) nhưng tự do phóng
khoáng hơn rất nhiều. Người Phật tử cư sĩ thường
không biết đến tăng và ni giới, nhưng có kinh
nghiệm thì mới thấy và hiểu được đóng góp của
Thiền sư Nhất Hạnh (ví dụ, xem Đường Xưa Mây
Trắng, Lá Bối 1988, hoặc Old Path White
Clouds, Parallax Press 1991, chg.45)
(10) Chuyện
này thấy trong nhiều quyển tiểu sử của nhà Vật
lý Niels Bohr (1985-1963). Tất cả đều chỉ chép
như thế - so với chính truyện thì thiếu một chi
tiết quan trọng: Kisagotami hết khổ, xin quy y.
Bohr dường như biết chuyện này từ thuở niên
thiếu vì nó được trích dịch trong các tác phẩm
Phật giáo phổ thông đầu thế kỷ (xem Nguyễn Kết,
Từ Trung Đạo đến Bổ sung, Giao Điểm số
12, 15/4/93, tr.78). Kể từ khi chứng kiến đứa
con trai của mình bị chết chìm mà vô phương cứu
giúp (1932). Bohr bắt đầu kể - dường như ngay
trong đám tang con mình - chuyện này cho đến
già. Người nhà của Bohr và các nhà vật lý trẻ
tuổi làm việc dưới quyền ông tuyệt không thể
hiểu ý Bohr. Chẳng lẽ con người lạc quan yêu đời
đó cũng tin thế giới là vô nghĩa trong bản chất,
như Phật giáo? Theo lời một nhân chứng, Bohr chỉ
nói “các hiền triết Ấn ý thức rõ là sự sử dụng
từ “ý nghĩa” hàm chứa một so sánh. Chính câu nói
thế giới vô ý nghĩa mới là vô ý nghĩa!” Vì Bohr
cứ thế mà kể mãi nên một người học trò của ông
có vẻ phát bực, hỏi làm sao kẻ đau khổ có được
sự an vui chỉ với một trò chơi chữ siêu hình như
thế. Bohr nhìn xoáy vào mắt nhà vật lý trẻ này
và nói “Chúng ta bị dính mắt vào ngôn ngữ đến độ
mọi nỗ lực phát biểu trí tuệ đều là những trò
chơi chữ. Kẻ chỉ thấy đó chỉ là một trò đùa tất
nhiên không có được an ủi nào cả. Nhưng người
thật sự đặt mình vào và nhận ra những nét của
điều kiện tồn tại của con người, thì có !” Xem
N. Blaedel, Harmori Og Enhed - Nies Bohr, En
Biografi (Rhodos, Copenhagen 1985 ), tr.192.
(11) Ví dụ,
xem Dhammapda trong đoạn mở đầu ,
Samyutta Nikaya I (62), VI (15), XXXV (84) và
Abhidhamma.
(12) Có thể
xem Joy Mane-Lewis, “Buddhist Psychology: a
Paradigm for the Psychology of enlightenment”,
trong G. Claxton (ed), Beyond Therapy: The
Impact of Eastrn Religions on Psychological
Theory and Practice (Wisdom Publication,
London 1986), tr.123-138.
(13) Có thể
nghĩ đến tâm lý trị liệu để nói, các phương pháp
tu tập tuy là những technology nhưng phải
cứ bấm nút là có ngay kết quả mong muốn.
(14) Có đóng
góp khai phá trong việc nhận diện tâm lý học
diệt khổ của Phật như một lý thuyết khoa học là
các công trình của nhà tâm lý Thụy Điển Rune
Johansson trước hết là The Dynamic Psychology
of Early Buddhism (Curzon Press, London
1956). Kể từ đó đến nay ngày càng có nhiều công
trình xuất sắc hơn. Dễ đọc nhất và đồng thời
giúp có một cái nhìn tổng quan, vì sao tâm lý
học của Phật có thể xem như một mẫu số chung cho
các lý thuyết tâm lý học hiện đại có lẽ vẫn là
tuyển tập G. Claxton (ed), Beyond Therapy.
(15) Nghiên
cứu khoa học về kinh nghiệm huyền niệm cho biệt,
một số người do tập luyện mà xa lánh xã hội, có
những biểu hiện rối loạn tâm lý và có người còn
tự sát, trong khi những người khác thì được lợi
ích, dù tất cả có thể theo cùng một phương pháp.
Trong giải thích Phật giáo, đó là hệ quả của có
tuệ nhưng thiếu giới và/hoặc định.
(16) Chẳng
hạn Dharmasiri, A Buddhist Critique… chg
6, ph.2
(17) R.A.F
Thurman, “The Buddist Messiahs: The Magnificent
Deeds of the Bodhisattvas” trong D.S. Lopez, jr
& S.C Rockefeller (ed), The Christ And The
Bodhi Sattva (Vtate University of New York
Press, Albany 1987), tr.65-97.
(18) Tenzin
Gytsom, “Đạo giúp được gì cho Đời?” Pháp Luân
số 3, Xuân Nhâm Thân 2/92, tr.6-11. Long
Khánh dịch từ nt. “What Can Religion Contribute
to Mankind?” Cho Yang: The Voice of Tibetan
Religion and Culture, vol.1, No.2, 1987.
(19) Theo bản tin
trên Katolsk orientering nr 2, 25/1/95,
về quyển sách BQNCHV và đòi hỏi Giáo Hội Phật
giáo Tích lan rằng Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
phải xin lỗi, Linh mục Dòng Tên (lại dòng Tên!)
Alois Pierris nhận xét rằng Giáo Hoàng đã đánh
giá tương quan Kitô giáo Phật giáo theo một
“khuôn khổ thần học yếu ớt” và do đó “có bổn
phận bày tỏ thiện chí luân lý” và phải nghiêm
chỉnh xét lại thái độ của Roma đối với “thần học
Á Châu” (các hệ thống Phật giáo, Ấn giáo...)
Theo các nhật báo, Linh mục Pieris nói rằng bao
lâu Roma chưa nghiêm chỉnh xét lại thái độ của
mình đối với các hệ thống Á Châu, bấy giờ người
Công giáo Á Châu vẫn chưa thể bước qua ngưỡng
cửa hy vọng (có thể xem Quê Mẹ, số 131 &
132, giai phẩm Xuân Ất hợi 1995).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét