TỪ TRONG NHÀ, RA NGOÀI CHỢ
Phan Tấn Hùng
I.
MỘT GIA ĐÌNH TAN NÁT
Từ thế hệ của
ông nội của ông nội tôi, họ tôi chia thành ba nhánh :
-
Người anh cả của ông tôi theo đạo tiên, chuyên tu luyện bùa phép. Nhánh này
không còn người thừa kế.
-
Người anh thứ hai, bỏ hẳn đạo nhà để theo Thánh giáo (Catô giáo). Nhánh còn
lại khá đông.
-
Ông tôi là em út, tiếp tục giữ đạo gia tiên, và ba tôi là người thừa kế chịu
trách nhiệm gìn giữ từ đường kể từ khi ông nội tôi già yếu.
Hằng năm ba
tôi ra thư thông báo mời tất cả các chi nhánh khác về tham dự lễ giỗ ông bà
tại nhà thờ họ. Ba tôi đích thân đi mời các trưởng chi. Anh tôi và tôi, từ
khi còn niên thiếu đã phụ ba tôi chia nhau đi mời các gia đình Catô giáo.
Mỗi năm mỗi mời, nhưng không thấy ai về cả. Tuy không dám nói ra nhưng bực
mình lắm và tôi đã thầm trách rằng: "Theo đạo nào thì theo nhưng cũng
phải biết quý trọng ông bà mình chứ. Tôn giáo nào lại dạy bỏ ông bỏ bà bao
giờ. Nếu có thứ tôn giáo như vậy thì chắc chắn đây không phải là tôn giáo
tốt, không nên gần gũi với nó, v.v...".
Mãi đến mấy
năm cuối thập niên 60 mới thấy có một vị lão trượng của nhánh này về, nhưng
chỉ để chào hỏi chứ không vào đảnh lễ trước bàn thờ tổ tiên. Lúc đầu chỉ một
vị, năm sau có thêm vài vị nữa. Tôi cảm thấy có phần được khích lệ và vui
thầm với kết quả khiêm tốn đó. Nhưng lại bị thất vọng ngay khi được nghe một
lão trượng nói rằng : "Thật ra chúng tôi đâu có quên ông bà, đâu có muốn từ
bỏ bà con, nhưng chúng tôi không được phép thờ cúng ông bà tổ tiên. Mấy năm
gần đây, từ sau Công Đồng Vatican II, sự cấm đoán có phần nhẹ bớt, nên chúng
tôi về với bà con".
Tại sao những
người bà con của tôi chấp nhận nổi những cấm đoán như vậy? Và bằng cách nào
Giáo Quyền Catô giáo đã làm được điều này, nếu không phải là đã mê hoặc hay
ngu muội bà con tôi? Lòng tín ngưỡng của bà con tôi nhiệt thành đến độ mà
tôi không thể hiểu nổi. Chẳng hạn như, làm sao họ có thể tin được chuyện Đức
Maria đã di cư vào
Nam
hồi năm 1954. Và làm sao Giáo Quyền Catô giáo có thể dám nghĩ và dám bịa ra
được loại tin như vậy nhỉ? (Chính thống giáo - Orthodoxe - và Phản Thệ giáo
- Protestant - không tin tính đồng trinh mãi của Maria vì họ tin rằng Maria
có những người con khác với Joseph).
Tại sao những
người bà con của tôi phải đợi đến năm 1974, sau quyết định chính thức của
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho phép người Catô hữu lập bàn thờ tổ tiên và lễ
lạy ông bà, trong khi người Catô giáo Trung Hoa đã luôn luôn giữ việc thờ
cúng tổ tiên và đã được phép làm việc đó từ năm 1938, mới dám biểu lộ tín
ngưỡng của mình đối với ông bà tổ tiên? Tại sao người ta nhân danh một tôn
giáo, nhân danh một tín ngưỡng, để cấm cản tín ngưỡng của người Việt đối với
ông bà tổ tiên? Tự do tín ngưỡng là chỗ nào?
Biết bao nhiêu
câu hỏi tại sao đã nói đến với tôi từ thời niên thiếu, và vì thế tôi đã sớm
bắt đầu tìm hiểu về Catô giáo, trước nhất là để hiểu những người bà con của
tôi, với ước mong sẽ có ngày đưa họ trở về với giòng họ và với dân tộc. Thật
vậy, nếu không có gì can hệ đến giòng họ và với dân tộc thì chắc chắn tôi đã
không bỏ mất thì giờ tìm hiểu Catô giáo làm gì. Từ đó tôi tìm hiểu thêm các
tôn giáo khác bằng cách so sánh, mỗi ngày thêm một chút. Việc nghiên cứu trở
nên thật sự bổ ích cho chính bản thân tôi, và chỉ tiếc rằng phải chi những
người bà con tôi được giáo dục để có được một trình độ suy nghĩ tối thiểu
thì giòng họ tôi, và dân tộc tôi nữa, đã không bị phân chia.
Chiêu sách "chia
để trị" nào có mới mẻ gì. Mọi thế lực ngoại bang, và mọi chính quyền phục vụ
cho các thế lực ngoại bang đều làm như vậy. Người ta dựng nên trong nội bộ
mọi dân tộc đủ loại "Bức Tường" : bức tường tôn giáo, bức tường giai cấp,
bức tường sắc tộc, bức tường địa phương... Người Ái Nhĩ Lan giết hại nhau vì
một bên Catô giáo và một bên theo Phản Thệ giáo (Protestant) ; ở Ru-ăng-đa,
hai sắc dân Tutsi và Utu vốn cùng một văn hóa, cùng một tiếng nói, nay đã
trở thành kẻ thù không đội trời chung; ở Ca-mơ-run, ai không có "Giấy chứng
nhận đã rửa tội" (carte baptême) phải đóng một số tiền mới được cảnh binh
cho phép vào thành phố. Tưởng Giới Thạch đã phải cải đạo theo Phản Thệ giáo
để được làm rễ trong gia đình họ Tống; và chính quyền Tưởng, được mệnh danh
là "chính quyền quốc gia", đã ban hành sắc lịnh năm 1937 cấm nghiên cứu Dịch
lý, cấm thực hành môn châm cứu và môn phong thủy, vốn là di sản truyền thống
của văn minh Trung Hoa. Rồi nhìn lại những gì đã xảy ra ở Việt Nam, dưới một
bên là "chính quyền quốc gia" chống cộng (lý lẽ hiện hữu của chính quyền này)
và một bên là "chính quyền cộng sản" chống "đế quốc tư bản chủ nghĩa" dân
tộc Việt Nam bị kéo về hai phía, giết nhau tận tình. Để làm gì? Để xây dựng
cái gì cho dân tộc Việt Nam? Câu hỏi này được đặt ra cho cả hai bên, nhưng
có lẽ câu trả lời chỉ tìm thấy ở nơi khác.
II. QUANH VẤN
ĐỀ TÔN GIÁO
Có nhiều điều
làm tôi ngưỡng mộ Giêsu. Hằng mấy trăm năm trước khi Giêsu ra đời, người Do
Thái chờ đợi một "Đấng được ban xuống" để giải cứu dân tộc này. Họ đã nghĩ
tưởng rằng "Đấng cứu thế" của họ phải là một sức mạnh không gì chống nổi:
vung tay một cái là Đế Quốc Rô Ma tan tành ; búng tay một cái là Do Thái
thành giàu mạnh; v.v... Giêsu không là và đã không làm như họ mơ đợi, ngược
lại Giêsu kêu gọi hãy từ bỏ thế giới mộng tưởng đó đi, thế giới đầy những
giáo điều và lũng đoạn của Giáo Quyền Do Thái giáo. Chẳng những thế, Giêsu
còn chống lại khái niệm thần quyền cực đoan của tôn giáo này. Theo Cựu Ước,
Abraham đã sẵn sàng giết chết Issac, người con duy nhất của ông để thỏa mãn
yêu cầu của Daquê, một Thiên Chúa hung dữ. Với Giêsu, Thiên Chúa chẳng những
đã được thể hiện qua hình ảnh một người Cha nhân từ mà còn đã hiện hóa thành
người, nơi con người và là người. Lời nói và việc làm Giêsu bị lên án, ngay
cả Thánh Pie, đệ tử trung thành nhất của ngài, cũng không tin chính ngài là
“đấng cứu thế”, và người ta đã quyết định đóng đinh ngài trên thập giá.
Muôn đời con người đi tìm hay chờ đợi “sự thật”, nhưng khi “sự thật” hiện
hữu trước mặt thì không thừa nhận, chỉ vì “sự thật” không giống ước mơ của
con người, trần truồng quá, bình dị quá. Hãy từ bỏ thế giới ảo tưởng được
tiêm nhiễm trong mỗi người, nó đầy tiên kiến, qui định, giáo điều, đầy lo sợ,
phiền não... để trở về sống với thế giới của thực tại. Mà thực tại là vô
thường, là vần chuyển mãi, là mãi mãi trở thành, và mọi sự mọi vật đều liên
hệ phụ thuộc lẫn nhau. Khi đã trở về với thực tại, mỗi người sẽ thấy rõ đâu
là con đường của chính mình để tiến đạt dần đến trạng thái tự do và thanh
tịnh hoàn toàn (tự tại). Trạng thái này Đức Phật gọi là niết bàn, nó là
thành quả của quá trình quán chiếu và thẩm thấu thực tại, chứ không phải là
cứu cánh của Phật pháp (hay phương pháp giúp giải trừ mộng tưởng).
Giêsu đã chống sự toàn trị của Đế Quốc Rôma và cũng đã dạy “Đừng gọi ai là
cha vì các ngươi chỉ có một Cha duy nhất trên trời, đừng tôn ai làm thầy vì
các ngươi chỉ có một người Thầy là ta”. Ôi, còn biết bao nhiêu điều Giêsu đã
làm, đã dạy, không được những người nhân danh ông, nhân danh Giáo Hội của
ông, tôn trọng kế thừa!
Vấn đề tôn giáo, dù muốn hay không đây cũng là vấn đề lớn của xã hội, và
việc giáo dục người dân là trách nhiệm của nhà cầm quyền. Ước gì môn tôn
giáo học được giảng dạy trong chương trình trung học, được nghiên cứu và
thảo bàn rộng rãi ở cấp đại học, kèm với việc chuyển dịch các tài liệu Âu Mỹ
sang tiếng Việt, để cho tuổi trẻ Việt Nam có dịp mở mang kiến thức, có dịp
làm quen với các tôn giáo, kể cả các tôn giáo chưa có mặt tại Việt Nam.
Nhưng vì khi kiến thức của người dân được mở mang thì ngôi vị của tầng lớp
cầm quyền sẽ bị đe dọa, nên có lẽ ước mơ này chỉ có thể được thực hiện cách
tốt đẹp khi nào tại Việt Nam có một Nhà Nước thật sự hiểu và biết coi trọng
hai chữ “dân tộc” mà thôi.
Phong trào đòi các quyền tự do, trong đó có tự do tín ngưỡng và tự do tôn
giáo, nổ ra ở Âu Châu từ Thời Đại Ánh Sáng (thế kỷ thứ 16), bắt nguồn từ
phản ứng của người Âu Châu, khi đạt đến một trình độ tri thức nào đó, chống
lại sự độc tôn tôn giáo, độc quyền tín ngưỡng và tư tưởng, áp đặt bởi Giáo
Hội Catô giáo La Mã (trong cuộc đấu tranh này phải kể đến sự đóng góp to lớn
của các nhóm di dân người Do Thái, họ bị thảm sát không biết bao nhiêu lần
nhưng vẫn cương quyết giữ lấy tôn giáo gốc của mình). Chính nhờ thế mà Âu
Châu mới được như ngày hôm nay. Song song, cấu trúc Nhà Nước - Quốc Gia (Etat-Nation)
được thành lập, và tự do tín ngưỡng của người dân, nhất là khi người đó chưa
đến tuổi trưởng thành để có thể tự lựa chọn, được bảo vệ, cùng với việc bảo
vệ sự thống nhất quốc gia và sự sống yên ổn của người dân.
Luật pháp của các nước tiên tiến cho ta nhiều thí dụ. Tại Pháp, chẳng hạn,
trong Bộ Nội Vụ có một cơ quan lo về các vấn đề tôn giáo; cấm nhà thờ rung
chuông trước 10 giờ sáng, kể cả ngày nghỉ và ngày chủ nhật; cấm mọi tập tục
tôn giáo làm cản trở việc hôn nhân dị giáo; Jules Ferry hồi đầu thế kỷ này
đã đuổi các tu sĩ ra khỏi trường...; và mới đây (1995) Bộ Trưởng Nội Vụ mong
rằng tại Pháp có một tổ chức Hồi giáo vững chắc trong khuôn khổ của luật
pháp quốc gia và được luật pháp này bảo vệ, chứ không để phụ thuộc vào bất
kỳ một uy quyền nào nằm ngoài quốc gia.
Có
sự lẫn lộn giữa các chức vụ chính thức của Giáo Hoàng:
1/ Evêque de
Rome - Giám Mục giáo phận Rôma; 2/ Souverain Pontife de l’Eglise Catholique
de Rome - Giáo Hoàng của Giáo hội Catô giáo Rôma; và 3/ Chef d’ Etat du
Vatican - Nguyên thủ Quốc gia Vatican, nhưng quan hệ giữa một Nguyên thủ
Quốc gia với Giáo Hoàng là quan hệ trên căn bản giữa quốc gia với quốc gia.
Và khi một người công dân Việt Nam chẳng hạn nhận lãnh một tước vị
(cardinal, hồng y, monseigneur, mông xây nhơ), một chức vụ (giám mục địa
phận) và một sứ mạng (bành trướng nước Chúa tại Việt Nam chẳng hạn), thì
quốc gia Việt Nam phải thể theo công pháp quốc tế mà hành xử: toàn quyền xét
quyết, đồng ý hay không đồng ý, sự bổ nhiệm đó, và trong thời hạn nào; nhưng
khi đồng ý thì phải đối xử với đương sự như công dân của Vaitican, và cấp
cho người đó một giấy chứng minh thường trú (carte de résidence). Tại vì
người “Việt Nam” đó bây giờ đã là một công chức ngoại quốc chứ không còn là
một công dân Việt Nam nữa.
III. SÁCH CỦA
GIOAN PHAO LỒ II
Không phải
những câu trả lời của Giáo Hoàng, trong quyển Entrez Dans L’ Espérance
(Hãy vào với hy vọng), là quan trọng, vì ai có nghiên cứu về Giáo Hoàng
Quyền (La Papauté) đều có thể đoán trước được hướng tư tưởng và việc phải
làm của ông, nhưng chính những câu hỏi được nêu ra trong sách mới là đề tài
đáng được nghĩ bàn và thảo luận rộng rãi, vì trong đó một số câu hỏi được
đặt ra cho mọi người, mọi tôn giáo (cả “duy vật giáo”), chứ không phải chỉ
dành riêng cho Giáo Hoàng và Giáo Hội Catô giáo. Câu hỏi “Phải chăng Phật
giáo là giải pháp thay thế cho Thiên Chúa giáo ?” (trg. 139) đâu phải chỉ
nêu ra cho Giáo Hoàng; đâu phải tự nhiên mà nó được nêu ra; và câu hỏi, tự
nó, đã thể hiện như một thông điệp của hy vọng.
Thật ra Giáo
Hoàng đâu có trả lời câu hỏi này, ông chỉ lên lời cảnh giác giáo hữu của ông
mà thôi, với những lời phán xét chủ quan quen thuộc, đã từng thấy trong các
tài liệu của Giáo Hội hay trong những phúc trình của các nhà truyền giáo hồi
thế kỷ 17 hoặc 18, như nào là: Phật giáo không phải là một tôn giáo, là vô
thần, là xuất thế, là thấp kém (“suy tư của Đức Phật chỉ dừng lại chính là ở
chỗ khoa thần bí Camêlô bắt đầu” - trg. 143), hoặc như Allah của Hồi Giáo
(Allah không phải là Thượng Đế thật - trg. 153).
Mượn lời của
Đức Giêsu Kitô “Các con đừng sợ”, tôi xin đệ lời: “Thưa Giáo Hoàng, thưa
các Catô hữu, xin quý ngài đừng sợ; đừng sợ Phật giáo, đừng sợ Hồi giáo,
đừng nên hạ thấp các tôn giáo khác; đó không phải là cách để tôn vinh tôn
giáo của quý ngài”. Đâu phải vì Phật giáo hay vì Hồi giáo mà ngày nay
Catô giáo phải gặp khủng hoảng Đức Tin và Giáo Hội của quý ngài đang gặp
khủng hoảng quyền lực, và đâu phải các khủng hoảng này chỉ dành riêng cho
Catô giáo và Giáo hội của quý ngài.
Mọi cơ cấu tổ
chức trong xã hội con người đều phải dựa trên một cấu trúc tư tưởng (hay đức
tin), và mọi tổ chức nếu không tự cải sửa cơ cấu và tư tưởng để theo kịp
trình độ phát triển kiến thức của thời đại đều phải gặp khủng hoảng.
IV. GẶP GỠ
ĐÔNG TÂY
Toàn bộ hệ
thống tư tưởng của truyền thống Âu Tây đặt trên hai chữ “Sáng tạo” (création),
và dĩ nhiên khái niệm “sáng tạo” phải đi đôi với khái niệm “đấng sáng tạo”,
với một thời điểm “sáng thế” và một ngày “tận thế”. Nhưng với đà phát triển
vùn vụt của kiến thức khoa học hiện nay, khái niệm “tiến trình” (processus)
thay thế nhanh chóng khái niệm “sáng tạo”: Con người không còn được xem là
tạo phẩm đã hoàn thành của Thiên chúa nữa, mà là một “tiến trình”, “tiến
trình trở thành”, mãi mãi trở thành, không điểm khởi đầu, không ngày chấm
dứt. “Sự bùng nổ (big bang) cũng thế, là một bước trong “tiến trình trở
thành” toàn diện và dài dẳng của vũ trụ. Vũ trụ cũng là một tiến trình. Và
để đạt được trình độ kiến thức hiện nay, khoa học cũng phải trải qua một
tiến trình.
Ở trình độ
phát triển kiến thức này, Đức Tin nền tảng thứ hai của Thiên Chúa giáo (sau
Đức Tin thứ nhất về sự sống lại của Giêsu Kitô) bị phủ nhận hay bị hoài nghi,
và khoa học hiện đại bắt gặp nền tảng tư tưởng của truyền thống Á Đông,
trong đó có tư tưởng của Phật giáo. Nhưng không phải vì thế mà các hệ tư
tưởng Á Đông, nói chung, và Phật giáo nói riêng, không gặp phải khủng hoảng
ở mặt tổ chức và quyền lực.
Mượn lời của
Đức Giêsu Kitô một lần nữa, tôi xin thưa với quý vị Phật tử rằng: “Xin
quý ngài đừng sợ; đừng sợ Catô giáo; và cũng đừng ngạc nhiên khi thấy Catô
giáo Việt Nam trưng lên ngọn cờ quốc gia dân tộc, chống việc Tây phương hóa
Việt Nam”. Vì ngày nay Tây phương hóa đồng nghĩa với khoa học hóa (dù
khoa học hóa không hẳn là Tây phương hóa) và đồng nghĩa với thế tục hóa,
thuốc giải trừ mọi thứ đức tin không kiểm nghiệm được.
Nhân loại
không thể dừng lại ở thời đại “hậu thế chiến 2”, thời đại mác-cạt tít (chủ
nghĩa Mc Carthy, Mỹ): “Với bom nguyên tử chúng ta sẽ Thiên Chúa giáo hóa
toàn thế giới”. Đạo học Đông Phương và khoa học Tây Phương đang tìm gặp nhau,
như đang tìm phân nửa khác của chính mình. Cả hai đều thấy rõ mối quan hệ hỗ
tương liên lập giữa mọi sự mọi vật (nhân duyên sinh Phật giáo), và mỗi bên
đang nỗ lực tìm một tổng hợp đề cho nhân loại ngày mai.
Nếu người Âu
Châu không từ bỏ thế giới của họ, không tự giải thoát khỏi những ràng buộc
của thế giới Âu Châu thời trung cổ, thế giới bị ngự trị bởi những đức tin,
tín điều, tiên kiến, qui định phải trái tốt xấu, thế giới xây nền trên hai
chữ “sáng tạo”, ngắn gọn “thế giới sáng tạo”, thì Âu Châu đã không được như
ngày nay, và kiến thức khoa học cũng không thể phát triển nhanh, để bước
sang “thế giới tiến trình và liên lập” như hiện nay.
“Thế giới sáng
tạo” là thế giới cứng chết (chẳng hạn như: con người là tạo phẩm đã hoàn
thành của Thiên Chúa). “Thế giới tiến trình” là thế giới sinh động và mãi
mãi trở thành, tức là nó bao hàm chiều kích thời gian. “Tiến trình trở thành”
là tiến trình cải tiến mãi hiện tại để tiến tới tương lai, mà hiện tại cũng
là một bước cải tiến từ và trên căn bản của quá khứ. Ở đây có đặt vấn đề làm
mới mãi quá khứ và hiện tại chứ không đặt vấn đề phủ nhận hay xóa bỏ nó. Tức
là khỏi phải làm “cách mạng”!
Chính vì thấm
nhuần quan niệm “tiến trình” này mà người Nhật đã tạo nên được quốc sách
“cải thiện” (kaizen), áp dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội Nhật
Bản. Và như nhiều người đã biết, nếu không có quốc sách kaizen thì cũng
không có nước Nhật của quá khứ và không ngừng tiến đến tương lai.
“Con người trở
thành” là “con người phi tôn giáo” (theo nghĩa Tây Phương), không phải chống
tôn giáo. Nhưng không phải chỉ các tôn giáo sẽ bị vượt qua, mà tất cả những
gì xây nền trên quan niệm “con người là tạo phẩm của Thiên Chúa” đều bị xét
lại. “Quyền con người” cũng là một tiến trình, cũng trải qua nhiều thế hệ
trước khi nó ra đời, và từ 1791 đến nay nó đã trải qua nhiều lần điều chỉnh
cho hợp với cách nhìn mở rộng về con người (mãi đến sau thế chiến thứ 2,
người ta mới bắt đầu thừa nhận các dân da màu cũng là người). Nhưng nay nó
không còn có thể điều chỉnh được nữa, vì chính quan niệm nền tảng cũ về con
người đã không còn giá trị. Và dĩ nhiên 3 nguyên lý nền tảng: tính hợp lý,
tính cá nhân và tính giao kèo, của cấu trúc và sinh hoạt chính trị, xã hội
và luật pháp của các thể chế dân chủ Âu Mỹ, vì cũng xây nền trên “Quyền con
người” này, nên cũng bị mất chân đứng và khủng hoảng trầm trọng.
V. HÃY VÀO VỚI
THỜI ĐẠI
Nhà nghiên cứu
chính trị của trường Harvard, S.Huntington, qua bài viết của ông “The Clash
of Civilisation?” đăng trong Foreign Affairs số mùa hè năm 1993, cho rằng
những tranh chấp quốc tế trong tương lai sẽ năng màu sắc văn hóa hơn là ý hệ
và kinh tế; hẳn nhiên là còn nhiều chỗ cần được thảo bàn thêm, nhưng luận đề
này cũng lưu ý chúng ta rằng “muốn có mặt trong thế giới ngày mai, Việt Nam
cần phải có cái văn hóa của mình”. Hoặc nói rằng Việt Nam cần làm một tổng
hợp, Đông và Tây, Hoa và Ấn, hơn là đối thoại hay đối đầu, thì công việc
cũng phải bắt đầu từ chỗ biết mình là ai, đang ở đâu và muốn gì cho ngày mai.
Hoặc như nói rằng “thời đại này là thời đại của đối thoại”, nhưng nếu không
biết ta là gì thì Việt Nam lấy gì để đối thoại.
Nói cách khác,
người Việt cần phải bắt đầu ngay từ bây giờ và mãi mãi cuộc hành trình tìm
lại chính mình, tìm lại dân tộc tính Việt. Đây mới thật là vấn đề sống còn
của dân tộc. Không thế, người Việt và nước Việt có thể trở thành bất cứ cái
gì nhưng chắc chắn không phải là Việt Nam.
ĐỐI THOẠI: “SỞ TRI CHƯỚNG”
VÀ “KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”
Phạm Trọng Chánh
Giáo Hoàng
Gioan Phaolô Đệ Nhị là vị uyên bác giáo lý Kitô giáo, Ngài đã và đang làm
những chuyện phi thường, điều đó mọi người đều công nhận. Ngài là Người đối
thoại với mọi tôn giáo và có lẽ là vị Giáo Hoàng đầu tiên viết vài trang
sách về Phật giáo. Tiếc thay khi đối thoại với Phật giáo tâm trạng Ngài lại
giống như thi hào Lý Bạch đứng trước Hoàng Lạc Lâu:
Trước mắt
có cảnh không tả được
Vì thơ Tô
Hiệu ở trong đầu.
Ngài viết về
Phật giáo nhưng trong đầu Ngài đầy những kiến thức về Thánh Gioan Thánh Giá,
Thánh Têrêxa Avila, khoa thần bí Carmêlô, Thánh Thomas Aquinas, những nhà
thần bí Bắc Âu, Vincent de Paul, Gioan Bosco, Maximilian Kolbe … Điều nhà
Phật gọi là sở tri chướng, cái hiểu biết đã sẵn có đã đầy, ngăn cản
điều hiểu biết mới như tách trà đã đầy, rót thêm chỉ tràn ra ngoài. Như tâm
trạng người Việt Nam nặng lòng cố quốc tha hương đi đến đâu cũng thấy cảnh
quê mình, đứng trước tháp Ép – phen (Eiffel) thì thấy cái chòi tre quê mình,
trước nhà thờ Đức Bà Paris thì chỉ thấy ngôi chùa làng mình, trước bãi biển
Nice thì cứ như thấy ở Vũng Tàu, rồi so sánh cái thấp, cái cao, cái to, cái
nhỏ. Một đôi điều giống nhau cũng đủ “tâm viên ý mã” đi từ kỷ niệm này sang
kỷ niệm khác.
Đi từ cái
“tâm” sẵn có ảnh hưởng bởi những hiểu biết trước trong đầu, những nhận thức
về Phật giáo của Giáo Hoàng làm cho những người hiểu biết về Phật giáo khó
chịu và cảm thấy thương tổn. Nếu không thể so sánh được cái chòi tre với cái
tháp Eùp-Phen thì cũng không nên so sánh “khoa thần bí Carmêlô này khởi đầu
chính ở điểm mà những suy tư của Đức Phật dừng lại”. (Gioan Phaolo II -
Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng - Thăng Tiến CA 1995 - trang 100).
Nước biển cùng
một vị mặn nhưng không nên kết luận rằng bãi biển Nice là bãi biển Vũng Tàu.
Sự giác ngộ của Đức Phật không nên so sánh với Thánh Gioan Thánh Giá nhìn
thấy “tâm hồn con người được đốt cháy bằng ngọn lửa nồng nhiệt tình yêu”.
Hai tôn giáo khởi nguồn từ hai nền tảng khác biệt. Đạo Phật tin vào sự tự
cứu lấy mình, tự thắp đuốc lên mà đi. Kitô giáo tin vào sự cứu rỗi một Đấng
Thượng Đế, Phật giáo tin vào sự giác ngộ thoát vòng luân hồi. Kitô giáo tin
vào hồng ân lên cõi Thiên Đàng.
Đọc Bước
Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của Giáo Hoàng John Paul II, người đọc không khỏi
chú ý nhiều đến những câu hỏi của ký giả Vittorio Messori, những câu hỏi rất
hay, đặt đúng các vấn đề tâm điểm của Kitô giáo ngày nay. Những câu hỏi về
Kitô giáo nên để các nhà chuyên môn về vấn đề này suy nghĩ và thảo luận.
Câu hỏi về
Phật giáo biểu lộ mối ưu tư về một “cạnh tranh thị trường”, món hàng nhập
cảng “Phật giáo” ngày càng đông người “tiêu thụ” ngày càng bành trướng tại
Tây Phương, thu hút giới trí thức, các nhà tâm lý học, phân tâm học, môi
trường học. Phật giáo có nguy cơ là một “hoán đổi” hoặc “bổ sung” tại “thị
trường tôn giáo Tây Phương”. Nhiều tu sĩ, linh mục còn áp dụng Thiền vào
việc tỉnh tâm, nhiều học giả Thiên Chúa giáo nghiên cứu sâu rộng về Phật
giáo và bị “mê hoặc” bênh vực cho Phật giáo.
Những điều đó
làm đảo lộn cái trật tự chỉ muốn đem cái ánh sáng văn minh phương Tây khai
hóa cho các lục địa Á Phi, nghĩa là chỉ “xuất cảng” mà không muốn “nhập cảng”
để cân bằng cán cân thương mại. Tượng Phật được chấp nhận làm vật trang trí
tại Tây Phương để gắn lên cái chụp đèn cho đẹp căn phòng khách, được bày
trên tủ sách để chủ nhân tỏ ra là người khôn ngoan hiểu rộng học rộng!
Thiền là môn
thể dục không hơn không kém như Judo, Karaté. Tại Pháp, Phật giáo đã được
vượt qua biên giới chủng tộc tôn giáo của người Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật,
Việt Nam… hay tôn giáo của “người Tây Phương mắc bệnh tinh thần chân hổng
mặt đất” mà ngày càng lôi cuốn giới trí thức, công thương kỹ nghệ gia. Hơn
300.000 người Pháp theo đạo Phật trong vài thập niên gần đây và con số không
ngừng tăng trưởng, sách báo nghiên cứu đạo Phật ngày càng nhiều. Khi ngày
càng có đông đảo những người Tây Phương đi tu, ăn chay, tín đồ Tây phương
đến chùa đông đảo, học Thiền với người Tây Tạng, người Nhật, người Việt
Nam... và đã có những người Tây Phương cải đạo, đi giảng dạy Phật pháp, dạy
Thiền và đông đảo người đến học.
Phật giáo trở
thành mối đe dọa “cạnh tranh” trên thị trường Tây Phương. Tại Pháp, Thiên
Chúa giáo chỉ còn có 23% người ngoan đạo đi nhà thờ, số linh mục tu sĩ ngày
càng thiếu hụt. Hiện tượng các thánh lễ tại Pháp được cử hành bởi các giáo
sĩ da đen, da vàng trở thành phổ biến vì sự thiếu hụt tu sĩ.
Các trang sách
Giáo Hoàng viết về Phật giáo, Phật tử các nước trên thế giới đều không bằng
lòng, các nhà thần học trong giáo hội Thiên Chúa giáo đã vội xin lỗi về sự
khiếm khuyết của Giáo Hoàng trong sự hiểu biết về Phật giáo. Nó biểu lộ mối
lo ngại về “cạnh tranh thị trường” hơn là về triết học, tôn giáo, tư tưởng:
Món hàng gọi là mới đó, tôi cũng có tương tự, cái của tôi còn hay hơn, cao
siêu hơn, món hàng kia không xài được, không bền, không có Thượng đế “bảo
hiểm”.
Phật giáo
không phải là giáo phái “mẹ mìn” đang quyến rũ dụ dỗ con cái Chúa, cũng
không phải là ông thần của những dân tộc bán khai, mà là một tôn giáo lớn
Đông Phương với 2.500 năm hiện diện, một hệ thống tư tưởng xây dựng vững
vàng qua bao thời đại từ Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cao Miên,
Tây Tạng, Trung Quốc, Mông Cổ, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam. Sự đối thoại chỉ
có thể bắt đầu khi hai đối tượng công nhận lẫn nhau trong tinh thần tương
kính, bình đẳng.
Nếu những đoạn
viết trong cuốn sách trên về Phật giáo là của một linh mục truyền giáo hay
một trí thức Kitô giáo thì đó là việc bình thường vì hơn 300 năm qua, những
báo cáo, những bài viết các vị thừa sai về Phật giáo đầy rẫy những ngộ nhận
ngây ngô, những xuyên tạc ác ý như thế. Chúng ta có thể đọc những dòng tương
tự từ thời Alexandre de Rhodes. Điều này khác xa với thái độ nghiên cứu các
học giả người Anh và sự tôn trọng văn hóa, bản sắc tôn giáo người Anh đối
với Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện.
Nhưng bài viết
của Giáo Hoàng, một vị Thánh không thể nào có sai lầm (?), thì ảnh hưởng nó
sẽ tác hại vô cùng đến toàn thể tín đồ Thiên Chúa giáo trên thế giới. Điều
này giải thích lý do vì sao Phật giáo các nước Tích Lan, Thái Lan phản ứng
mạnh mẽ trong khi chẳng ai buồn trả lời hàng ngàn bài viết của các vị thừa
sai trong mấy thế kỷ qua về Phật giáo.
ĐẠO NÀO XUẤT THẾ TIÊU CỰC ?
ĐẠO NÀO NHẬP THẾ TÍCH CỰC ?
Nguyễn Hoài Vân
CHA TAO, CHA MÀY
Tôi rất ngán thái độ chia rẽ con người với con người bằng cách dán cho tôn
giáo này nhãn hiệu này, tôn giáo khác nhãn hiệu khác, rồi phong cho cái này
là tốt, là đúng, chê bai cái kia là thấp kém, là lầm lạc. Thái độ ấy cũng vô
lý và đáng thương như câu chuyện mấy đứa trẻ mồ côi đập nhau chí tử, để
tranh cãi rằng: “Cha tao giàu hơn cha mày, mạnh hơn cha mày, v.v…”,
mà không biết rằng chúng đều là anh em ruột cùng chung cha mẹ!
Thông thường, người ta hay bảo Ky Tô Giáo, Khổng Giáo, là “tích cực, nhập
thế”, còn Phật giáo, Lão Giáo là “tiêu cực, xuất thế”. Để dẹp bớt
cái luận điệu tào lao này, tôi sẽ nêu lên một số tính chất tiêu cực và xuất
thế trong tư tưởng Ky Tô Giáo, rồi nhìn qua vài khía cạnh tích cực, nhập thế
của Phật giáo. Tôi cũng có thể viết một bài tương tự với Khổng và Lão Giáo,
nhưng đó không phải là chủ đề của bài viết này.
VÀI MẶT TIÊU CỰC TRONG TƯ TƯỞNG KITÔ GIÁO
Xin chọn vài thí dụ, lấy từ thần học của Thánh Augustin (354-430), được coi
như một cột trụ của Giáo Lý Ky Tô Giáo. Vị thánh này là người đã “sáng chế”
ra “tội Tổ Tông” hay “tội nguyên thủy” (péché originel), để chống lại quan
điểm “nhân chi sơ, tính bổn thiện” của Thầy Tu Pélage (mất năm 418).
Trong khi Pélage cho rằng con người có tự do, và có thể tích cực chọn lựa
giữa làm việc thiện hay làm việc ác, thì Augustin quả quyết con người chỉ có
thể làm việc ác, và chỉ khi nào được hưởng nhờ Hồng Ân Thiên Chúa con người
mới biết làm việc thiện, để hy vọng được cứu rỗi. Quan điểm này hoàn
toàn tiêu cực, nhất là khi Augustin nhấn mạnh là Thiên Chúa chỉ ban phát
Hồng Ân của Ngài cho một số người được chọn lọc (praedestinati), theo những
tiêu chuẩn riêng của Ngài mà không ai có thể hiểu nổi. Tuy nói vậy, nhưng
Augustin cũng vẫn “bật mí” cho chúng ta biết một tiêu chuẩn trọng yếu: đó là
số người được hưởng nhờ ơn Chúa, và được giải thoát, phải bằng với con số
Thiên Thần bị giáng chức và bị tống cổ ra khỏi Thiên Đàng. Những người còn
lại, thuộc về tập thể bị loại trừ (massa perditionis), sẽ bị thiêu đốt đời
đời trong Hỏa Ngục. Ý kiến “tiền định” tương tự cũng có thể được nhận thấy
trong Thánh Thư của Thánh Phao Lô (gửi tín hữu La Mã 8:28-30).
Như vậy, bạn đọc thân mến, tôi rất hân hạnh được báo cho bạn biết, nếu bạn
chưa biết, rằng trên nguyên tắc, bạn là một tên tội lỗi, hèn hạ, xấu xa, dơ
dáy, ác ôn, độc địa. Một tên… phản động, phản cách mạng! Tương lai tốt đẹp
nhất mà bạn có thể mơ ước là sự thiêu đốt đời đời trong Hỏa Ngục giữa một
bầy ác quỷ vô cùng kinh tởm. Tuy nhiên, giả sử trong muôn một, có một anh
Thiên Thần ấm ớ nào đó bị đuổi khỏi Thiên Quốc, và bạn lọt được lên trên ấy
để thế vào chỗ của anh ta, thì đó là do Ơn Chúa, được ban phát cho bạn, chứ
chẳng phải vì bạn xứng đáng chi cả. Vả lại, bạn cũng chẳng thể làm được điều
gì xứng đáng, vì bản thân của bạn là xấu xa, tội lỗi. Nói cách khác, bạn
hoàn toàn bó tay và chỉ có thể trông nhờ nơi Ơn Chúa. Mà Ơn Chúa có ban phát
hay không ban phát cho ai thì lại đã được định đoạt từ ngàn đời trước rồi!
Tôi gọi đó là một tư tưởng tiêu cực, bạn nghĩ sao?
Nếu từ lập luận này mà tôi bảo Ky Tô Giáo là tiêu cực, thì nhiều người sẽ
trích dẫn một triệu lẻ một kinh điển ra để minh chứng ngược lại, rằng Ky Tô
giáo rất tích cực, và họ có lý. Điều này cho thấy không thể từ một số suy
tưởng cục bộ mà dán một nhãn hiệu lên cho một tôn giáo!
VÀI KHÍA CẠNH TÍCH CỰC TRONG TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO
Phật giáo coi bản tánh của mọi chúng sanh đều là Phật. Chỉ cần bỏ những mù
quáng, mê chấp, thì nhận ngay ra mình là Phật. Không ai bị bỏ rơi, không có
“massa perditionnisi” vì mọi người đều là Phật, bỏ sao được? Đó là một điểm
tích cực quan trọng. Mặt khác, cũng không cần sự cứu rỗi từ bên ngoài vì
Phật ở sẵn trong mình rồi, chứ nào có ở đâu trên mây trên gió mà phải nhào
tới cứu độ mình? Tức là mỗi người cần tích cực đi tìm giải thoát, với sự soi
sáng tự nhiên của Phật Tính nơi mình, để thay đổi cách nhìn của mình về sự
vật, về mình, và để tìm thấy chính mình.
Trên con đường tu tập, Phật giáo dạy phải thực nghiệm, chẳng nên tin vào
giáo điều lý thuyết chi cả. Tức là phải tích cực tìm hiểu, chứ không thụ
động tin theo ông thần này hay ông thánh nọ, để rồi mù quáng tiêu cực loại
bỏ những gì không nằm trong “giáo lý” của mình.
Đối với vấn đề thiện ác, Phật giáo có một nhãn quan đặc biệt tích cực. Khi
sự ác được chấp nhận như hậu quả của lẽ nhân duyên, thì không còn có thái độ
tiêu cực loại bỏ. Kẻ sát nhân, người nham hiểm, chẳng qua cũng chỉ là nạn
nhân của nghiệp báo chập chùng, nhân duyên trùng điệp, chứ trong bản tánh họ
vẫn là Phật kia mà! Biết đâu chính vì những hành động tàn ác kia mà họ ý
thức, giác ngộ và trở thành bậc Chánh Giác? Với tinh thần ấy, người ta thông
cảm, tìm hiểu những nhân duyên của một hành động tàn ác, và tìm cách nâng
đỡ, chứ không loại trừ cá nhân làm việc ác ấy. Nếu có phê phán, thì người ta
phê phán hành động chứ không phê phán con người. Điều này rất tích cực, vì
nó không bao giờ loại bỏ khả năng hướng thiện dù trong bất cứ tình huống
nào.
Nói: Anh “là” xấu xa, như trong ngôn ngữ Tây phương thông thường (you are
bad), rất khác với: “anh đã làm một việc xấu xa”. Câu nói thứ hai có ý nghĩa
tích cực quan trọng. Tương tự như vậy, trong trị liệu, tôi thường cố gắng
nói với bệnh nhân: “Vous avez une dépression” (anh hay chị đang mắc chứng
suy nhược thần kinh), thay vì: “Vous êtes déprimé” (anh chị “là” suy nhược
thần kinh). Với câu nói ấy, tôi cố gieo một chủng tử tích cực, hướng tâm lý
người bệnh về một hướng tích cực, thuận lợi cho sự lành bệnh.
Những quan điểm vừa nêu có phải là đặc thù của Phật giáo hay không? Hoàn
toàn không. Chẳng hạn dưới một hình thức khác, những quan điểm ấy đều hiện
hữu trong tư tưởng Ky Tô giáo. Thật vậy, tôi có thể tìm thấy tất cả những gì
tôi vừa nói về Phật giáo trong Thánh Kinh. Vậy, đạo nào tích cực? Đạo nào
tiêu cực?
TƯ TƯỞNG XUẤT THẾ TRONG KITÔ GIÁO
Chúng ta có thể dựa vào một số lời nói của chính Đức Ky Tô để nhận ra một
khuynh hướng xuất thế rất đậm nét trong Kitô giáo.
-
Trong Phúc Âm thánh Gioan (15:19), Đức Ky Tô nói rất rõ với các môn đệ, tức
là với tất cả những Ky Tô hữu: “Các con không thuộc về thế gian, thầy đã đặt
các con ra ngoài thế gian”. Và khi toàn quyền La Mã Pilatô tra vấn Ngài,
Ngài cũng tuyên bố: “Vương quốc của Ta không thuộc về thế gian”
(Gio-An.18:36).
-
Thật ra, Đức Ky Tô không những chủ trương đứng ngoài thế gian, mà Ngài còn
coi thế gian là nguồn của sự dữ, là vương quốc của Ác quỷ, là sự chống phá
lại công trình của Ngài. Ngài nói: “Thế gian thù ghét Ta vì Ta chứng minh
được rằng những công trình của thế gian đều xấu xa” (Gio-an 7:7). Một lúc
khác, trong lời cầu nguyện với Thiên Chúa, Ngài nói: “Con đã truyền cho họ
(các môn đệ) lời nói của Cha và thế gian đã thù ghét họ, vì họ không thuộc
về thế gian, như chính con cũng không thuộc về thế gian.” (Gioan 17:14). Rõ
rệt hơn nhất, trong Gioan 12:31, Ngài gọi Ác quỷ là “Vua của thế gian” và
trong Gioan 12:30, Ngài phán: “Từ nay, Ta không còn nói chuyện với anh em
được nữa, vì Vua của thế gian này đã đến”.
Bây giờ tôi xin bạn chú ý đến một câu chuyện được kể lại trong tất cả các bộ
Phúc Âm trừ Phúc Âm Gioan. Đó là chuyện Ác quỷ cám dỗ Đức Kitô: Trước khi
Đức Kitô thu nhận môn đệ và bắt đầu giảng dạy, Ngài đã vào sa mạc tĩnh tâm
một thời gian. Lúc ấy, Ác quỷ đến cám dỗ Ngài. Có ba sự cám dỗ, sau khi Đức
Kitô đã vượt qua hai sự cám dỗ đầu tiên, thì Ác quỷ đưa Ngài lên một đỉnh
núi cao và chỉ cho Ngài thấy tất cả thế gian với những vương quốc giàu mạnh,
vinh quang, những lâu đài lộng lẫy, những thú vui vô số và bảo Ngài phải
khuất phục nó, thì thế gian sẽ thuộc về Ngài. Đương nhiên là Đức Ky Tô lại
khước từ thêm một lần nữa, với câu nói bất hủ: “Vade retro, Satanas”
(Satăng, hãy cút đi!). Đức Thích Ca cũng đã từng bị Quỷ Vương cám dỗ một
cách tương tự.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy Ác quỷ Satăng chính là Vua của thế gian,
và Đức Ky Tô với quyền năng của Ngài, cũng có thể ngự trị trên thế gian, y
hệt như Ác quỷ. Mặc dầu vậy, Đức Kitô đã chọn khước từ thế gian, thậm chí
sau này còn chấp nhận cho thế gian giết chết mình…
Thật ra quan điểm xuất thế đã hiện hữu trong tư tưởng Do Thái, đặc
biệt từ khi dân tộc này bị lưu đày vào năm 538 tới 587 trước Công Nguyên.
Khi ấy trong nổi buồn tha hương, vong quốc, đất nước hoàn toàn bị phá hủy,
người Do Thái chỉ còn biết ngước mắt kỳ vọng nơi một quê hương trên trời.
Quê hương thật, đất nước thật của họ, từ đó, chính là Nước Trời, chứ không
còn là một mảnh đất nào trên cõi thế nữa. Thánh Phao Lô, trong Thánh Thư
gửi người Do Thái (11:14), cũng đã nhắc lại niềm tin này.
Một tư tưởng khác rất phổ thông trong Ky Tô giáo, là sự xác quyết sẽ có một
ngày tận thế. Tất cả những gì con người xây dựng được nơi thế gian
đều sẽ bị hủy diệt. Đức Ky Tô, trong các đoạn Phúc Âm Mát-Thêô 24, Mác-cô 13
và Lu-ca 21 đã nói về vấn đề này. Tức là sẽ không có một thế gian tốt đẹp,
viên mãn, trường cửu như con người thường ước mong. Lịch sử sẽ không phải là
giòng sông đưa nhân loại đến bờ hạnh phúc, hay con đường xa lộ dẫn cái xã
hội mà ta đang sống đến với Thiên Chúa như Hegel từng quan niệm. Nước Chúa
sẽ không phải là sự nối dài của cái xã hội mà ta đang sống, đang chăm lo bồi
đắp. “Tất cả đều sẽ bị hủy diệt” đó là lời Chúa!
Nhiều người sẽ nói: đó là chuyện xa vời, ngay bây giờ, vẫn phải chăm lo cho
gia đình, cho xã hội, cố sức xây dựng bình an hạnh phúc, v.v.. Đó là những ý
tưởng rất chính đáng của đại đa số con người. Nhưng Đức Ky Tô nghĩ sao?
Về gia đình, Ngài bảo với các môn đệ, với tất cả chúng ta, rằng phải bỏ hết
tất cả những ràng buộc gia đình, để theo Ngài: “Nếu kẻ nào đến với ta mà
không từ bỏ cha mẹ mình, vợ con mình, và cả chính đời sống của mình, thì
người ấy không thể là môn đệ của ta” (Lu-ca 14-26). Khi có môn đệ xin được
về nhà từ giã gia đình trước khi lên đường theo Ngài, Đức Kitô từ chối ngay
tức khắc và nạt rằng: “Kẻ nào đã bắt tay vào cày ruộng (tức là đã theo Ta)
mà còn nhìn về phía sau, thì kẻ ấy không xứng đáng vào Nước Chúa!” (Lu-ca
9-26). Một môn đệ khác xin về chôn cất cha mình vừa mới qua đời, ngài cũng
từ chối rằng: “Cứ để người chết chôn người chết, phần anh hãy đi rao giảng
nước Trời” (Lu-ca 9:59-60). Phải nói là Chính Đức Ky Tô cũng đã hoàn toàn từ
bỏ gia đình mình. Trong Phúc Âm, không khi nào thấy Ngài gọi mẹ Ngài là
“mẹ”, mà chỉ nói “Bà kia”. Và một ngày nọ khi đang ở giữa đám đông, thì có
người đến báo tin cho Ngài biết rằng: “ Mẹ anh và các em anh đang tìm anh
ngoài kia”. Đức Ky Ttô rảo mắt nhìn quanh cử tọa, rồi nói: “Đây là mẹ ta,
đây là anh em ta, tất cả những ai hành động theo thánh ý Chúa, đều là mẹ và
anh em ta”. (Mác-cô 3:32-35).
Còn đối với xã hội? Đức Ky Tô nói rất rõ: “Đừng lầm tưởng rằng ta đến để
mang lại hòa bình trên trần thế, ta không đến để đem lại bình an, mà chính
là để đem lại gươm đao, cho người con trai nổi lên chống lại cha mình, người
con gái chống lại mẹ mình, người con dâu chống lại mẹ chồng, người trong một
gia đình đối nghịch lại với nhau” (Mát-Thêô 10:34-35). Trong Phúc Âm Lu-ca,
Ngài cũng nói một câu tương tự (Lu-ca 12:51-53). Việc “đem lại gươm đao”
cũng được nhắc đến ở đọan Phúc Âm Lu-ca 22-36, khi Đức Ky Tô nói với các môn
đệ: “Ai chưa có võ khí thì hãy bán áo choàng của mình đi mà mua lấy một
thanh gươm”.
Đương nhiên là thái độ này của Đức Ky Tô không mấy gì là “politically
correct”, và nhiều người “thông minh” hơn Ngài đã phải lập tức giải thích
rằng: Ngài nói vậy nhưng phải hiểu khác, phải hiểu rằng, thì, mà, là… ngược
lại! Cũng như khi Ngài dạy phải bỏ hết tiền bạc, tài sản, hay cho rằng
“Người có của vào nước Trời còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim”. Những
lời nói ấy làm rộn sự “bình an” hưởng thụ của nhiều người. Họ không thể nào
chấp nhận chúng được. Vì thế, họ phải dạy khôn Đức Ky Tô, bảo Ngài phải hiểu
những lời Ngài nói một cách khác, hợp với những nếp suy tư trưởng giả và
những ham muốn thường tình của họ hơn. Đừng quên, người đương thời đã đem
Chúa Kitô ra đóng đinh trên thập giá, thậm chí ngay chính những kẻ trong gia
đình Ngài cũng đã muốn bắt giữ Ngài, vì họ cho rằng: “Nó đã mất trí!”
(Mác-cô 13:21)
PHẬT GIÁO VÀ KHÁI NIỆM NHẬP THẾ
Phật giáo không phân biệt thế gian với “ngoài thế gian”. Tất cả đều là Tâm
(vạn Pháp quy Tâm). Vậy thì chỉ có Tâm. Nếu chỉ có Tâm mà thôi, thì xuất thế
phải ra ngoài Tâm. Khi ấy, thử hỏi cái gì sẽ ra ngoài Tâm? Có phải cũng là
tâm hay không? Tâm làm sao phải ra ngoài Tâm được? Vậy, Phật giáo không xuất
thế!
Một cách nói khác: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, vậy thì
Phật ở đầy trong thế gian này, nhìn đâu cũng thấy Phật, Phật làm sao mà xuất
thế được? Đây cũng là một cách giải thích nghệ thuật của Phật giáo, đặc
biệt là của Thiền Tông, với những bài thơ hay những bức họa đầy tình thân
ái, mô tả những cảnh vật nhiều khi rất nhỏ nhoi, những con người nhiều khi
rất bé mọn, những động tác nhiều khi rất tầm thường, diễn đạt niềm cảm thông
sâu sắc với tất cả những gì chung quanh. Nhất định là các nghệ sĩ và Thiền
sĩ ấy không khước từ thế gian, không coi thế gian là hiện thân của sự Ác… sự
Ác có chăng thì chỉ là kết quả của vô minh, chứ dưới tấm màn vô minh ấy, vẫn
luôn tiềm tàng Phật tính. Có khác với tư tưởng của Đức Ky Tô hay không? Tôi
nghĩ là không khác, mặc dù những gì tôi vừa viết ở đoạn trên còn cần được
trình bày rõ ràng hơn. Xin hẹn bạn dịp khác.
Một loại lập luận khác có thể được nêu lên là: hạnh nguyện Bồ Tát, từ
chối sự giải thoát cho riêng mình khi còn bất cứ chúng sinh nào chưa được
giải thoát, chính là một tư tưởng nhập thế triệt để. Phật giáo Mật Tông cũng
tin ở Phương Đông có một vị Phật tên là Aksobhya (A Súc Bệ), tượng trưng cho
sự nhập thế, cứu độ, đi từ vô biên vào thế giới hữu hạn để thực hiện sự cứu
độ và đi từ hữu hạn đến vô biên để thực hiện sự giải thoát…
DANH HIỆU CỦA QUỶ VƯƠNG
Trong truyền thống Do Thái, Ky Tô và Hồi Giáo, người ta gọi Ác Quỷ là
Satăng. Bạn có biết chữ ấy có nghĩa gì không? Trong tiếng Do Thái cổ,
chữ ấy được dùng để chỉ người có trách nhiệm lên án trong một phiên tòa, như
một loại Công Tố Viên ngày nay vậy. Nói rộng ra, tất cả những kẻ lên án
người khác, đều có thể được gọi là Satăng! Và khi chúng ta lên án bất cứ
ai, thì đó chính là tiếng nói của Quỷ Vương trong chúng ta. Vì thế, Đức Kitô
mới nói: “Đừng lên án, để khỏi bị lên án”. Và nhất là đừng lên án cả một tập
thể, cả một cộng đồng, thậm chí cả một phần nhân loại, vì tín ngưỡng của họ.
Bạn có thể nghĩ được rằng tất cả những người không cùng tôn giáo với bạn,
trong đó có bạn bè của bạn, thậm chí ông bà tổ tiên của bạn đều đáng bị
liệng xuống địa ngục nào đó hay không? Phải chăng họ đều là những ác quỷ,
hay những “chuẩn ác quỷ”? Dù cho bạn có thuộc về tôn giáo nào đi chăng nữa,
thì bạn cũng vẫn là thiểu số trong toàn nhân loại. Vì thế lên án những người
khác tôn giáo với mình, chính là tự đặt mình vào một địa ngục ngay từ bây
giờ với vô số “ác quỷ” nhan nhản chung quanh mình!
Thật ra, có những sự lên án gay gắt, nhưng cũng có những chê bai lịch sự,
tuy không kém phần trịch thượng, kiểu như: Đạo ấy chưa hiểu tới, hay chưa
đạt đến trình độ này, trình độ khác. Tôi nói thái độ này cũng vẫn là một sự
lên án, vì ta không thể biết nó sẽ trở thành gay gắt lúc nào, và vì nó có
thể gợi lên những phản ứng gay gắt nơi những anh em bị mình chỉ trích. Thái
độ ấy cũng vẫn là thái độ của Satăng, của Ác Quỷ.
Hơn lúc nào hết, cần đi tìm những điều giống nhau trong các tôn giáo, các
giòng tư tưởng hơn là đào sâu những khác biệt. Riêng trong sự tìm hiểu những
điều cốt lõi của Ky Tô giáo và Phật giáo, thì tôi có thể xác quyết với bạn
rằng: Quả thực, tôi không hề thấy điều chi mâu thuẫn giữa hai tôn giáo này.
PHẬT GIÁO CÓ PHỦ ĐỊNH CUỘC SỐNG
VÀ THẾ GIỚI HAY KHÔNG?
Minh Chi
Đọc
bài Giáo Hoàng Jean Paul II trả lời câu hỏi: “Phải chăng Phật giáo sẽ thay
thế cho Kitô giáo?”, tôi bất giác nhớ tới cuốn Les Grands Penseurs De
L’Inde (Những tư tưởng gia lớn của Ấn Độ) của Albert Schweitzer viết và
xuất bản từ năm 1936, tức là cách đây gần 60 năm.
Ngay
trong chương I của cuốn sách, Albert Schweitzer đã so sánh hai lối tư duy
của phương Tây, “khẳng định cuộc sống và thế giới” (affirmation de la vie et
du monde), và lối tư duy của Ấn Độ “phủ định cuộc sống và thế giới”
(négation de la vie et du monde) (Trang 11 cuốn sách đã dẫn).
Ngay
sau khi cuốn sách của Albert Schweitzer ra đời, nó đã bị nhiều nhà bác học
có tên tuổi phê phán. Sự phê phán này không lẽ các nhà thần học của Vatican
lại không biết. Tôi muốn giới thiệu một trong những phê phán sớm nhất mà
cũng là triệt để nhất: tức là các bài giảng đầu tiên của Tiến sĩ
S.Radhakrishnan tại bộ môn “Tôn giáo và đạo đức phương Đông” (Eastern
Religions and Ethics) ở trường Đại học Anh Oxford trong các năm 1936-1938,
cũng là năm xuất bản cuốn sách Tôn Giáo Phương Đông Và Tư Tưởng Phương
Tây (Eastern Religion and Western thought) do Oxford University Press
xuất bản. Tôi tin là thư viện của Vatican có quyển sách này, và các nhà thần
học ở Vatican có thể tham khảo những lời phê phán của Giáo sư S.
Radhakrishnan (ông này về sau làm Tổng Thống Ấn Độ), ở chương 3 của cuốn
sách, đặc biệt là ở trang 76, trong đó S.Radhakrishnan lần lượt đề ra 8 điểm
sai lầm của Albert Schweitzer và lần lượt phân tích từng điểm một. Tôi đề
nghị các nhà thần học của Vatican hãy đọc kỹ trang đó và các trang tiếp theo
cho tới hết trang 114, kết thúc chương : “Chủ nghĩa huyền bí và đạo đức
trong tư tưởng Ấn Độ” (Mysticism and ethics in Indian thought).
Tôi
tin rằng, nhận thức của Giáo Hoàng Jean Paul II có chính xác và cập nhật hay
không đối với đạo Phật, phần lớn là tùy thuộc vào công phu thông tin khoa
học khách quan và chính xác của quý vị các nhà thần học chủ chốt ở Vatican.
Ở đây, vì khuôn khổ có hạn, tôi chỉ dừng lại một điểm, có thể là điểm trung
tâm của sự phê phán của Giáo Hoàng đối với đạo Phật. Tức là điều mà Giáo
Hoàng gọi là:
Một
phương pháp giải thoát hầu như hoàn toàn tiêu cực, giải thoát có nghĩa là
hoàn toàn cắt đứt với thế giới, nguồn gốc của tội ác… Niết Bàn, một thái độ
bàng quan hoàn toàn đối với thế giới. (Xem cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy
Vọng (bản Việt dịch) hay là trang 142 bản Pháp văn Entrez dans
l’espérance).
Trướt hết, tôi muốn nhắc lại nhận xét từ ban đầu của tôi là những tư tưởng
trên của Giáo Hoàng không có gì là mới mẽ, mà chỉ là sự nhắc lại rất đại
khái nội dung cuốn sách đã dẫn của Albert Schweitzer.
Điểm
thứ hai tôi muốn nhấn mạnh, là nếu thế gian này thật sự tốt đẹp, xứng đáng
để các tín hữu đạo Thiên Chúa gắn bó trọn đời kiếp với nó, thì các tín hữu
đó cũng sẽ không cần được Chúa Kitô cứu rỗi, công việc cứu rỗi và cả vương
quốc của Chúa cũng trở thành vô nghĩa. Thiên đàng cũng vô nghĩa và địa ngục
cũng trở thành vô nghĩa.
Do
đó có thể nói, khoảng 5 thế kỷ sau Phật Thích Ca, Chúa Giêsu cũng không nói
điều gì mới lạ, bất quá sự khác nhau giữa Kitô giáo và Phật giáo là ở chỗ,
đối với Kitô giáo, con người chỉ có thể giải thoát khỏi tội ác, nhờ điều
thiện đến từ Thượng Đế (Giáo Hoàng viết là: “à travers le bien qui vient de
Dieu” (trang 142 bản Pháp văn đã dẫn), còn đối với đạo Phật thì con người
chỉ có tự mình giải thoát khỏi tội ác bằng một nổ lực đạo đức lớn lao, khiến
cho mình trở thành hoàn thiện, từ bỏ ba độc tham, thân, si. Tôi muốn nhấn
mạnh là vấn đề không phải là từ bỏ thế giới hay từ bỏ cuộc sống như Giáo
Hoàng nói, mà là từ bỏ ba độc tham, sân, si.
Vì
vậy mà có sách Phật định nghĩa Niết Bàn là từ bỏ tham, thân, si (định nghĩa
Niết Bàn của Huyền Trang, vị cao tăng nổi tiếng đời nhà Đường). Phật giáo
không bao giờ định nghĩa Niết Bàn như là một thái độ bàng quan hoàn toàn đối
với thế gian như Giáo Hoàng nói trong cuốn sách của Ngài (Le Nirvana, c’est
à dire une indifference totale envenrs le monde) (trang 142 bản Pháp văn đã
dẫn). Niết Bàn là từ bỏ tham, thân, si, là nổ lực tối đa để con người trở
thành hoàn thiện, trở thành bậc Thánh ngay tại thế gian này, chứ không phải
ở một thế giới nào khác, tại một tương lai xa xôi nào khác. Phật giáo luôn
luôn khẳng định: Niết Bàn là ở đây và trong hiện tại.
Tất
nhiên, trong Phật giáo Trung Hoa và Việt Nam hay Nhật Bản có một tông phái
đặc biệt, gọi là Tông Tịnh Độ đặt vấn đề tu pháp môn niệm danh Phật A Di Đà,
tức là cõi Cực lạc ở phương Tây. Trong Phật giáo vùng Đông Á, thật sự có một
tông phái như vậy, thậm chí đó là một tông phái rất phát triển và có rất
nhiều tín đồ. Chứng cớ là ở Việt Nam các tăng ni Phật tử thường chào nhau
bằng câu “Nam mô A Di Đà Phật” hay gọn hơn “A Di Đà Phật”.
Vấn
đề này nên hiểu như thế nào cho phải? Vua Trần Nhân Tôn đời Trần sau khi
xuất gia, trở thành vị Tổ sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm. Trong bài phú “Cư
trần lạc đạo”, Trần Nhân Tôn đã giải thích “Bí mật của Tông Tịnh Độ” bằng
hai câu khá rõ nghĩa:
Tĩnh Độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi tới Tây phương,
Di Đà là tính lặng soi mụa phải nhọc tìm về Cực lạc.
("Cư
Trần lạc đạo phú". Bản dịch của Hoàng Xuân Hãn. Tập san Khoa học xã hội số
5, trang 27, Hội khoa học xã hội Việt Nam tại Pháp xuất bản).
Tôi
thấy không có gì mâu thuẫn giữa sự hoàn thiện mình và nỗ lực đạo đức, sao
lại phê phán nỗ lực đạo đức của Phật giáo là tiêu cực? Thế thì hoàn thiện
mình bằng cách cầu xin Thượng Đế cứu rỗi là tích cực hay sao?
Vâng! Đạo Phật xác nhận thế gian này là có nhiều tội ác, bắt nguồn từ ba độc
tham, sân, si. Nhưng đạo Phật không dừng ở nhận định này. Đạo Phật còn tiến
thêm một bước thứ hai nữa là phân tích thế gian này vì sao lại có nhiều tội
ác, bắt nguồn từ tham, sân, si? Đó là vì con người si mê (sách Phật gọi là
vô minh), không nhìn thấy sự vật đúng như nó tồn tại là vô thường,
biến đổi trong từng giây phút một, mà sở dĩ mọi sự vật đều như thế, là vì
chúng vô ngã. Vô ngã không có nghĩa là không có gì hết mà chỉ là
không tồn tại độc lập, không phải tồn tại tự nó, phụ thuộc vào nhiều điều
kiện mà sách Phật gọi chung là nhân duyên.
Mọi
sự vật và hiện tượng trong thế gian này đều là vô thường, vô ngã. Đó là một
thực tế mà bất cứ người nào, miễn có đầu óc tỉnh táo và có con mắt biết nhận
xét, đều phải công nhận. Chúng ta cần đến những sự vật đó và sử dụng chúng,
thế nhưng chúng ta quyết không tham đắm chúng, và tuyệt đối càng không vì
chúng mà phạm tội ác, tạo nghiệp ác để cho trong đời này và đời sau phải
chịu khổ. Do đó, đạo Phật tiến thêm một bước nữa vạch ra cho mọi người một
con đường thoát lìa tội ác. Đó là con đường Bát Chánh Đạo mà hầu như
sách Phật nào cũng nói tới. Sách Anh ngữ thường gọi là: “The Eightfold
Path”, dịch sát nghĩa là “Con đường Đạo tám nhánh”, và nếu dịch theo chữ Hán
là “Bát chánh đạo” dịch sát nghĩa là “Tám con đường Đạo”.
Nội
dung của Tám con đường Đạo không có gì là huyền bí, mà ở trong tầm thực hiện
của tất cả mọi người, không kể là tăng hay tục, nam hay nữ, thậm chí cũng
không kể mình là theo Đạo Phật hay theo các đạo giáo khác.
Nội
dung của tám con đường đạo chỉ là:
1.
Sống đạo đức.
2.
Thân tâm được an tịnh.
3.
Trí tuệ chiếu sáng.
Nhờ sống đạo
đức cho nên thân tâm được an tịnh (định tâm), nhờ thân tâm an tịnh cho nên
trí tuệ bừng sáng và con người được giác ngộ và giải thoát.
Ở đây, nếu có
một điều bí mật và khó hiểu là điều này: trí tuệ đó không phải do Trời Phật
nào ban cho chúng ta, mà chúng ta vốn có như vậy, nhưng vì ngu si cho nên
chúng ta không tự biết đó mà thôi. Cũng như nhà triệu phú có kho vàng trong
nhà mà không biết, cứ đi ăn xin hết nhà này sang nhà khác. Nói chung ta giác
ngộ là giác ngộ về cái trí tuệ vốn có sẵn trong mỗi chúng ta. Đức Phật không
đem cho chúng ta cái trí tuệ đó. Đức Phật chỉ làm mỗi việc là chỉ cho chúng
ta thấy cái trí tuệ đó là ở trong chúng ta, cho nên phải hướng nội mà tìm,
không thể cầu ở bên ngoài mà được. Cũng vua Trần Nhân Tôn trong bài phú “Cư
trần lạc đạo” đã dẫn chứng, viết bốn câu đầy ý nghĩa:
“Bụt ở
trong nhà,
Chẳng phải
tìm xa,
Nhân khuấy
bổn nên ta tìm Bụt,
Chỉn mới hay chính Bụt là ta.” (1)
Vâng, chính Bụt là ta, là chúng ta. Thật tôi chưa thấy một tôn giáo
nào đề cao giá trị của nhân sinh, của con người đến như vậy. Bài của tôi trả
lời Giáo Hoàng nên kết thúc bằng bốn câu phú tuyệt vời đó.
GHI CHÚ:
(1)
khuấy bổn = quên mất gốc.
chỉnh mới hay = chính mới hay
PHỤ
ĐÍNH:
Albert Schweitzer tác giả cuốn Les grands penseurs de l’Inde là tiến
sĩ triết học, tiến sĩ y khoa và tiến sĩ thần học. S.Radhakrishnan trong cuốn
sách của ông Eastern Religions And Western Thought đã tóm tắt nội
dung phê phán của Schweitzer đối với triết học Ấn Độ (bao gồm cả triết học
Phật giáo) thành 8 luận điểm mà Radhakrishnan lần lượt giới thiệu cụ thể và
phản bác trong suốt chương “Mysticism and Ethics in Hindu thought” (Chủ
nghĩa huyền bí và đạo đức trong tư tưởng Ấn Độ). Sau đây, tôi chỉ giới thiệu
8 luận điểm của Schweitzer:
1.
Trong tư tưởng Ấn Độ, có xu hướng cường điệu niềm vui siêu thế (ecstasy).
Xu hướng này tất nhiên dẫn tới phủ định cuộc sống và thế giới này.
2.
Tư tưởng Ấn Độ chủ yếu hướng tới một thế giới khác với thế giới cõi người
này. Đó là điều không thể cùng tồn tại với một nền đạo đức nhân bản, nền đạo
đức của con người, vì con người.
3.
Chủ thuyết Ấn Độ về Maya (ảo ảnh), tuyên bố cuộc sống chỉ là ảo ảnh, tất
nhiên có hàm ý phủ định thế giới này và cuộc sống này.
4.
Đối với người Ấn Độ, nguồn gốc của thế giới này chỉ là một trò chơi của
Thượng Đế (a game played by God).
5.
Con đường giải thoát là jnana hay là tự mình tìm hiểu mình. Đó không phải là
con đường phát triển đạo đức, do đó tôn giáo Ấn Độ không phải là tôn giáo
đạo đức.
6.
Mục tiêu của mọi cố gắng của con người là giải thoát, chứ không phải là hòa
hợp (ý Schweitzer nói hòa hợp với Thượng Đế). Đó là sự giải thoát tâm linh
khỏi những ràng buộc hữu hạn, chứ không phải là sự biến đổi của cái hữu hạn
thành một bộ phận hay một biểu hiện của cái vô biên. Tôn giáo chỉ là nơi né
tránh cuộc sống và các vấn đề của cuộc sống. Con người không có chút hy vọng
gì về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
7.
Con người lý tưởng của tôn giáo Ấn Độ siêu việt lên trên cái thiện và cái
ác, tức là lên trên mọi phân biệt đạo đức.
8.
Tư tưởng Ấn Độ nhấn mạnh một nền đạo đức hoàn thiện nội tâm, điều này mâu
thuẫn với một nền đạo đức năng động và tình thương rộng mở đối với người
sống bên cạnh mình.
(Giới thiệu tóm tắt từ trang 76 của cuốn sách Tôn Giáo Phương Đông và Tư
Tưởng Phương Tây của S. Radhakrishnan).
Thật
ra, tư tưởng của Schweitzer trong bài tựa của cuốn sách đã tỏ ra uyển chuyển
hơn nhiều so với trong nội dung của cuốn sách của ông, và đặc biệt là không
cứng nhắc một chiều như bài phát biểu của Giáo Hoàng Jean Paul II.
Schweitzer viết trong bài tựa:
“Tôi
luôn luôn có một cảm tình đặc biệt đối với nền đạo đức Ấn Độ, bởi vì nó
không chỉ quan tâm tới mối liên hệ giữa con người và đồng loại và với xã hội
mà cả tới thái độ của con người đối với tất cả mọi loài”.
Kỳ
lạ thay, một nền đạo đức rộng mở và bao la như vậy sao gọi là tiêu cực được.
Đó là một nền đạo đức bao gồm trong tình thương rộng lớn của nó (sách Phật
gọi tình thương đó là lòng từ và lòng bi), tất cả mọi loài, tất cả thiên
nhiên chứ không phải riêng đối với loài người. Đạo Phật phản đối khái niệm
về vị trí trung tâm của loài người trong vũ trụ, bởi lẽ một thái độ như vậy
bật đèn xanh cho sự phá hoại tài nguyên thiên nhiên không hạn chế, và giết
hại mọi loài vật và súc vật khác một cách không thương tiếc.
Vì
vậy, có thể khẳng định, nền đạo đức Phật giáo là đỉnh cao nhất của cái mà
các triết gia hiện tại gọi là nền đạo đức môi trường (Environmental Ethics).
Một nền đạo đức tuy không đặt mục tiêu cứu kính là con người hòa hợp với
Chúa, nhưng vẫn là nền đạo đức tích cực nhất và hơn nữa hiện đại nhất.
Peter
Singer, trong cuốn “The Expanding Circle”(Vòng tròn mở rộng, Oxford
Clarendon Press, 1981) viết:
“Phong trào
sinh thái (ecology movement) đã nhấn mạnh là chúng ta không phải là loài vật
độc nhất trên hành tinh này, và chúng ta không được đánh giá mọi vật theo
quan điểm vật ấy có ích lợi đối với loài người hay không…”
Đó là về mặt
đạo đức của vấn đề. Tôi nghĩ rằng trong chủ đề đạo đức, Schweitzer có một
lối tư duy uyển chuyển hơn quan điểm một chiều của Giáo Hoàng, vốn cho rằng
sự hoàn thiện bản thân “là không đủ để hòa hợp với Chúa” (La purification ne
suffit pas à produire l’union à Dieu…”
(Xem
“Entrez dans l’Espérence” trang 143 - bản Pháp văn).
Ngay
khi nói về thái độ phủ định và tiêu cực đối với thế giới về cuộc sống,
Schweitzer cũng tỏ ra uyển chuyển hơn khi ông khẳng định trong bài tựa cuốn
sách là:
“Theo các triết gia (phương Tây, bắt đầu từ Schopenhauer…) thì tư duy Ấn Độ
hoàn toàn bị ngự trị bởi tư tưởng phủ định thế giới. Thế nhưng, tôi lại nhận
thấy rằng, trong tất cả mọi thời điểm, tư duy đó cũng bao hàm cả những yếu
tố khẳng định. Và sự cùng tồn tại của cả hai yếu tố khẳng định và phủ định
thế giới tạo ra nét độc đáo của lối tư duy đó và quyết định sự diễn biến của
nó”.
Or, j’ai constaté que de tout temps, elle a renfermé aussi des élémens
d’affirmation. Cette coexistence de l’affirmation et de la négation du monde
constitue précisément son originalité et determine son évolution.
Xem cuốn Les grands penseurs de l’Inde - Albert Schweitzer - Preface
– Page 9.
Đọc
đoạn văn trên của Albert Schweitzer, chúng ta suy nghĩ như thế nào về nhận
định của Giáo Hoàng Jean Paul II, khi Giáo Hoàng nhận định là Phật giáo cung
cấp một phương pháp giải thoát hầu như hoàn toàn tiêu cực?
MINH CHI
Posted in: Tôn Giáo
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét