Nguồn: Thomas L. Friedman (2006). “The First Law of Petropolitics”, Foreign Policy, No.154 (May/June), pp 28-36.>>
Biên dịch: Trần Nguyễn Hồng Ngọc | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Tổng thống Iran phủ nhận việc Đức Quốc Xã diệt chủng người Do Thái, Hugo Chávez cho rằng các nhà lãnh đạo phương Tây nên xuống địa ngục, còn Vladimir Putin thì đang chủ động lấn lướt. Nguyên nhân từ đâu? Họ hiểu rằng giá dầu và tiến trình tự do luôn chuyển động ngược chiều nhau. Đó là định luật đầu tiên của chính trị dầu mỏ, và nó có thể là tiền đề cho những lý giải về một số đặc điểm trong thời đại của chúng ta.
Khi nghe tin Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad tuyên bố cuộc diệt chủng người Do Thái thời Đức Quốc Xã chỉ là một “câu chuyện tưởng tượng”, tôi không thể không nghĩ rằng “Liệu Tổng thống Iran có phát biểu như thế không nếu giá dầu chỉ ở mức 20 đô la thay vì 60 đô la một thùng như hiện nay.” Khi nghe tin Tổng thống Venezuela Hugo Chávez cho rằng cựu Thủ tướng Anh Tony Blair nên “xuống thẳng địa ngục” và phát biểu với những người ủng hộ mình rằng Khu vực Mậu dịch Tự do Châu Mỹ do Mỹ bảo trợ “là đồ bỏ đi”, tôi cũng tự hỏi “Liệu Tổng thống Venezuela có tuyên bố những điều này không nếu giá dầu hiện nay chỉ vào khoảng 20 đô la thay vì 60 đô la một thùng, và đất nước của ông ta phải tự lực phát triển nhờ những doanh nghiệp của riêng mình, chứ không chỉ nhờ mỗi việc khai thác những giếng dầu.”
Khi theo dõi các sự kiện ở vùng Vịnh trong suốt những năm qua, tôi nhận thấy quốc gia Ả Rập đầu tiên ở vùng Vịnh tổ chức bầu cử công bằng và tự do mà theo đó phụ nữ có thể ứng cử và bầu cử, đồng thời là quốc gia Ả Rập đầu tiên cam kết xem xét lại toàn bộ luật lao động để giúp người dân dễ dàng tìm việc và ít phụ thuộc hơn vào lao động nhập khẩu, là Bahrain. Bahrain lại tình cờ được dự đoán là quốc gia Ả Rập đầu tiên ở vùng Vịnh sớm cạn kiệt nguồn cung dầu mỏ. Đây cũng là nước đầu tiên trong khu vực kí hiệp định mậu dịch tự do với Mỹ. Tôi liền tự hỏi rằng: “Liệu tất cả những điều đó có phải chỉ là một sự ngẫu nhiên hay không?” Và cuối cùng, khi nhìn ra thế giới Ả Rập, và theo dõi các nhà hoạt động dân chủ nổi tiếng ở Li-băng đẩy quân đội Syria ra khỏi đất nước của họ, tôi đã tự nhủ: “Đó có phải là một trùng hợp tình cờ hay không khi mà nền dân chủ thực sự đầu tiên và duy nhất của thế giới Ả Rập lại là nước không có một giọt dầu nào?”
Chính tôi là người đầu tiên phải thừa nhận rằng đây không phải là một thí nghiệm khoa học, vì sự đi lên hay đi xuống của tự do về kinh tế và chính trị trong một xã hội không bao giờ có thể được định lượng hay hoán đổi với nhau một cách hoàn hảo. Tuy nhiên, vì tôi không phải đang cố gắng để kiếm được một chân giảng dạy hay nghiên cứu, mà chỉ là nhằm chứng minh cho một suy nghĩ cảm tính và khơi dậy tranh luận về điều đó, tôi nghĩ rằng việc cố gắng giải thích mối tương quan giữa giá dầu và tiến trình tự do, thậm chí ngay cả với những khiếm khuyết của nó, vẫn có những giá trị nhất định. Bởi vì trong tương lai gần, việc tăng giá dầu thô chắc chắn là một nhân tố quan trọng hình thành nên các mối quan hệ quốc tế, cho nên chúng ta phải cố gắng thấu hiểu được bất kì sự liên hệ nào có thể có giữa giá dầu với đặc điểm và xu hướng của nền chính trị toàn cầu. Những đồ thị được tập hợp ở đây gợi ra mối liên hệ trực tiếp giữa giá dầu và mức độ tự do – trên thực tế, điều đó rõ ràng đến nỗi tôi thực sự mong muốn bắt đầu cuộc thảo luận bằng việc đưa ra Định luật Thứ nhất của Chính trị dầu mỏ.
Định luật này cho rằng: Giá dầu luôn tỷ lệ nghịch với tiến trình tự do ở những quốc gia nhiều dầu mỏ. Theo Định luật Thứ nhất của Chính trị dầu mỏ, khi giá dầu thô trung bình của thế giới càng lên cao thì quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, các cuộc bầu cử tự do và công bằng, bộ máy tư pháp độc lập, nền pháp trị, và các đảng chính trị độc lập càng bị mất dần. Và những xu hướng tiêu cực này đang được củng cố bởi một thực tế rằng khi giá dầu càng lên cao thì các nhà lãnh đạo ở các quốc gia dầu mỏ lại càng ít nhạy cảm với những gì thế giới nghĩ hay nói về họ. Ngược lại, cũng theo Định luật này, khi giá dầu càng hạ thấp thì các quốc gia dầu mỏ càng buộc phải hướng đến một hệ thống chính trị và xã hội trong sạch hơn, nhạy cảm hơn với những tiếng nói đối lập, cũng như tập trung hơn vào xây dựng các cấu trúc luật pháp và giáo dục giúp tối ưu hóa năng lực người dân của cả nam giới và nữ giới, nhằm cạnh tranh, khởi nghiệp và thu hút đầu tư nước ngoài. Khi giá dầu thô càng đi xuống, các nhà lãnh đạo ở các quốc gia dầu mỏ càng chú ý hơn đến những điều mà các lực lượng bên ngoài nghĩ về họ.
Một điều chắc chắn là các chuyên gia kinh tế từ lâu đã chỉ ra một cách khái quát những tác động tiêu cực về kinh tế và chính trị mà sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên có thể ảnh hưởng đến một quốc gia. Hiện tượng này đã được gọi theo nhiều tên khác nhau là “căn bệnh Hà Lan” (Dutch Disease) hay “lời nguyền tài nguyên” (resource curse). “Căn bệnh Hà Lan” là thuật ngữ để chỉ quá trình phi công nghiệp hóa, kết quả của những khoản thu nhập to lớn bất thình lình từ tài nguyên thiên nhiên. Thuật ngữ ra đời tại Hà Lan vào những năm 1960, sau khi người ta phát hiện được những mỏ khí tự nhiên với trữ lượng rất lớn ở quốc gia này. Hiện tượng xảy ra ở các nước mắc phải “căn bệnh Hà Lan” nói một cách ngắn gọn là việc đồng nội tệ ở những nước này tăng giá vì nguồn thu ngoại tệ đột ngột chảy vào nhờ xuất khẩu dầu mỏ, vàng, khí đốt, kim cương hay các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Kết quả là những mặt hàng công nghiệp xuất khẩu không còn khả năng cạnh tranh, trong khi hàng nhập khẩu thì giảm giá còn rất rẻ. Người dân khi đã rủng rỉnh tiền trong túi bắt đầu đổ xô mua hàng nhập khẩu, khiến ngành công nghiệp trong nước trở nên chết yểu, và quá trình phi công nghiệp hóa xảy ra. Thuật ngữ “lời nguyền tài nguyên” nói về hiện tượng kinh tế tương tự, cũng như rộng hơn là cách thức mà sự phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên phá hỏng nền chính trị và các ưu tiên về đầu tư và giáo dục của một đất nước. Khi đó tất cả sẽ xoay quanh việc ai kiểm soát “van dầu” và ai được chia bao nhiêu phần của cái bánh, chứ không phải là làm thế nào để cạnh tranh, cải tiến và sản xuất ra sản phẩm thực cho thị trường thực.
Bên cạnh những lý thuyết tổng quát này, một số nhà chính trị học cũng đã tìm hiểu cách thức mà trữ lượng dầu mỏ dồi dào có thể làm đảo ngược hay xói mòn các xu hướng dân chủ hoá. Một trong những phân tích rõ ràng nhất về vấn đề này mà tôi được tiếp cận là nghiên cứu của nhà khoa học chính trị Michael L. Ross tại trường Đại học California (Los Angeles). Sử dụng phân tích thống kê từ 113 quốc gia trong giai đoạn từ 1971 đến 1997, Ross đã rút ra kết luận rằng “sự phụ thuộc vào xuất khẩu dầu mỏ hay các khoáng sản khác có xu hướng khiến cho một quốc gia trở nên ít dân chủ hơn, trong khi việc xuất khẩu các sản phẩm cơ bản khác lại không gây ra hệ quả như thế; hiện tượng này hoàn toàn không chỉ giới hạn ở bán đảo Ả Rập, khu vực Trung Đông, hay vùng phía Nam sa mạc Sahara, và cũng không chỉ xảy ra ở các quốc gia nhỏ (mà còn ở cả các nước lớn).”
Theo tôi, điều đặc biệt hữu ích trong phân tích của Ross là danh sách các cơ chế rõ ràng mà theo đó nguồn thu nhập khổng lồ từ dầu mỏ đã làm hạn chế nền dân chủ. Đầu tiên, Ross lập luận rằng tồn tại một “hiệu ứng thuế”. Chính phủ của các nước nhiều dầu mỏ thường sử dụng những khoản thu nhập của mình vào việc “làm giảm các sức ép xã hội, vốn có thể dẫn tới những đòi hỏi lớn hơn về trách nhiệm giải trình” từ chính quyền, hoặc phải đưa đại diện của người dân vào các cơ quan quyền lực. Nếu là tôi, tôi sẽ trình bày luận điểm ấy như sau: Khẩu hiệu của cuộc Cách mạng Mỹ là “không đóng thuế nếu không có đại diện” (no taxation without representation).[1] Những nhà cầm quyền độc tài của các quốc gia dầu mỏ lại biến khẩu hiệu này thành “không phải đóng thuế thì không có đại diện” (no presentation without taxation). Để tồn tại, các chế độ dựa vào dầu mỏ không cần bắt người dân đóng thuế, bởi vì họ chỉ cần lấy thu nhập từ dầu mỏ để bù vào khoản thiếu hụt này, và theo đó họ cũng không cần lắng nghe ý kiến nhân dân hay đại diện cho mong muốn của nhân dân.
Ross gọi cơ chế tác động thứ hai của dầu mỏ khiến việc dân chủ hóa bị hạn chế là “hiệu ứng chi tiêu”. Nguồn thu nhập từ dầu mỏ giúp chính phủ tăng các khoản chi tiêu tạo thành mạng lưới quan hệ bảo trợ, và nhờ đó giảm được áp lực dân chủ hoá. Cơ chế tác động thứ ba mà ông chỉ ra được gọi là “hiệu ứng nhóm xã hội”. Khi lợi nhuận từ dầu mỏ mang đến cho nhà nước độc tài nguồn thu rủng rỉnh, chính quyền có thể dùng lượng của cải vừa thu được đó để ngăn chặn sự hình thành các tổ chức xã hội độc lập – các nhóm hoạt động thường đòi hỏi quyền lợi chính trị tích cực nhất. Ngoài ra, Ross còn khẳng định rằng các khoản thu vượt trội từ dầu mỏ có thể tạo ra “hiệu ứng đàn áp”, bởi vì chúng cho phép chính quyền có thể thoải mái cung cấp tiền cho lực lượng cảnh sát, an ninh trong nước và cơ quan tình báo nhằm đàn áp các phong trào dân chủ. Cuối cùng, Ross nhắc đến một tác động nữa gọi là “hiệu ứng hiện đại hoá”. Nguồn thu khổng lồ từ dầu mỏ có thể làm giảm bớt áp lực xã hội về chuyên môn hóa nghề nghiệp, đô thị hoá, và nâng cao trình độ học vấn – các xu hướng thường đi cùng với phát triển kinh tế, đồng thời tạo ra một cộng đồng người dân gắn kết, có khả năng tổ chức, thương lượng và giao tiếp tốt hơn, cũng như có thể tạo ra những trung tâm quyền lực kinh tế riêng độc lập với chính quyền.
Trục dầu mỏ?
Lí do mà mối liên hệ giữa giá dầu và tiến trình tự do ngày nay cần được nghiên cứu là vì dường như chúng ta đang chứng kiến quá trình giá dầu thô của thế giới bắt đầu đi lên mạnh mẽ. Nếu đúng như thế, mức giá cao này gần như chắc chắn sẽ có những tác động dài hạn đến đặc điểm của nền chính trị ở các nước yếu hay độc tài. Điều đó tới lượt nó có thể sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình thế giới sau Chiến tranh Lạnh như chúng ta đã và đang chứng kiến. Nói một cách khác, tin tức giá dầu thô hiện nay không chỉ là vấn đề lo lắng của riêng Bộ trưởng Tài chính Mỹ, mà còn là mối quan tâm của cả ngài Ngoại trưởng nữa.
Từ góc nhìn chính trị, điều đó có nghĩa là một loạt quốc gia dầu mỏ với các thể chế yếu kém hoặc các chính quyền độc tài rất có khả năng sẽ phải đối mặt với tình trạng xói mòn tự do, cũng như sự gia tăng tham nhũng và các hành vi độc tài, phi dân chủ của nhà cầm quyền. Lãnh đạo của các quốc gia này có thể hi vọng vào sự gia tăng đáng kể nguồn thu nhập có sẵn để tăng cường lực lượng an ninh, mua chuộc các đối thủ, mua phiếu của cử tri hay sự ủng hộ của công chúng, cũng như chống lại các tiêu chuẩn và quy tắc quốc tế. Chỉ cần lướt qua bất kì tờ báo nào vào bất cứ ngày nào trong tuần, ta cũng có thể thấy các bằng chứng của xu hướng đó.
Lấy thí dụ một bài viết đăng vào tháng 2 năm 2005 trên tờ Wall Street Journal. Bài viết kể lại chuyện các giáo chủ ở Tehran vốn nhận được rất nhiều tiền từ việc dầu thô tăng giá đã quay lưng với các nhà đầu tư nước ngoài thay vì trải thảm đỏ mời họ vào như thế nào. Bài báo có nhắc đến việc hãng điện thoại di động của Thổ Nhĩ Kì là Turkcell đã kí hợp đồng với Tehran để thành lập công ty điện thoại di động tư nhân đầu tiên tại nước này. Vụ làm ăn quả thật rất hấp dẫn: Turkcell đồng ý trả cho Iran 300 triệu đô la để được cấp phép thành lập với vốn đầu tư 2,25 tỉ đô la vào dự án, tạo ra 20 nghìn việc làm cho người dân Iran. Nhưng các giáo chủ trong Quốc hội Iran đã tìm cách đóng băng hợp đồng, viện cớ rằng gián điệp nước ngoài sẽ lợi dụng mạng di động để theo dõi nước này. Ali Ansari, một chuyên gia về Iran thuộc trường Đại học Saint-Andrew (Scotland) kể với tờ báo rằng các nhà phân tích Iran đã luôn kêu gọi cải cách kinh tế trong suốt cả chục năm qua. “Nhưng trên thực tế tình hình ngày càng xấu đi”, Ali nói. “Họ đã có tiền từ giá dầu mỏ tăng cao và chẳng cần làm gì để cải cách kinh tế cả.”
….
0 nhận xét:
Đăng nhận xét