Mặc dầu Platon đã phải từ bỏ giấc mộng xây dựng một Thành Quốc lý tưởng, bằng một loại chính trị lý tưởng, nhưng hậu thế không thể không nhìn nhận rằng ông đã sáng tạo ra một viễn tượng mới về chính trị, khi ông mang tới cho chính trị một cứu cánh lý tưởng. Lý tưởng ấy đến từ bên ngoài con người. Vì Platon cho rằng con người chỉ đạt được lý tưởng đó nếu có kiến thức khoa học. Nhưng đừng vội cho rằng Platon là người duy khoa học. Ngược lại với xu hướng tương đối hóa đạo lý và chính trị, Platon bác bỏ ý kiến cho rằng con người là mẫu mực của mọi điều trên đời. Vì với Platon thì chính Thượng Đế mới là mẫu mực đó. Bởi thế, theo Platon, chỉ có những triết gia mới là những người lánh đạo chính trị. Vì các triết gia, như Platon đã trình bày trong tác phẩm Cộng Hòa của ông, là những người học rộng, tài cao. Và cái bản lãnh này đã thúc đẩy các triết gia thành những con người của hàng động. Và hành động sẽ dẫn con người tới Chí Thiện.
Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014
Cuộc Đối Thoại Với Quá Khứ Qua Tư Tưởng Chính Trị Của Platon
19:40
Hoàng Phong Nhã
No comments
Lịch Sử Tư Tưởng Chính Trị Thế Giới. Di sản tư tưởng chính trị Hy Lạp-La Mã
Như
đã được trình bày trước đây, và trong khuôn khổ mục Lịch Sử Tư Tưởng
Chính Trị Thế Giới này ở trên trang Việt Thức, vào thời điểm từ thế kỷ
thứ VI đến thế kỷ thứ IV trước Công Nguyên (CN), Hy Lạp đã khơi mạch cho
tư tưởng chính trị
của nước này rời bỏ phong cảnh cổ đại để bước vào con đường tân đại.
Nhờ có những phát minh độc đáo như Thành Quốc, Dân Chủ, Pháp Luật, Công
Dân v.v. Giai đoạn mở đường này đã giúp cho Hy Lạp tạo ra được một bước
phát triển mới của tư tưởng chính trị, theo hướng đoạn tuyệt với cuộc
sống của những con người thụ
động, cam chịu sự chi phối của những thế lực huyền bí, ở ngoài con
người. Để chuyển sang cuộc sống mới, trong đó con người biết vận dụng lý
trí để tự mình quyết định lấy số phận của mình. Thuật ngữ khoa học xà
hội ngày nay gọi hiện tượng đó là sự biến đổi của con người, từ trạng
thái “tha trị” (hétéronomie) sang trạng thái “tự trị”(autonomie).
Với
hậu thế, công trình tự tân này của Hy Lạp, tuy không kéo dài quá hai
thế kỷ nhưng nó đã mang lại cho nhân loại những kinh nghiệm đặc biệt để
thực hiện Văn Minh, Tiến Bộ cho loài người, điều mà lịch sử đã chứng
minh.
Dĩ
nhiên, vào thời điểm kể trên, không phải loài người chỉ nhận được những
kinh nghiệm Hy Lạp không thôi, mà còn nhận được nhiều kinh nghiệm khác
nữa, trong đó phải kể kinh nghiệm La Mã.
Để
tổng kết những gì đã được trình bày, trong mục LSTTCTTG này, về sự đóng
góp tự tân của Hy Lạp, trước khi xem xét nhũng kinh nghiệm La Mã, dưới
đây tư tưởng của Platon, một trong hai tác giả danh tiếng của Hy Lạp là
Platon và Aristote (sẽ được tóm lược sau), và nêu lên, như một biểu
tượng cho di sản tư tưởng chính trịHy Lạp. Một sự tóm lược mang ý nghĩa
của một cuộc đối thoại – giả tưởng – với quá khứ, thời điểm hai thế kỷ
VI-IV trước CN, và, ở vùng Địa Trung Hải.
Từ
thời cổ đại, Hy Lạp đã có rất nhiều nhà hiền triết, nhiều nhà thông
thái. Nhưng tại sao lại chỉ bàn riêng về tư tưởng của Platon và Aristote
(sẽ tóm lược trong một dịp khác) thôi ? Vì hai lý do. Một, tư
tưởng của Platon có tầm ảnh hưởng vượt không gian, thời gian. Chiều kích
phổ quát của nguồn tư tưởng Platon đã khiến cho tác giả trước CN này,
hơn hai ngàn năm về sau vẫn còn là tiếng nói có nhiều tính thời sự. Hai,
qua hai nguồn tư tưởng Platon và của Aristote, (sẽ tóm lược trong một
bài viết sau), người ta có thể rút gọn nội dung di sản tư tưởng chính
trị Hy Lạp, từ dạng sơ khai đến dạng đã thành thục.
PLATON
Thành Quốc Của Lý Tưởng Hay Của ảo Tưởng Đã Mất?
Vào thời điểm thế kỷ thứ VI trước CN, đời sống trong Thành Quốc, đối với người
Hy
Lạp, là một không gian chinh trị cơ bản đồng thời cũng là cứu cánh
chính trị phải thực hiện. Platon, giòng dõi qúi phái, học trò của nhà
hiền triết Cratyle, lại sâu đậm chịu thêm ảnh hưởng của Socrate, đã áp
dụng chủ thuyết duy tâm siêu việt để cổ võ cho việc xây dựng một Thành
Quốc Lý Tưởng. Nhưng rồi Platon đã sớm nhận ra rằng đó sẽ chỉ là một
mộng ước không thành mà thôi. Cho nên Platon đành phải lùi bước, từ bỏ
lý tưởng, chỉnh sửa lại nguyên mẫu lý tưởng và, thay vào đó, sáng chế ra
một mẫu Thành Quốc không được như lý tưởng đã phác họa, nhưng khả thi
vì thích hợp với thực tế.
Mặt
khác, trên thưc tế, tham vọng của Platon muốn giữ một vai trò lãnh đạo
chính trị trong Thành Quốc Athènes cũng lại thảm bại nên Platon đã rời
bỏ con đường hành động để chuyển sang con đường lập thuyết. Về mặt này,
Platon kịch liệt chống dân chủ. Vì theo Platon, dân chủ đã giết
chết thầy học của mình là Socrate. Ngoài ra, vào lúc đó, Thành Quốc
Athènes đã bị Thành Quốc Spartes đánh chiếm nên quyền lực ở Athènes đều
nàm trong tay các bạo chúa. Trước bối cảnh chính trị không lành mạnh đó,
Platon đã xây dựng sự nghiệp chính trị của mình. Nhưng Platon đã vùng
vẫy để đem ra áp dụng tư tưởng chính trị ông cổ võ. Platon đã xin phục
vụ dưới trướng của bạo chúa Denis đệ nhất ở Syracuse. Không dè vì bất
đồng chính kiến với Denis, Platon bị Denis đem ra chợ bán làm nô lệ. May
có người nhà giầu nhận ra được gốc tich của Platon, nên mua về và giải
phóng cho Platon. Trở lại Athènes, Platon mở trường theo đường lối của
Socrate. Platon, sau đó, lại hai lần nữa vận động trở lại chính trường
nhưng đều thất bại. Chính chuỗi thất bại này đã thúc đẩy Platon cho ra
đời một số tác phẩm chính trị nổi tiếng, nền tảng của sự nghiệp chính
trị của Platon.
Để hiểu đại cương tư tưởng chính trị của Platon, có thể xem xét tư tưởng ấy về ba mặt: Phương pháp luận, Chủ thuyết và Bài học cho hậu thế.
Phương Pháp Luận
Người ta đã tìm biết được rằng Platon đã chịu ảnh hưởng của nguồn
tư tưởng chính trị của Hy Lạp thời cổ đại, ba thế kỷ trước khi Platon
ra đời. Theo nguồn tư tưởng này thì vào thời điểm nói trên, nhờ có ba nữ
thần Eunomia, Dikè và Eiréné, đời sống trong xã hội đã rất hòa hài vì
ba nữ thần nói trên chống lại việc bạo lực chi phối mọi quan hệ giữa
người với người. Từ sự hòa hài này người ta đã luận ra rằng đời sống
chung phải được tổ chức tren nền tảng những nguyên tắc tốt, xứng đáng
với loài người.
Nhà
cải cách chính trị Solon sau đó đã tìm cách thực hiện sự hòa hài bằng
chủ trương phải đem lạii công lý cho xã hội. Vì nếu thiếu công lý thì sẽ
có hỗn loạn và sẽ đưa tới nôi loạn mà hậu quả là dọn đường cho bạo
chúa. Bởi vậy, phải tin tưởng vào Thành Quốc coi Thành Quốc không phải
là của riêng của ai mà là của chung của mọi ngươi, tức là của mọi công
dân. Mọi công dân này, trong phần quyên, phần việc của mình, phải duy
trì sự hiện hữu của Thành Quốc và hết lòng bảo vệ nó. Athènes đã đạt
được sự hòa hài đó bằng Hiến pháp của Clisthène, với những quyền ngang
nhau, nhờ những đạo luật bình đẳng được áp dụng cho mọi người.
Tưởng cũng nên nhấn mạnh rằng vào cùng thời, tư tưởng của phái những nhà “Hùng Biện” (sophistes)
về giáo dục, về pháp luật, về chủ nghĩa cá nhân cũng đã khơi ra những
mạch suy nghĩ mới mẻ có khả năng đổi mới tư tưởng chính trị HyLạp trên
đường đi tới tân đại hóa. Phái này là tiền thân của phái thực nghiệm
pháp lý (positivisme juridique).
Tư
tưởng của Platon đi ngược lại chủ trương của phái Hùng biện. Với
Platon, pháp luật phải dựa trên một nền đạo lý siêu việt, thiêng liêng,
chứ không thể chỉ là sản phẩm của chính con người, dù con người đã tự
coi mình có đủ khả năng qui định đâu là thiện, đâu là ác.
Thành
ra tư tưởng chính trị của Platon đã được đặt trên giao điểm của ba xu
hướng: Thành Quốc là tất yếu, phải có, và không gì thay thế được Thành
Quốc, Thành Quốc dựa trên các công dân mà đạo đức, phẩm hạnh là nền tảng
của xã hội, những định chế của Thành Quốc hiện nay đang suy đồi, cần
phải xem xét lại.
Và
để xem xét lại, Platon sẽ phải tự tìm câu giải đáp cho hai nghi vấn.
Phương pháp tốt nhất để đặt lại vấn đề Thành Quốc có phải chỉ cần dựa
vào phân tích chính trị là đủ hay không? Nếu đúng vậy thì nên chọn hình
thức nào để đề xuất sáng kiến tân tạo? Khởi đi từ thật tại xã hội để dự
thảo một hiến pháp mới cho riêng Thành Quốc Athènes hay quan niệm lai
toàn bộ tư tưởng chính tri?
Chính ở điểm này mà Platon đã cho hậu thế bắt gặp được những nét đặc thù của Ông
và ghi lại, trong bộ nhớ nhân loại, một viễn kiến chính trị độc đáo cất
dữ trong di sản tư tưởng chính trị Hy Lạp, cuối thời cổ đại.
Chủ Thuyết Chính Tri
Với
Platon, sự suy tàn đang điễn ra của các Thành Quốc là một hiện tượng xã
hội đòi hỏi một sự chữa trị bằng chính trị hay, cũng có thể nói, bằng
một công trình suy tư chính tri sâu sắc. Platon ngụ ý muốn nói, cũng như
Socrate, rằng chính trị là một khoa học, một loại kiến thức, phải được
rèn luyện mới có, và trao truyền được. Hiểu như vậy thì chính trị, dưới
con mắt Platon, không phải chỉ là công việc cai trị bằng thuần kỹ thuật,
với luật pháp tốt, thẩm phán nghiêm minh, với tài nghệ quân sự biết
đánh trận để thắng trận v.v…Nhưng tất cả những thứ đó, tổng số của các
khả năng chuyên môn, đối với Platon, chỉ là những hậu quả chứ không phải
là thành tố của chính trị để cấu thành bản chất của chính trị. Platon
cho rằng chính trị là một loại kiến thức suy lý để tìm hiểu tâm hồn, tìm
hiểu bản thể con người, từ đó mới biết được phải làm sao xây dựng những
xã hội toàn hảo nhất, trong đó những con người lương thiện nhất, được
sống dưới sự che chở của những luật phăp công minh nhất. Và chính loại
kiến thức đó mới là thực chất của chính trị, đem lại vinh quang cho
chính trị. Cho nên người làm chính trị là người có bản lĩnh lãnh đạo cao
độ, nhờ ở kiến thức suy lý siêu việt là chính trị. Tất cả những thứ này
đã nâng chính trị lên hàng một đạo lý để thiết lập cho xã hội một nền
Công lý cao cả, tuyệt đối thể hiện Chân, Thiện, Mỹ giữa cuộc đời. Một xã
hội lý tưởng.
Chính
trị quan đặc biệt này của Platon giúp cho người ta hiểu được vì sao
Platon đã ấp ủ trong thâm tâm một mô hình Thành Quốc lý tưởng. Và tại
sao Platon, trên địa hạt chính trị, lại phiêu lưu trong thế giới siêu
hình để tìm thực hiện một không tưởng.
Không
tưởng, trong tiếng Hy Lạp có thể hiểu theo hai cách. Nếu không tưởng
được định nghĩa theo tiếng Hyn Lạp gốc “eu-topos” thì không tưởng là nơi
tốt đẹp nhất, nhưng cũng là nơi có thật, có thể tới được. Và có thể xây
dựng được. Trái lại, nếu không tưởng xuất phát từ tiếng Hy Lạp
“ou-topos” thì đó lại là nơi không thể tìm thấy được bất cứ ở đâu, đừng
mất công tìm kiếm. Vì sẽ không bao giờ thấy và cũng chẳng thể xây dựng
được. Hai nghĩa của chữ không tưởng (Utopie, Utopia) như nêu ở
trên, trái ngược nhau, vì một đằng là một mô hình, đằng khác là một giấc
mơ. Và theo các nhà quan sát thì Platon đã chọn không tưởng của ông
theo nghĩa một giấc mơ.
Sự
lựa chọn mang tính siêu hình này tất yếu đã dẫn Platon đến một mô hình
xã hội trừu tượng, thay vì một mô hình xã hội thực tế, mà Platon đã miêu
tả trong tác phẩm Cộng Hòa gồm 10 tập (La République). Ngườt ta coi La République như là một tác phẩm về Siêu Hình Chính Trị.
Xã
hội theo mô hình này gồm cò 3 thành phần. Dưới cùng là Thợ Thuyền, ở
giữa là Chiến si Vệ quốc (CSVQ) và trên cùng là các nhà Hiền Triết.
Sự
phân chia này, về mặt lý thuyết, đã tạo ra ba cuộc sống riêng rẽ của ba
giai cấp. Họp lại thì đó là cuộc sống toàn bộ của cả xã hội. Cần biết
rằng sự giao lưu giữa ba giai cấp không bị ngăn cấm, về mặt pháp luật
cũng như về mặt văn hóa. Nên có thể coi như xã hội đã được thống nhất.
Tuy nhiên, Platon đã lấy sáng kiến sắp xếp để cho chỉ riêng thành phần
CSVQ có được một cuộc sống chung với cả hai thành phần còn lại. Cuộc
sống chung này là một loại chế độ cộng đồng về của cải và phụ nữ (một
thứ chủ nghĩa cộng sản không do K.Marx sáng chế). Nhưng tại sao lại chỉ
đặt ra ngoại lệ cho riêng giai cấp CSVQ mà thôi? Tại vì, giống như ở
Thành Quốc Spartes, không để cho các CSVQ, vì phải lo cho của cải riêng
của mình nên không chu toàn được trách nhiệm chung là chiến đấu để chiến
thắng.
Còn về chế độ vợ chồng chung thì đó là sinh sống theo chính sách “Ưu sinh” (eugénisme),
gây giòng giống tốt. Các ông chồng là cha chung, các bà vợ là mẹ chung,
của các đứa con chung mà các bà mẹ chung đã góp sữa để nuôi dưỡng.
Những
biện pháp kể trên của Platon là sự thể hiện của tư tưởng siêu hình về
chính trị, nhằm xây dựng một xã hội Hy Lạp lý tưởng theo nghĩa “Chí
Thiện”. Con người sống trong xã hội ấy phải là những con người có phẩm
hạnh cao độ. Vậy vấn đề chính trị, đối với Platon, là làm sao đào tạo
nên được những con người “chí thiện” đồng thời tổ chức xã hội thành một
môi trường thich hợp cho cuộc sống chung của những con người chí thiện
ấy. Muốn đạt được mục đích này thì cần sắp xếp sao cho con người trong
xã hội gần gũi nhau, trong tinh thần đích thực bình đẳng và bác ái.
Cứu Vãn Ảo Tưởng Đã Mất
Khi
nhận thấy giấc mộng chính trị siêu hình của mình sẽ không bao giờ có
thể thành được sự thật trên cõi đời này, Platon đã mau lẹ và sáng suốt
xét lại mô hình lý tưởng của mình. Ông đã mạnh dạn điều chỉnh để sửa sai
tư tưởng, quan điểm và sáng tác ra một tác phẩm chính trị mới, có tựa
đề là Pháp Luật (Lois) thay thế tác phẩm cũ, Cộng Hòa (La République). Lần này Platon đà tỏ ra khiêm nhượng hơn, đã chỉ cổ võ cho một xã hội dựa trên Pháp Luật có
tính tôn giáo. Một xã hội xây dựng trên lòng tận tín của người dân vào
thần quyền cũng như vào sự chi phối của thần quyền. Để cứu vãn một ảo
tưởng đã mất, Platon vẫn đòi hỏi rằng nguyên tắc căn bản, đề xuất trong
tác phẩm Cộng Hòa (La République), theo đó giáo dục của công
dân phải chịu sự chỉ đạo của nhà cầm quyền. Có như vậy, người dân mới am
tường và thấu hiểu ý nghĩa của luật pháp. Đồng thời, Platon cũng rút
lại chủ trương “của cải chung” và thay thế bằng chế độ “của cải gia
đình”. Sau hết, Platon đã hạn chế số công dân trong Thành Quốc ở mức
5040 người. Tất nhiên, những người công dân này được miễn lao động chân
tay, vì là phần việc của nô lệ và người nước ngoài.
Bài Học Platon Để Lại Cho Hậu Thế
Mặc dầu Platon đã phải từ bỏ giấc mộng xây dựng một Thành Quốc lý tưởng, bằng một loại chính trị lý tưởng, nhưng hậu thế không thể không nhìn nhận rằng ông đã sáng tạo ra một viễn tượng mới về chính trị, khi ông mang tới cho chính trị một cứu cánh lý tưởng. Lý tưởng ấy đến từ bên ngoài con người. Vì Platon cho rằng con người chỉ đạt được lý tưởng đó nếu có kiến thức khoa học. Nhưng đừng vội cho rằng Platon là người duy khoa học. Ngược lại với xu hướng tương đối hóa đạo lý và chính trị, Platon bác bỏ ý kiến cho rằng con người là mẫu mực của mọi điều trên đời. Vì với Platon thì chính Thượng Đế mới là mẫu mực đó. Bởi thế, theo Platon, chỉ có những triết gia mới là những người lánh đạo chính trị. Vì các triết gia, như Platon đã trình bày trong tác phẩm Cộng Hòa của ông, là những người học rộng, tài cao. Và cái bản lãnh này đã thúc đẩy các triết gia thành những con người của hàng động. Và hành động sẽ dẫn con người tới Chí Thiện.
Trần Thanh Hiệp, LS
Mặc dầu Platon đã phải từ bỏ giấc mộng xây dựng một Thành Quốc lý tưởng, bằng một loại chính trị lý tưởng, nhưng hậu thế không thể không nhìn nhận rằng ông đã sáng tạo ra một viễn tượng mới về chính trị, khi ông mang tới cho chính trị một cứu cánh lý tưởng. Lý tưởng ấy đến từ bên ngoài con người. Vì Platon cho rằng con người chỉ đạt được lý tưởng đó nếu có kiến thức khoa học. Nhưng đừng vội cho rằng Platon là người duy khoa học. Ngược lại với xu hướng tương đối hóa đạo lý và chính trị, Platon bác bỏ ý kiến cho rằng con người là mẫu mực của mọi điều trên đời. Vì với Platon thì chính Thượng Đế mới là mẫu mực đó. Bởi thế, theo Platon, chỉ có những triết gia mới là những người lánh đạo chính trị. Vì các triết gia, như Platon đã trình bày trong tác phẩm Cộng Hòa của ông, là những người học rộng, tài cao. Và cái bản lãnh này đã thúc đẩy các triết gia thành những con người của hàng động. Và hành động sẽ dẫn con người tới Chí Thiện.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét