Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014

ĐỐI THOẠI VỚI GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAO-LỒ II (Phần III)

TỪ TRONG NHÀ, RA NGOÀI CHỢ
Phan Tấn Hùng
I. MỘT GIA ĐÌNH TAN NÁT
Từ thế hệ của ông nội của ông nội tôi, họ tôi chia thành ba nhánh :
-         Người anh cả của ông tôi theo đạo tiên, chuyên tu luyện bùa phép. Nhánh này không còn người thừa kế.
-         Người anh thứ hai, bỏ hẳn đạo nhà để theo Thánh giáo (Catô giáo). Nhánh còn lại khá đông.
-         Ông tôi là em út, tiếp tục giữ đạo gia tiên, và ba tôi là người thừa kế chịu trách nhiệm gìn giữ từ đường kể từ khi ông nội tôi già yếu.
Hằng năm ba tôi ra thư thông báo mời tất cả các chi nhánh khác về tham dự lễ giỗ ông bà tại nhà thờ họ. Ba tôi đích thân đi mời các trưởng chi. Anh tôi và tôi, từ khi còn niên thiếu đã phụ ba tôi chia nhau đi mời các gia đình Catô giáo. Mỗi năm mỗi mời, nhưng không thấy ai về cả. Tuy không dám nói ra nhưng bực mình lắm và tôi đã thầm trách rằng: "Theo đạo nào thì theo nhưng cũng phải biết quý trọng ông bà mình chứ. Tôn giáo nào lại dạy bỏ ông bỏ bà bao giờ. Nếu có thứ tôn giáo như vậy thì chắc chắn đây không phải là tôn giáo tốt, không nên gần gũi với nó, v.v...".
Mãi đến mấy năm cuối thập niên 60 mới thấy có một vị lão trượng của nhánh này về, nhưng chỉ để chào hỏi chứ không vào đảnh lễ trước bàn thờ tổ tiên. Lúc đầu chỉ một vị, năm sau có thêm vài vị nữa. Tôi cảm thấy có phần được khích lệ và vui thầm với kết quả khiêm tốn đó. Nhưng lại bị thất vọng ngay khi được nghe một lão trượng nói rằng : "Thật ra chúng tôi đâu có quên ông bà, đâu có muốn từ bỏ bà con, nhưng chúng tôi không được phép thờ cúng ông bà tổ tiên. Mấy năm gần đây, từ sau Công Đồng Vatican II, sự cấm đoán có phần nhẹ bớt, nên chúng tôi về với bà con".
Tại sao những người bà con của tôi chấp nhận nổi những cấm đoán như vậy? Và bằng cách nào Giáo Quyền Catô giáo đã làm được điều này, nếu không phải là đã mê hoặc hay ngu muội bà con tôi? Lòng tín ngưỡng của bà con tôi nhiệt thành đến độ mà tôi không thể hiểu nổi. Chẳng hạn như, làm sao họ có thể tin được chuyện Đức Maria đã di cư vào Nam hồi năm 1954. Và làm sao Giáo Quyền Catô giáo có thể dám nghĩ và dám bịa ra được loại tin như vậy nhỉ? (Chính thống giáo - Orthodoxe - và Phản Thệ giáo - Protestant - không tin tính đồng trinh mãi của Maria vì họ tin rằng Maria có những người con khác với Joseph).
Tại sao những người bà con của tôi phải đợi đến năm 1974, sau quyết  định chính thức của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho phép người Catô hữu lập bàn thờ tổ tiên và lễ lạy ông bà, trong khi người Catô giáo Trung Hoa đã luôn luôn giữ việc thờ cúng tổ tiên và đã được phép làm việc đó từ năm 1938, mới dám biểu lộ tín ngưỡng của mình đối với ông bà tổ tiên? Tại sao người ta nhân danh một tôn giáo, nhân danh một tín ngưỡng, để cấm cản tín ngưỡng của người Việt đối với ông bà tổ tiên? Tự do tín ngưỡng là chỗ nào?
Biết bao nhiêu câu hỏi tại sao đã nói đến với tôi từ thời niên thiếu, và vì thế tôi đã sớm bắt đầu tìm hiểu về Catô giáo, trước nhất là để hiểu những người bà con của tôi, với ước mong sẽ có ngày đưa họ trở về với giòng họ và với dân tộc. Thật vậy, nếu không có gì can hệ đến giòng họ và với dân tộc thì chắc chắn tôi đã không bỏ mất thì giờ tìm hiểu Catô giáo làm gì. Từ đó tôi tìm hiểu thêm các tôn giáo khác bằng cách so sánh, mỗi ngày thêm một chút. Việc nghiên cứu trở nên thật sự bổ ích cho chính bản thân tôi, và chỉ tiếc rằng phải chi những người bà con tôi được giáo dục để có được một trình độ suy nghĩ tối thiểu thì giòng họ tôi, và dân tộc tôi nữa, đã không bị phân chia.
Chiêu sách "chia để trị" nào có mới mẻ gì. Mọi thế lực ngoại bang, và mọi chính quyền phục vụ cho các thế lực ngoại bang đều làm như vậy. Người ta dựng nên trong nội bộ mọi dân tộc đủ loại "Bức Tường" : bức tường tôn giáo, bức tường giai cấp, bức tường sắc tộc, bức tường địa phương... Người Ái Nhĩ Lan giết hại nhau vì một bên Catô giáo và một bên theo Phản Thệ giáo (Protestant) ; ở Ru-ăng-đa, hai sắc dân Tutsi và Utu vốn cùng một văn hóa, cùng một tiếng nói, nay đã trở thành kẻ thù không đội trời chung; ở Ca-mơ-run, ai không có "Giấy chứng nhận đã rửa tội" (carte baptême) phải đóng một số tiền mới được cảnh binh cho phép vào thành phố. Tưởng Giới Thạch đã phải cải đạo theo Phản Thệ giáo để được làm rễ trong gia đình họ Tống; và chính quyền Tưởng, được mệnh danh là "chính quyền quốc gia", đã ban hành sắc lịnh năm 1937 cấm nghiên cứu Dịch lý, cấm thực hành môn châm cứu và môn phong thủy, vốn là di sản truyền thống của văn minh Trung Hoa. Rồi nhìn lại những gì đã xảy ra ở Việt Nam, dưới một bên là "chính quyền quốc gia" chống cộng (lý lẽ hiện hữu của chính quyền này) và một bên là "chính quyền cộng sản" chống "đế quốc tư bản chủ nghĩa" dân tộc Việt Nam bị kéo về hai phía, giết nhau tận tình. Để làm gì? Để xây dựng cái gì cho dân tộc Việt Nam? Câu hỏi này được đặt ra cho cả hai bên, nhưng có lẽ câu trả lời chỉ tìm thấy ở nơi khác.
II. QUANH VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Có nhiều điều làm tôi ngưỡng mộ Giêsu. Hằng mấy trăm năm trước khi Giêsu ra đời, người Do Thái chờ đợi một "Đấng được ban xuống" để giải cứu dân tộc này. Họ đã nghĩ tưởng rằng "Đấng cứu thế" của họ phải là một sức mạnh không gì chống nổi: vung tay một cái là Đế Quốc Rô Ma tan tành ; búng tay một cái là Do Thái thành giàu mạnh; v.v... Giêsu không là và đã không làm như họ mơ đợi, ngược lại Giêsu kêu gọi hãy từ bỏ thế giới mộng tưởng đó đi, thế giới đầy những giáo điều và lũng đoạn của Giáo Quyền Do Thái giáo. Chẳng những thế, Giêsu còn chống lại khái niệm thần quyền cực đoan của tôn giáo này. Theo Cựu Ước, Abraham đã sẵn sàng giết chết Issac, người con duy nhất của ông để thỏa mãn yêu cầu của Daquê, một Thiên Chúa hung dữ. Với Giêsu, Thiên Chúa chẳng những đã được thể hiện qua hình ảnh một người Cha nhân từ mà còn đã hiện hóa thành người, nơi con người và là người. Lời nói và việc làm Giêsu bị lên án, ngay cả Thánh Pie, đệ tử trung thành nhất của ngài, cũng không tin chính ngài là “đấng cứu thế”, và người ta đã quyết định đóng đinh ngài trên thập giá.
            Muôn đời con người đi tìm hay chờ đợi “sự thật”, nhưng khi “sự thật” hiện hữu trước mặt thì không thừa nhận, chỉ vì “sự thật” không giống ước mơ của con người, trần truồng quá, bình dị quá. Hãy từ bỏ thế giới ảo tưởng được tiêm nhiễm trong mỗi người, nó đầy tiên kiến, qui định, giáo điều, đầy lo sợ, phiền não... để trở về sống với thế giới của thực tại. Mà thực tại là vô thường, là vần chuyển mãi, là mãi mãi trở thành, và mọi sự mọi vật đều liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Khi đã trở về với thực tại, mỗi người sẽ thấy rõ đâu là con đường của chính mình để tiến đạt dần đến trạng thái tự do và thanh tịnh hoàn toàn (tự tại). Trạng thái này Đức Phật gọi là niết bàn, nó là thành quả của quá trình quán chiếu và thẩm thấu thực tại, chứ không phải là cứu cánh của Phật pháp (hay phương pháp giúp giải trừ mộng tưởng).
            Giêsu đã chống sự toàn trị của Đế Quốc Rôma và cũng đã dạy “Đừng gọi ai là cha vì các ngươi chỉ có một Cha duy nhất trên trời, đừng tôn ai làm thầy vì các ngươi chỉ có một người Thầy là ta”. Ôi, còn biết bao nhiêu điều Giêsu đã làm, đã dạy, không được những người nhân danh ông, nhân danh Giáo Hội của ông, tôn trọng kế thừa!
            Vấn đề tôn giáo, dù muốn hay không đây cũng là vấn đề lớn của xã hội, và việc giáo dục người dân là trách nhiệm của nhà cầm quyền. Ước gì môn tôn giáo học được giảng dạy trong chương trình trung học, được nghiên cứu và thảo bàn rộng rãi ở cấp đại học, kèm với việc chuyển dịch các tài liệu Âu Mỹ sang tiếng Việt, để cho tuổi trẻ Việt Nam có dịp mở mang kiến thức, có dịp làm quen với các tôn giáo, kể cả các tôn giáo chưa có mặt tại Việt Nam. Nhưng vì khi kiến thức của người dân được mở mang thì ngôi vị của tầng lớp cầm quyền sẽ bị đe dọa, nên có lẽ ước mơ này chỉ có thể được thực hiện cách tốt đẹp khi nào tại Việt Nam có một Nhà Nước thật sự hiểu và biết coi trọng hai chữ “dân tộc” mà thôi.
            Phong trào đòi các quyền tự do, trong đó có tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo, nổ ra ở Âu Châu từ Thời Đại Ánh Sáng (thế kỷ thứ 16), bắt nguồn từ phản ứng của người Âu Châu, khi đạt đến một trình độ tri thức nào đó, chống lại sự độc tôn tôn giáo, độc quyền tín ngưỡng và tư tưởng, áp đặt bởi Giáo Hội Catô giáo La Mã (trong cuộc đấu tranh này phải kể đến sự đóng góp to lớn của các nhóm di dân người Do Thái, họ bị thảm sát không biết bao nhiêu lần nhưng vẫn cương quyết giữ lấy tôn giáo gốc của mình). Chính nhờ thế mà Âu Châu mới được như ngày hôm nay. Song song, cấu trúc Nhà Nước - Quốc Gia (Etat-Nation) được thành lập, và tự do tín ngưỡng của người dân, nhất là khi người đó chưa đến tuổi trưởng thành để có thể tự lựa chọn, được bảo vệ, cùng với việc bảo vệ sự thống nhất quốc gia và sự sống yên ổn của người dân.
            Luật pháp của các nước tiên tiến cho ta nhiều thí dụ. Tại Pháp, chẳng hạn, trong Bộ Nội Vụ có một cơ quan lo về các vấn đề tôn giáo; cấm nhà thờ rung chuông trước 10 giờ sáng, kể cả ngày nghỉ và ngày chủ nhật; cấm mọi tập tục tôn giáo làm cản trở việc hôn nhân dị giáo; Jules Ferry hồi đầu thế kỷ này đã đuổi các tu sĩ ra khỏi trường...; và mới đây (1995) Bộ Trưởng Nội Vụ mong rằng tại Pháp có một tổ chức Hồi giáo vững chắc trong khuôn khổ của luật pháp quốc gia và được luật pháp này bảo vệ, chứ không để phụ thuộc vào bất kỳ một uy quyền nào nằm ngoài quốc gia.
            Có sự lẫn lộn giữa các chức vụ chính thức của Giáo Hoàng:
1/ Evêque de Rome - Giám Mục giáo phận Rôma; 2/ Souverain Pontife de l’Eglise Catholique de Rome - Giáo Hoàng của Giáo hội Catô giáo Rôma; và 3/ Chef d’ Etat du Vatican - Nguyên thủ Quốc gia Vatican, nhưng quan hệ giữa một Nguyên thủ Quốc gia với Giáo Hoàng là quan hệ trên căn bản giữa  quốc gia với quốc gia. Và khi một người công dân Việt Nam chẳng hạn nhận lãnh một tước vị (cardinal, hồng y, monseigneur, mông xây nhơ), một chức vụ (giám mục địa phận) và một sứ mạng (bành trướng nước Chúa tại Việt Nam chẳng hạn), thì quốc gia Việt Nam phải thể theo công pháp quốc tế mà hành xử: toàn quyền xét quyết, đồng ý hay không đồng ý, sự bổ nhiệm đó, và trong thời hạn nào; nhưng khi đồng ý thì phải đối xử với đương sự như công dân của Vaitican, và cấp cho người đó một giấy chứng minh thường trú (carte de résidence). Tại vì người “Việt Nam” đó bây giờ đã là một công chức ngoại quốc chứ không còn là một công dân Việt Nam nữa.
 
III. SÁCH CỦA GIOAN PHAO LỒ II
Không phải những câu trả lời của Giáo Hoàng, trong quyển Entrez Dans L’ Espérance (Hãy vào với hy vọng), là quan trọng, vì ai có nghiên cứu về Giáo Hoàng Quyền (La Papauté) đều có thể đoán trước được hướng tư tưởng và việc phải làm của ông, nhưng chính những câu hỏi được nêu ra trong sách mới là đề tài đáng được nghĩ bàn và thảo luận rộng rãi, vì trong đó một số câu hỏi được đặt ra cho mọi người, mọi tôn giáo (cả “duy vật giáo”), chứ không phải chỉ dành riêng cho Giáo Hoàng và Giáo Hội Catô giáo. Câu hỏi “Phải chăng Phật giáo là giải pháp thay thế cho Thiên Chúa giáo ?” (trg. 139) đâu phải chỉ nêu ra cho Giáo Hoàng; đâu phải tự nhiên mà nó được nêu ra; và câu hỏi, tự nó, đã thể hiện như một thông điệp của hy vọng.
Thật ra Giáo Hoàng đâu có trả lời câu hỏi này, ông chỉ lên lời cảnh giác giáo hữu của ông mà thôi, với những lời phán xét chủ quan quen thuộc, đã từng thấy trong các tài liệu của Giáo Hội hay trong những phúc trình của các nhà truyền giáo hồi thế kỷ 17 hoặc 18, như nào là: Phật giáo không phải là một tôn giáo, là vô thần, là xuất thế, là thấp kém (“suy tư của Đức Phật chỉ dừng lại chính là ở chỗ khoa thần bí Camêlô bắt đầu” - trg. 143), hoặc như Allah của Hồi Giáo (Allah không phải là Thượng Đế thật - trg. 153).
Mượn lời của Đức Giêsu Kitô “Các con đừng sợ”, tôi xin đệ lời: “Thưa Giáo Hoàng, thưa các Catô hữu, xin quý ngài đừng sợ; đừng sợ Phật giáo, đừng sợ Hồi giáo, đừng nên hạ thấp các tôn giáo khác; đó không phải là cách để tôn vinh tôn giáo của quý ngài”. Đâu phải vì Phật giáo hay vì Hồi giáo mà ngày nay Catô giáo phải gặp khủng hoảng Đức Tin và Giáo Hội của quý ngài đang gặp khủng hoảng quyền lực, và đâu phải các khủng hoảng này chỉ dành riêng cho Catô giáo và Giáo hội của quý ngài.
Mọi cơ cấu tổ chức trong xã hội con người đều phải dựa trên một cấu trúc tư tưởng (hay đức tin), và mọi tổ chức nếu không tự cải sửa cơ cấu và tư tưởng để theo kịp trình độ phát triển kiến thức của thời đại đều phải gặp khủng hoảng.
 
IV. GẶP GỠ ĐÔNG TÂY
Toàn bộ hệ thống tư tưởng của truyền thống Âu Tây đặt trên hai chữ “Sáng tạo” (création), và dĩ nhiên khái niệm “sáng tạo” phải đi đôi với khái niệm “đấng sáng tạo”, với một thời điểm “sáng thế” và một ngày “tận thế”. Nhưng với đà phát triển vùn vụt của kiến thức khoa học hiện nay, khái niệm “tiến trình” (processus) thay thế nhanh chóng khái niệm “sáng tạo”: Con người không còn được xem là tạo phẩm đã hoàn thành của Thiên chúa nữa, mà là một “tiến trình”, “tiến trình trở thành”, mãi mãi trở thành, không điểm khởi đầu, không ngày chấm dứt. “Sự bùng nổ (big bang) cũng thế, là một bước trong “tiến trình trở thành” toàn diện và dài dẳng của vũ trụ. Vũ trụ cũng là một tiến trình. Và để đạt được trình độ kiến thức hiện nay, khoa học cũng phải trải qua một tiến trình.
Ở trình độ phát triển kiến thức này, Đức Tin nền tảng thứ hai của Thiên Chúa giáo (sau Đức Tin thứ nhất về sự sống lại của Giêsu Kitô) bị phủ nhận hay bị hoài nghi, và khoa học hiện đại bắt gặp nền tảng tư tưởng của truyền thống Á Đông, trong đó có tư tưởng của Phật giáo. Nhưng không phải vì thế mà các hệ tư tưởng Á Đông, nói chung, và Phật giáo nói riêng, không gặp phải khủng hoảng ở mặt tổ chức và quyền lực.
Mượn lời của Đức Giêsu Kitô một lần nữa, tôi xin thưa với quý vị Phật tử rằng: “Xin quý ngài đừng sợ; đừng sợ Catô giáo; và cũng đừng ngạc nhiên khi thấy Catô giáo Việt Nam trưng lên ngọn cờ quốc gia dân tộc, chống việc Tây phương hóa Việt Nam”. Vì ngày nay Tây phương hóa đồng nghĩa với khoa học hóa (dù khoa học hóa không hẳn là Tây phương hóa) và đồng nghĩa với thế tục hóa, thuốc giải trừ mọi thứ đức tin không kiểm nghiệm được.
Nhân loại không thể dừng lại ở thời đại “hậu thế chiến 2”, thời đại mác-cạt tít (chủ nghĩa Mc Carthy, Mỹ): “Với bom nguyên tử chúng ta sẽ Thiên Chúa giáo hóa toàn thế giới”. Đạo học Đông Phương và khoa học Tây Phương đang tìm gặp nhau, như đang tìm phân nửa khác của chính mình. Cả hai đều thấy rõ mối quan hệ hỗ tương liên lập giữa mọi sự mọi vật (nhân duyên sinh Phật giáo), và mỗi bên đang nỗ lực tìm một tổng hợp đề cho nhân loại ngày mai.
Nếu người Âu Châu không từ bỏ thế giới của họ, không tự giải thoát khỏi những ràng buộc của thế giới Âu Châu thời trung cổ, thế giới bị ngự trị bởi những đức tin, tín điều, tiên kiến, qui định phải trái tốt xấu, thế giới xây nền trên hai chữ “sáng tạo”, ngắn gọn “thế giới sáng tạo”, thì Âu Châu đã không được như ngày nay, và kiến thức khoa học cũng không thể phát triển nhanh, để bước sang “thế giới tiến trình và liên lập” như hiện nay.
“Thế giới sáng tạo” là thế giới cứng chết (chẳng hạn như: con người là tạo phẩm đã hoàn thành của Thiên Chúa). “Thế giới tiến trình” là thế giới sinh động và mãi mãi trở thành, tức là nó bao hàm chiều kích thời gian. “Tiến trình trở thành” là tiến trình cải tiến mãi hiện tại để tiến tới tương lai, mà hiện tại cũng là một bước cải tiến từ và trên căn bản của quá khứ. Ở đây có đặt vấn đề làm mới mãi quá khứ và hiện tại chứ không đặt vấn đề phủ nhận hay xóa bỏ nó. Tức là khỏi phải làm “cách mạng”!
Chính vì thấm nhuần quan niệm “tiến trình” này mà người Nhật đã tạo nên được quốc sách “cải thiện” (kaizen), áp dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội Nhật Bản. Và như nhiều người đã biết, nếu không có quốc sách kaizen thì cũng không có nước Nhật của quá khứ và không ngừng tiến đến tương lai.
“Con người trở thành” là “con người phi tôn giáo” (theo nghĩa Tây Phương), không phải chống tôn giáo. Nhưng không phải chỉ các tôn giáo sẽ bị vượt qua, mà tất cả những gì xây nền trên quan niệm “con người là tạo phẩm của Thiên Chúa” đều bị xét lại. “Quyền con người” cũng là một tiến trình, cũng trải qua nhiều thế hệ trước khi nó ra đời, và từ 1791 đến nay nó đã trải qua nhiều lần điều chỉnh cho hợp với cách nhìn mở rộng về con người (mãi đến sau thế chiến thứ 2, người ta mới bắt đầu thừa nhận các dân da màu cũng là người). Nhưng nay nó không còn có thể điều chỉnh được nữa, vì chính quan niệm nền tảng cũ về con người đã không còn giá trị. Và dĩ nhiên 3 nguyên lý nền tảng: tính hợp lý, tính cá nhân và tính giao kèo, của cấu trúc và sinh hoạt chính trị, xã hội và luật pháp của các thể chế dân chủ Âu Mỹ, vì cũng xây nền trên “Quyền con người” này, nên cũng bị mất chân đứng và khủng hoảng trầm trọng.
V. HÃY VÀO VỚI THỜI ĐẠI
Nhà nghiên cứu chính trị của trường Harvard, S.Huntington, qua bài viết của ông “The Clash of Civilisation?” đăng trong Foreign Affairs số mùa hè năm 1993, cho rằng những tranh chấp quốc tế trong tương lai sẽ năng màu sắc văn hóa hơn là ý hệ và kinh tế; hẳn nhiên là còn nhiều chỗ cần được thảo bàn thêm, nhưng luận đề này cũng lưu ý chúng ta rằng “muốn có mặt trong thế giới ngày mai, Việt Nam cần phải có cái văn hóa của mình”. Hoặc nói rằng Việt Nam cần làm một tổng hợp, Đông và Tây, Hoa và Ấn, hơn là đối thoại hay đối đầu, thì công việc cũng phải bắt đầu từ chỗ biết mình là ai, đang ở đâu và muốn gì cho ngày mai. Hoặc như nói rằng “thời đại này là thời đại của đối thoại”, nhưng nếu không biết ta là gì thì Việt Nam lấy gì để đối thoại.
Nói cách khác, người Việt cần phải bắt đầu ngay từ bây giờ và mãi mãi cuộc hành trình tìm lại chính mình, tìm lại dân tộc tính Việt. Đây mới thật là vấn đề sống còn của dân tộc. Không thế, người Việt và nước Việt có thể trở thành bất cứ cái gì nhưng chắc chắn không phải là Việt Nam.
 

 

 
ĐỐI THOẠI: “SỞ TRI CHƯỚNG”
VÀ “KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”
Phạm Trọng Chánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị là vị uyên bác giáo lý Kitô giáo, Ngài đã và đang làm những chuyện phi thường, điều đó mọi người đều công nhận. Ngài là Người đối thoại với mọi tôn giáo và có lẽ là vị Giáo Hoàng đầu tiên viết vài trang sách về Phật giáo. Tiếc thay khi đối thoại với Phật giáo tâm trạng Ngài lại giống như thi hào Lý Bạch đứng trước Hoàng Lạc Lâu:
Trước mắt có cảnh không tả được
Vì thơ Tô Hiệu ở trong đầu.
Ngài viết về Phật giáo nhưng trong đầu Ngài đầy những kiến thức về Thánh Gioan Thánh Giá, Thánh Têrêxa Avila, khoa thần bí Carmêlô, Thánh Thomas Aquinas, những nhà thần bí Bắc Âu, Vincent de Paul, Gioan Bosco, Maximilian Kolbe … Điều nhà Phật gọi là sở tri chướng, cái hiểu biết đã sẵn có đã đầy, ngăn cản điều hiểu biết mới như tách trà đã đầy, rót thêm chỉ tràn ra ngoài. Như tâm trạng người Việt Nam nặng lòng cố quốc tha hương đi đến đâu cũng thấy cảnh quê mình, đứng trước tháp Ép – phen (Eiffel) thì thấy cái chòi tre quê mình, trước nhà thờ Đức Bà Paris thì chỉ thấy ngôi chùa làng mình, trước bãi biển Nice thì cứ như thấy ở Vũng Tàu, rồi so sánh cái thấp, cái cao, cái to, cái nhỏ. Một đôi điều giống nhau cũng đủ “tâm viên ý mã” đi từ kỷ niệm này sang kỷ niệm khác.
Đi từ cái “tâm” sẵn có ảnh hưởng bởi những hiểu biết trước trong đầu, những nhận thức về Phật giáo của Giáo Hoàng làm cho những người hiểu biết về Phật giáo khó chịu và cảm thấy thương tổn. Nếu không thể so sánh được cái chòi tre với cái tháp Eùp-Phen thì cũng không nên so sánh “khoa thần bí Carmêlô này khởi đầu chính ở điểm mà những suy tư của Đức Phật dừng lại”. (Gioan Phaolo II - Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng - Thăng Tiến CA 1995 - trang 100).
Nước biển cùng một vị mặn nhưng không nên kết luận rằng bãi biển Nice là bãi biển Vũng Tàu. Sự giác ngộ của Đức Phật không nên so sánh với Thánh Gioan Thánh Giá nhìn thấy “tâm hồn con người được đốt cháy bằng ngọn lửa nồng nhiệt tình yêu”. Hai tôn giáo khởi nguồn từ hai nền tảng khác biệt. Đạo Phật tin vào sự tự cứu lấy mình, tự thắp đuốc lên mà đi. Kitô giáo tin vào sự cứu rỗi một Đấng Thượng Đế, Phật giáo tin vào sự giác ngộ thoát vòng luân hồi. Kitô giáo tin vào hồng ân lên cõi Thiên Đàng.
Đọc Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của Giáo Hoàng John Paul II, người đọc không khỏi chú ý nhiều đến những câu hỏi của ký giả Vittorio Messori, những câu hỏi rất hay, đặt đúng các vấn đề tâm điểm của Kitô giáo ngày nay. Những câu hỏi về Kitô giáo nên để các nhà chuyên môn về vấn đề này suy nghĩ và thảo luận.
Câu hỏi về Phật giáo biểu lộ mối ưu tư về một “cạnh tranh thị trường”, món hàng nhập cảng “Phật giáo” ngày càng đông người “tiêu thụ” ngày càng bành trướng tại Tây Phương, thu hút giới trí thức, các nhà tâm lý học, phân tâm học, môi trường học. Phật giáo có nguy cơ là một “hoán đổi” hoặc “bổ sung” tại “thị trường tôn giáo Tây Phương”. Nhiều tu sĩ, linh mục còn áp dụng Thiền vào việc tỉnh tâm, nhiều học giả Thiên Chúa giáo nghiên cứu sâu rộng về Phật giáo và bị “mê hoặc” bênh vực cho Phật giáo.
Những điều đó làm đảo lộn cái trật tự chỉ muốn đem cái ánh sáng văn minh phương Tây khai hóa cho các lục địa Á Phi, nghĩa là chỉ “xuất cảng” mà không muốn “nhập cảng” để cân bằng cán cân thương mại. Tượng Phật được chấp nhận làm vật trang trí tại Tây Phương để gắn lên cái chụp đèn cho đẹp căn phòng khách, được bày trên tủ sách để chủ nhân tỏ ra là người khôn ngoan hiểu rộng học rộng!
Thiền là môn thể dục không hơn không kém như Judo, Karaté. Tại Pháp, Phật giáo đã được vượt qua biên giới chủng tộc tôn giáo của người Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật, Việt Nam… hay tôn giáo của “người Tây Phương mắc bệnh tinh thần chân hổng mặt đất” mà ngày  càng lôi cuốn giới trí thức, công thương kỹ nghệ gia. Hơn 300.000 người Pháp theo đạo Phật trong vài thập niên gần đây và con số không ngừng tăng trưởng, sách báo nghiên cứu đạo Phật ngày càng nhiều. Khi ngày càng có đông đảo những người Tây Phương đi tu, ăn chay, tín đồ Tây phương đến chùa đông đảo, học Thiền với người Tây Tạng, người Nhật, người Việt Nam... và đã có những người Tây Phương cải đạo, đi giảng dạy Phật pháp, dạy Thiền và đông đảo người đến học.
Phật giáo trở thành mối đe dọa “cạnh tranh” trên thị trường Tây Phương. Tại Pháp, Thiên Chúa giáo chỉ còn có 23% người ngoan đạo đi nhà thờ, số linh mục tu sĩ ngày càng thiếu hụt. Hiện tượng các thánh lễ tại Pháp được cử hành bởi các giáo sĩ da đen, da vàng trở thành phổ biến vì sự thiếu hụt tu sĩ.
Các trang sách Giáo Hoàng viết về Phật giáo, Phật tử các nước trên thế giới đều không bằng lòng, các nhà thần học trong giáo hội Thiên Chúa giáo đã vội xin lỗi về sự khiếm khuyết của Giáo Hoàng trong sự hiểu biết về Phật giáo. Nó biểu lộ mối lo ngại về “cạnh tranh thị trường” hơn là về triết học, tôn giáo, tư tưởng: Món hàng gọi là mới đó, tôi cũng có tương tự, cái của tôi còn hay hơn, cao siêu hơn, món hàng kia không xài được, không bền, không có Thượng đế “bảo hiểm”.
Phật giáo không phải là giáo phái “mẹ mìn” đang quyến rũ dụ dỗ con cái Chúa, cũng không phải là ông thần của những dân tộc bán khai, mà là một tôn giáo lớn Đông Phương với 2.500 năm hiện diện, một hệ thống tư tưởng xây dựng vững vàng qua bao thời đại từ Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cao Miên, Tây Tạng, Trung Quốc, Mông Cổ, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam. Sự đối thoại chỉ có thể bắt đầu khi hai đối tượng công nhận lẫn nhau trong tinh thần tương kính, bình đẳng.
Nếu những đoạn viết trong cuốn sách trên về Phật giáo là của một linh mục truyền giáo hay một trí thức Kitô giáo thì đó là việc bình thường vì hơn 300 năm qua, những báo cáo, những bài viết các vị thừa sai về Phật giáo đầy rẫy những ngộ nhận ngây ngô, những xuyên tạc ác ý như thế. Chúng ta có thể đọc những dòng tương tự từ thời Alexandre de Rhodes. Điều này khác xa với thái độ nghiên cứu các học giả người Anh và sự tôn trọng văn hóa, bản sắc tôn giáo người Anh đối với Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện.
Nhưng bài viết của Giáo Hoàng, một vị Thánh không thể nào có sai lầm (?), thì ảnh hưởng nó sẽ tác hại vô cùng đến toàn thể tín đồ Thiên Chúa giáo trên thế giới. Điều này giải thích lý do vì sao Phật giáo các nước Tích Lan, Thái Lan phản ứng mạnh mẽ trong khi chẳng ai buồn trả lời hàng ngàn bài viết của các vị thừa sai trong mấy thế kỷ qua về Phật giáo.
 


 

ĐẠO NÀO XUẤT THẾ TIÊU CỰC ?
ĐẠO NÀO NHẬP THẾ TÍCH CỰC ?
Nguyễn Hoài Vân
CHA TAO, CHA MÀY
Tôi rất ngán thái độ chia rẽ con người với con người bằng cách dán cho tôn giáo này nhãn hiệu này, tôn giáo khác nhãn hiệu khác, rồi phong cho cái này là tốt, là đúng, chê bai cái kia là thấp kém, là lầm lạc. Thái độ ấy cũng vô lý và đáng thương như câu chuyện mấy đứa trẻ mồ côi đập nhau chí tử, để tranh cãi rằng: “Cha tao giàu hơn cha mày, mạnh hơn cha mày, v.v…”, mà không biết rằng chúng đều là anh em ruột cùng chung cha mẹ!
Thông thường, người ta hay bảo Ky Tô Giáo, Khổng Giáo, là “tích cực, nhập thế”, còn Phật giáo, Lão Giáo là “tiêu cực, xuất thế”. Để dẹp bớt cái luận điệu tào lao này, tôi sẽ nêu lên một số tính chất tiêu cực và xuất thế trong tư tưởng Ky Tô Giáo, rồi nhìn qua vài khía cạnh tích cực, nhập thế của Phật giáo. Tôi cũng có thể viết một bài tương tự với Khổng và Lão Giáo, nhưng đó không phải là chủ đề của bài viết này.
 
VÀI MẶT TIÊU CỰC TRONG TƯ TƯỞNG KITÔ GIÁO
Xin chọn vài thí dụ, lấy từ thần học của Thánh Augustin (354-430), được coi như một cột trụ của Giáo Lý Ky Tô Giáo. Vị thánh này là người đã “sáng chế” ra “tội Tổ Tông” hay “tội nguyên thủy” (péché originel), để chống lại quan điểm “nhân chi sơ, tính bổn thiện” của Thầy Tu Pélage (mất năm 418). Trong khi Pélage cho rằng con người có tự do, và có thể tích cực chọn lựa giữa làm việc thiện hay làm việc ác, thì Augustin quả quyết con người chỉ có thể làm việc ác, và chỉ khi nào được hưởng nhờ Hồng Ân Thiên Chúa con người mới biết làm việc thiện, để hy vọng được cứu rỗi. Quan điểm này hoàn toàn tiêu cực, nhất là khi Augustin nhấn mạnh là Thiên Chúa chỉ ban phát Hồng Ân của Ngài cho một số người được chọn lọc (praedestinati), theo những tiêu chuẩn riêng của Ngài mà không ai có thể hiểu nổi. Tuy nói vậy, nhưng Augustin cũng vẫn “bật mí” cho chúng ta biết một tiêu chuẩn trọng yếu: đó là số người được hưởng nhờ ơn Chúa, và được giải thoát, phải bằng với con số Thiên Thần bị giáng chức và bị tống cổ ra khỏi Thiên Đàng. Những người còn lại, thuộc về tập thể bị loại trừ (massa perditionis), sẽ bị thiêu đốt đời đời trong Hỏa Ngục. Ý kiến “tiền định” tương tự cũng có thể được nhận thấy trong Thánh Thư của Thánh Phao Lô (gửi tín hữu La Mã 8:28-30).
Như vậy, bạn đọc thân mến, tôi rất hân hạnh được báo cho bạn biết, nếu bạn chưa biết, rằng trên nguyên tắc, bạn là một tên tội lỗi, hèn hạ, xấu xa, dơ dáy, ác ôn, độc địa. Một tên… phản động, phản cách mạng! Tương lai tốt đẹp nhất mà bạn có thể mơ ước là sự thiêu đốt đời đời trong Hỏa Ngục giữa một bầy ác quỷ vô cùng kinh tởm. Tuy nhiên, giả sử trong muôn một, có một anh Thiên Thần ấm ớ nào đó bị đuổi khỏi Thiên Quốc, và bạn lọt được lên trên ấy để thế vào chỗ của anh ta, thì đó là do Ơn Chúa, được ban phát cho bạn, chứ chẳng phải vì bạn xứng đáng chi cả. Vả lại, bạn cũng chẳng thể làm được điều gì xứng đáng, vì bản thân của bạn là xấu xa, tội lỗi. Nói cách khác, bạn hoàn toàn bó tay và chỉ có thể trông nhờ nơi Ơn Chúa. Mà Ơn Chúa có ban phát hay không ban phát cho ai thì lại đã được định đoạt từ ngàn đời trước rồi! Tôi gọi đó là một tư tưởng tiêu cực, bạn nghĩ sao?
Nếu từ lập luận này mà tôi bảo Ky Tô Giáo là tiêu cực, thì nhiều người sẽ trích dẫn một triệu lẻ một kinh điển ra để minh chứng ngược lại, rằng Ky Tô giáo rất tích cực, và họ có lý. Điều này cho thấy không thể từ một số suy tưởng cục bộ mà dán một nhãn hiệu lên cho một tôn giáo!
 
VÀI KHÍA CẠNH TÍCH CỰC TRONG TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO
Phật giáo coi bản tánh của mọi chúng sanh đều là Phật. Chỉ cần bỏ những mù quáng, mê chấp, thì nhận ngay ra mình là Phật. Không ai bị bỏ rơi, không có “massa perditionnisi” vì mọi người đều là Phật, bỏ sao được? Đó là một điểm tích cực quan trọng. Mặt khác, cũng không cần sự cứu rỗi từ bên ngoài vì Phật ở sẵn trong mình rồi, chứ nào có ở đâu trên mây trên gió mà phải nhào tới cứu độ mình? Tức là mỗi người cần tích cực đi tìm giải thoát, với sự soi sáng tự nhiên của Phật Tính nơi mình, để thay đổi cách nhìn của mình về sự vật, về mình, và để tìm thấy chính mình.
Trên con đường tu tập, Phật giáo dạy phải thực nghiệm, chẳng nên tin vào giáo điều lý thuyết chi cả. Tức là phải tích cực tìm hiểu, chứ không thụ động tin theo ông thần này hay ông thánh nọ, để rồi mù quáng tiêu cực loại bỏ những gì không nằm trong “giáo lý” của mình.
Đối với vấn đề thiện ác, Phật giáo có một nhãn quan đặc biệt tích cực. Khi sự ác được chấp nhận như hậu quả của lẽ nhân duyên, thì không còn có thái độ tiêu cực loại bỏ. Kẻ sát nhân, người nham hiểm, chẳng qua cũng chỉ là nạn nhân của nghiệp báo chập chùng, nhân duyên trùng điệp, chứ trong bản tánh họ vẫn là Phật kia mà! Biết đâu chính vì những hành động tàn ác kia mà họ ý thức, giác ngộ và trở thành bậc Chánh Giác? Với tinh thần ấy, người ta thông cảm, tìm hiểu những nhân duyên của một hành động tàn ác, và tìm cách nâng đỡ, chứ không loại trừ cá nhân làm việc ác ấy. Nếu có phê phán, thì người ta phê phán hành động chứ không phê phán con người. Điều này rất tích cực, vì nó không bao giờ loại bỏ khả năng hướng thiện dù trong bất cứ tình huống nào.
Nói: Anh “là” xấu xa, như trong ngôn ngữ Tây phương thông thường (you are bad), rất khác với: “anh đã làm một việc xấu xa”. Câu nói thứ hai có ý nghĩa tích cực quan trọng. Tương tự như vậy, trong trị liệu, tôi thường cố gắng nói với bệnh nhân: “Vous avez une dépression” (anh hay chị đang mắc chứng suy nhược thần kinh), thay vì: “Vous êtes déprimé” (anh chị “là” suy nhược thần kinh). Với câu nói ấy, tôi cố gieo một chủng tử tích cực, hướng tâm lý người bệnh về một hướng tích cực, thuận lợi cho sự lành bệnh.
Những quan điểm vừa nêu có phải là đặc thù của Phật giáo hay không? Hoàn toàn không. Chẳng hạn dưới một hình thức khác, những quan điểm ấy đều hiện hữu trong tư tưởng Ky Tô giáo. Thật vậy, tôi có thể tìm thấy tất cả những gì tôi vừa nói về Phật giáo trong Thánh Kinh. Vậy, đạo nào tích cực? Đạo nào tiêu cực?
TƯ TƯỞNG XUẤT THẾ TRONG KITÔ GIÁO
Chúng ta có thể dựa vào một số lời nói của chính Đức Ky Tô để nhận ra một khuynh hướng xuất thế rất đậm nét trong Kitô giáo.
- Trong Phúc Âm thánh Gioan (15:19), Đức Ky Tô nói rất rõ với các môn đệ, tức là với tất cả những Ky Tô hữu: “Các con không thuộc về thế gian, thầy đã đặt các con ra ngoài thế gian”. Và khi toàn quyền La Mã Pilatô tra vấn Ngài, Ngài cũng tuyên bố: “Vương quốc của Ta không thuộc về thế gian” (Gio-An.18:36).
- Thật ra, Đức Ky Tô không những chủ trương đứng ngoài thế gian, mà Ngài còn coi thế gian là nguồn của sự dữ, là vương quốc của Ác quỷ, là sự chống phá lại công trình của Ngài. Ngài nói: “Thế gian thù ghét Ta vì Ta chứng minh được rằng những công trình của thế gian đều xấu xa” (Gio-an 7:7). Một lúc khác, trong lời cầu nguyện với Thiên Chúa, Ngài nói: “Con đã truyền cho họ (các môn đệ) lời nói của Cha và thế gian đã thù ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, như chính con cũng không thuộc về thế gian.” (Gioan 17:14). Rõ rệt hơn nhất, trong Gioan 12:31, Ngài gọi Ác quỷ là “Vua của thế gian” và trong Gioan 12:30, Ngài phán: “Từ nay, Ta không còn nói chuyện với anh em được nữa, vì Vua của thế gian này đã đến”.
Bây giờ tôi xin bạn chú ý đến một câu chuyện được kể lại trong tất cả các bộ Phúc Âm trừ Phúc Âm Gioan. Đó là chuyện Ác quỷ cám dỗ Đức Kitô: Trước khi Đức Kitô thu nhận môn đệ và bắt đầu giảng dạy, Ngài đã vào sa mạc tĩnh tâm một thời gian. Lúc ấy, Ác quỷ đến cám dỗ Ngài. Có ba sự cám dỗ, sau khi Đức Kitô đã vượt qua hai sự cám dỗ đầu tiên, thì Ác quỷ đưa Ngài lên một đỉnh núi cao và chỉ cho Ngài thấy tất cả thế gian với những vương quốc giàu mạnh, vinh quang, những lâu đài lộng lẫy, những thú vui vô số và bảo Ngài phải khuất phục nó, thì thế gian sẽ thuộc về Ngài. Đương nhiên là Đức Ky Tô lại khước từ thêm một lần nữa, với câu nói bất hủ: “Vade retro, Satanas” (Satăng, hãy cút đi!). Đức Thích Ca cũng đã từng bị Quỷ Vương cám dỗ một cách tương tự.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy Ác quỷ Satăng chính là Vua của thế gian, và Đức Ky Tô với quyền năng của Ngài, cũng có thể ngự trị trên thế gian, y hệt như Ác quỷ. Mặc dầu vậy, Đức Kitô đã chọn khước từ thế gian, thậm chí sau này còn chấp nhận cho thế gian giết chết mình…
Thật ra quan điểm xuất thế đã hiện hữu trong tư tưởng Do Thái, đặc biệt từ khi dân tộc này bị lưu đày vào năm 538 tới 587 trước Công Nguyên. Khi ấy trong nổi buồn tha hương, vong quốc, đất nước hoàn toàn bị phá hủy, người Do Thái chỉ còn biết ngước mắt kỳ vọng nơi một quê hương trên trời. Quê hương thật, đất nước thật của họ, từ đó, chính là Nước Trời, chứ không còn là một mảnh đất nào trên cõi thế nữa. Thánh Phao Lô, trong Thánh Thư gửi người Do Thái (11:14), cũng đã nhắc lại niềm tin này.
Một tư tưởng khác rất phổ thông trong Ky Tô giáo, là sự xác quyết sẽ có một ngày tận thế. Tất cả những gì con người xây dựng được nơi thế gian đều sẽ bị hủy diệt. Đức Ky Tô, trong các đoạn Phúc Âm Mát-Thêô 24, Mác-cô 13 và Lu-ca 21 đã nói về vấn đề này. Tức là sẽ không có một thế gian tốt đẹp, viên mãn, trường cửu như con người thường ước mong. Lịch sử sẽ không phải là giòng sông đưa nhân loại đến bờ hạnh phúc, hay con đường xa lộ dẫn cái xã hội mà ta đang sống đến với Thiên Chúa như Hegel từng quan niệm. Nước Chúa sẽ không phải là sự nối dài của cái xã hội mà ta đang sống, đang chăm lo bồi đắp. “Tất cả đều sẽ bị hủy diệt” đó là lời Chúa!
Nhiều người sẽ nói: đó là chuyện xa vời, ngay bây giờ, vẫn phải chăm lo cho gia đình, cho xã hội, cố sức xây dựng bình an hạnh phúc, v.v.. Đó là những ý tưởng rất chính đáng của đại đa số con người. Nhưng Đức Ky Tô nghĩ sao?
Về gia đình, Ngài bảo với các môn đệ, với tất cả chúng ta, rằng phải bỏ hết tất cả những ràng buộc gia đình, để theo Ngài: “Nếu kẻ nào đến với ta mà không từ bỏ cha mẹ mình, vợ con mình, và cả chính đời sống của mình, thì người ấy không thể là môn đệ của ta” (Lu-ca 14-26). Khi có môn đệ xin được về nhà từ giã gia đình trước khi lên đường theo Ngài, Đức Kitô từ chối ngay tức khắc và nạt rằng: “Kẻ nào đã bắt tay vào cày ruộng (tức là đã theo Ta) mà còn nhìn về phía sau, thì kẻ ấy không xứng đáng vào Nước Chúa!” (Lu-ca 9-26). Một môn đệ khác xin về chôn cất cha mình vừa mới qua đời, ngài cũng từ chối rằng: “Cứ để người chết chôn người chết, phần anh hãy đi rao giảng nước Trời” (Lu-ca 9:59-60). Phải nói là Chính Đức Ky Tô cũng đã hoàn toàn từ bỏ gia đình mình. Trong Phúc Âm, không khi nào thấy Ngài gọi mẹ Ngài là “mẹ”, mà chỉ nói “Bà kia”. Và một ngày nọ khi  đang ở giữa đám đông, thì có người đến báo tin cho Ngài biết rằng: “ Mẹ anh và các em anh đang tìm anh ngoài kia”. Đức Ky Ttô rảo mắt nhìn quanh cử tọa, rồi nói: “Đây là mẹ ta, đây là anh em ta, tất cả những ai hành động theo thánh ý Chúa, đều là mẹ và anh em ta”. (Mác-cô 3:32-35).
Còn đối với xã hội? Đức Ky Tô nói rất rõ: “Đừng lầm tưởng rằng ta đến để mang lại hòa bình trên trần thế, ta không đến để đem lại bình an, mà chính là để đem lại gươm đao, cho người con trai nổi lên chống lại cha mình, người con gái chống lại mẹ mình, người con dâu chống lại mẹ chồng, người trong một gia đình đối nghịch lại với nhau” (Mát-Thêô 10:34-35). Trong Phúc Âm Lu-ca, Ngài cũng nói một câu tương tự (Lu-ca 12:51-53). Việc “đem lại gươm đao” cũng được nhắc đến ở đọan Phúc Âm Lu-ca 22-36, khi Đức Ky Tô nói với các môn đệ: “Ai chưa có võ khí thì hãy bán áo choàng của mình đi mà mua lấy một thanh gươm”.
Đương nhiên là thái độ này của Đức Ky Tô không mấy gì là “politically correct”, và nhiều người “thông minh” hơn Ngài đã phải lập tức giải thích rằng: Ngài nói vậy nhưng phải hiểu khác, phải hiểu rằng, thì, mà, là… ngược lại! Cũng như khi Ngài dạy phải bỏ hết tiền bạc, tài sản, hay cho rằng “Người có của vào nước Trời còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim”. Những lời nói ấy làm rộn sự “bình an” hưởng thụ của nhiều người. Họ không thể nào chấp nhận chúng được. Vì thế, họ phải dạy khôn Đức Ky Tô, bảo Ngài phải hiểu những lời Ngài nói một cách khác, hợp với những nếp suy tư trưởng giả và những ham muốn thường tình của họ hơn. Đừng quên, người đương thời đã đem Chúa Kitô ra đóng đinh trên thập giá, thậm chí ngay chính những kẻ trong gia đình Ngài cũng đã muốn bắt giữ Ngài, vì họ cho rằng: “Nó đã mất trí!” (Mác-cô 13:21)
PHẬT GIÁO VÀ KHÁI NIỆM NHẬP THẾ
Phật giáo không phân biệt thế gian với “ngoài thế gian”. Tất cả đều là Tâm (vạn Pháp quy Tâm). Vậy thì chỉ có Tâm. Nếu chỉ có Tâm mà thôi, thì xuất thế phải ra ngoài Tâm. Khi ấy, thử hỏi cái gì sẽ ra ngoài Tâm? Có phải cũng là tâm hay không? Tâm làm sao phải ra ngoài Tâm được? Vậy, Phật giáo không xuất thế!
Một cách nói khác: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, vậy thì Phật ở đầy trong thế gian này, nhìn đâu cũng thấy Phật, Phật làm sao mà xuất thế được? Đây cũng là một cách giải thích nghệ thuật của Phật giáo, đặc biệt là của Thiền Tông, với những bài thơ hay những bức họa đầy tình thân ái, mô tả những cảnh vật nhiều khi rất nhỏ nhoi, những con người nhiều khi rất bé mọn, những động tác nhiều khi rất tầm thường, diễn đạt niềm cảm thông sâu sắc với tất cả những gì chung quanh. Nhất định là các nghệ sĩ và Thiền sĩ ấy không khước từ thế gian, không coi thế gian là hiện thân của sự Ác… sự Ác có chăng thì chỉ là kết quả của vô minh, chứ dưới tấm màn vô minh ấy, vẫn luôn tiềm tàng Phật tính. Có khác với tư tưởng của Đức Ky Tô hay không? Tôi nghĩ là không khác, mặc dù những gì tôi vừa viết ở đoạn trên còn cần được trình bày rõ ràng hơn. Xin hẹn bạn dịp khác.
Một loại lập luận khác có thể được nêu lên là: hạnh nguyện Bồ Tát, từ chối sự giải thoát cho riêng mình khi còn bất cứ chúng sinh nào chưa được giải thoát, chính là một tư tưởng nhập thế triệt để. Phật giáo Mật Tông cũng tin ở Phương Đông có một vị Phật tên là Aksobhya (A Súc Bệ), tượng trưng cho sự nhập thế, cứu độ, đi từ vô biên vào thế giới hữu hạn để thực hiện sự cứu độ và đi từ hữu hạn đến vô biên để thực hiện sự giải thoát…
DANH HIỆU CỦA QUỶ VƯƠNG
Trong truyền thống Do Thái, Ky Tô và Hồi Giáo, người ta gọi Ác Quỷ là Satăng. Bạn có biết chữ ấy có nghĩa gì không? Trong tiếng Do Thái cổ, chữ ấy được dùng để chỉ người có trách nhiệm lên án trong một phiên tòa, như một loại Công Tố Viên ngày nay vậy. Nói rộng ra, tất cả những kẻ lên án người khác, đều có thể được gọi là Satăng! Và khi chúng ta lên án bất cứ ai, thì đó chính là tiếng nói của Quỷ Vương trong chúng ta. Vì thế, Đức Kitô mới nói: “Đừng lên án, để khỏi bị lên án”. Và nhất là đừng lên án cả một tập thể, cả một cộng đồng, thậm chí cả một phần nhân loại, vì tín ngưỡng của họ. Bạn có thể nghĩ được rằng tất cả những người không cùng tôn giáo với bạn, trong đó có bạn bè của bạn, thậm chí ông bà tổ tiên của bạn đều đáng bị liệng xuống địa ngục nào đó hay không? Phải chăng họ đều là những ác quỷ, hay những “chuẩn ác quỷ”? Dù cho bạn có thuộc về tôn giáo nào đi chăng nữa, thì bạn cũng vẫn là thiểu số trong toàn nhân loại. Vì thế lên án những người khác tôn giáo với mình, chính là tự đặt mình vào một địa ngục ngay từ bây giờ với vô số “ác quỷ” nhan nhản chung quanh mình!
Thật ra, có những sự lên án gay gắt, nhưng cũng có những chê bai lịch sự, tuy không kém phần trịch thượng, kiểu như: Đạo ấy chưa hiểu tới, hay chưa đạt đến trình độ này, trình độ khác. Tôi  nói thái độ này cũng vẫn là một sự lên án, vì ta không thể biết nó sẽ trở thành gay gắt lúc nào, và vì nó có thể gợi lên những phản ứng gay gắt nơi những anh em bị mình chỉ trích. Thái độ ấy cũng vẫn là thái độ của Satăng, của Ác Quỷ.
Hơn lúc nào hết, cần đi tìm những điều giống nhau trong các tôn giáo, các giòng tư tưởng hơn là đào sâu những khác biệt. Riêng trong sự tìm hiểu những điều cốt lõi của Ky Tô giáo và Phật giáo, thì tôi có thể xác quyết với bạn rằng: Quả thực, tôi không hề thấy điều chi mâu thuẫn giữa hai tôn giáo này.

 

PHẬT GIÁO CÓ PHỦ ĐỊNH CUỘC SỐNG
VÀ THẾ GIỚI HAY KHÔNG?

Minh Chi
 
Đọc bài Giáo Hoàng Jean Paul II trả lời câu hỏi: “Phải chăng Phật giáo sẽ thay thế cho Kitô giáo?”, tôi bất giác nhớ tới cuốn Les Grands Penseurs De L’Inde (Những tư tưởng gia lớn của Ấn Độ) của Albert Schweitzer viết và xuất bản từ năm 1936, tức là cách đây gần 60 năm.
Ngay trong chương I của cuốn sách, Albert Schweitzer đã so sánh hai lối tư duy của phương Tây, “khẳng định cuộc sống và thế giới” (affirmation de la vie et du monde), và lối tư duy của Ấn Độ “phủ định cuộc sống và thế giới” (négation de la vie et du monde) (Trang 11 cuốn sách đã dẫn).
Ngay sau khi cuốn sách của Albert Schweitzer ra đời, nó đã bị nhiều nhà bác học có tên tuổi phê phán. Sự phê phán này không lẽ các nhà thần học của Vatican lại không biết. Tôi muốn giới thiệu một trong những phê phán sớm nhất mà cũng là triệt để nhất: tức là các bài giảng đầu tiên của Tiến sĩ S.Radhakrishnan tại bộ môn “Tôn giáo và đạo đức phương Đông” (Eastern Religions and Ethics) ở trường Đại học Anh Oxford trong các năm 1936-1938, cũng là năm xuất bản cuốn sách Tôn Giáo Phương Đông Và Tư Tưởng Phương Tây (Eastern Religion and Western thought) do Oxford University Press xuất bản. Tôi tin là thư viện của Vatican có quyển sách này, và các nhà thần học ở Vatican có thể tham khảo những lời phê phán của Giáo sư S. Radhakrishnan (ông này về sau làm Tổng Thống Ấn Độ), ở chương 3 của cuốn sách, đặc biệt là ở trang 76, trong đó S.Radhakrishnan lần lượt đề ra 8 điểm sai lầm của Albert Schweitzer và lần lượt phân tích từng điểm một. Tôi đề nghị các nhà thần học của Vatican hãy đọc kỹ trang đó và các trang tiếp theo cho tới hết trang 114, kết thúc chương : “Chủ nghĩa huyền bí và đạo đức trong tư tưởng Ấn Độ” (Mysticism and ethics in Indian thought).
Tôi tin rằng, nhận thức của Giáo Hoàng Jean Paul II có chính xác và cập nhật hay không đối với đạo Phật, phần lớn là tùy thuộc vào công phu thông tin khoa học khách quan và chính xác của quý vị các nhà thần học chủ chốt ở Vatican. Ở đây, vì khuôn khổ có hạn, tôi chỉ dừng lại một điểm, có thể là điểm trung tâm của sự phê phán của Giáo Hoàng đối với đạo Phật. Tức là điều mà Giáo Hoàng gọi là:
Một phương pháp giải thoát hầu như hoàn toàn tiêu cực, giải thoát có nghĩa là hoàn toàn cắt đứt với thế giới, nguồn gốc của tội ác… Niết Bàn, một thái độ bàng quan hoàn toàn đối với thế giới. (Xem cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng (bản Việt dịch) hay là trang 142 bản Pháp văn Entrez dans l’espérance).
Trướt hết, tôi muốn nhắc lại nhận xét từ ban đầu của tôi là những tư tưởng trên của Giáo Hoàng không có gì là mới mẽ, mà chỉ là sự nhắc lại rất đại khái nội dung cuốn sách đã dẫn của Albert Schweitzer.
Điểm thứ hai tôi muốn nhấn mạnh, là nếu thế gian này thật sự tốt đẹp, xứng đáng để các tín hữu đạo Thiên Chúa gắn bó trọn đời kiếp với nó, thì các tín hữu đó cũng sẽ không cần được Chúa Kitô cứu rỗi, công việc cứu rỗi và cả vương quốc của Chúa cũng trở thành vô nghĩa. Thiên đàng cũng vô nghĩa và địa ngục cũng trở thành vô nghĩa.
Do đó có thể nói, khoảng 5 thế kỷ sau Phật Thích Ca, Chúa Giêsu cũng không nói điều gì mới lạ, bất quá sự khác nhau giữa Kitô giáo và Phật giáo là ở chỗ, đối với Kitô giáo, con người chỉ có thể giải thoát khỏi tội ác, nhờ điều thiện đến từ Thượng Đế (Giáo Hoàng viết là: “à travers le bien qui vient de Dieu” (trang 142 bản Pháp văn đã dẫn), còn đối với đạo Phật thì con người chỉ có tự mình giải thoát khỏi tội ác bằng một nổ lực đạo đức lớn lao, khiến cho mình trở thành hoàn thiện, từ bỏ ba độc tham, thân, si. Tôi muốn nhấn mạnh là vấn đề không phải là từ bỏ thế giới hay từ bỏ cuộc sống như Giáo Hoàng nói, mà là từ bỏ ba độc tham, sân, si.
Vì vậy mà có sách Phật định nghĩa Niết Bàn là từ bỏ tham, thân, si (định nghĩa Niết Bàn của Huyền Trang, vị cao tăng nổi tiếng đời nhà Đường). Phật giáo không bao giờ định nghĩa Niết Bàn như là một thái độ bàng quan hoàn toàn đối với thế gian như Giáo Hoàng nói trong cuốn sách của Ngài (Le Nirvana, c’est à dire une indifference totale envenrs le monde) (trang 142 bản Pháp văn đã dẫn). Niết Bàn là từ bỏ tham, thân, si, là nổ lực tối đa để con người trở thành hoàn thiện, trở thành bậc Thánh ngay tại thế gian này, chứ không phải ở một thế giới nào khác, tại một tương lai xa xôi nào khác. Phật giáo luôn luôn khẳng định: Niết Bàn là ở đây và trong hiện tại.
Tất nhiên, trong Phật giáo Trung Hoa và Việt Nam hay Nhật Bản có một tông phái đặc biệt, gọi là Tông Tịnh Độ đặt vấn đề tu pháp môn niệm danh Phật A Di Đà, tức là cõi Cực lạc ở phương Tây. Trong Phật giáo vùng Đông Á, thật sự có một tông phái như vậy, thậm chí đó là một tông phái rất phát triển và có rất nhiều tín đồ. Chứng cớ là ở Việt Nam các tăng ni Phật tử thường chào nhau bằng câu “Nam mô A Di Đà Phật” hay gọn hơn “A Di Đà Phật”.
Vấn đề này nên hiểu như thế nào cho phải? Vua Trần Nhân Tôn đời Trần sau khi xuất gia, trở thành vị Tổ sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm. Trong bài phú “Cư trần lạc đạo”, Trần Nhân Tôn đã giải thích “Bí mật của Tông Tịnh Độ” bằng hai câu khá rõ nghĩa:
Tĩnh Độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi tới Tây phương,
Di Đà là tính lặng soi mụa phải nhọc tìm về Cực lạc.
("Cư Trần lạc đạo phú". Bản dịch của Hoàng Xuân Hãn. Tập san Khoa học xã hội số 5, trang 27, Hội khoa học xã hội Việt Nam tại Pháp xuất bản).
Tôi thấy không có gì mâu thuẫn giữa sự hoàn thiện mình và nỗ lực đạo đức, sao lại phê phán nỗ lực đạo đức của Phật giáo là tiêu cực? Thế thì hoàn thiện mình bằng cách cầu xin Thượng Đế cứu rỗi là tích cực hay sao?
Vâng! Đạo Phật xác nhận thế gian này là có nhiều tội ác, bắt nguồn từ ba độc tham, sân, si. Nhưng đạo Phật không dừng ở nhận định này. Đạo Phật còn  tiến thêm một bước thứ hai nữa là phân tích thế gian này vì sao lại có nhiều tội ác, bắt nguồn từ tham, sân, si? Đó là vì con người si mê (sách Phật gọi là vô minh), không nhìn thấy sự vật đúng như nó tồn tại là vô thường, biến đổi trong từng giây phút một, mà sở dĩ mọi sự vật đều như thế, là vì chúng vô ngã. Vô ngã không có nghĩa là không có gì hết mà chỉ là không tồn tại độc lập, không phải tồn tại tự nó, phụ thuộc vào nhiều điều kiện mà sách Phật gọi chung là nhân duyên.
Mọi sự vật và hiện tượng trong thế gian này đều là vô thường, vô ngã. Đó là một thực tế mà bất cứ người nào, miễn có đầu óc tỉnh táo và có con mắt biết nhận xét, đều phải công nhận. Chúng ta cần đến những sự vật đó và sử dụng chúng, thế nhưng chúng ta quyết không tham đắm chúng, và tuyệt đối càng không vì chúng mà phạm tội ác, tạo nghiệp ác để cho trong đời này và đời sau phải chịu khổ. Do đó, đạo Phật tiến thêm một bước nữa vạch ra cho mọi người một con đường thoát lìa tội ác. Đó là con đường Bát Chánh Đạo mà hầu như sách Phật nào cũng nói tới. Sách Anh ngữ thường gọi là: “The Eightfold Path”, dịch sát nghĩa là “Con đường Đạo tám nhánh”, và nếu dịch theo chữ Hán là “Bát chánh đạo” dịch sát nghĩa là “Tám con đường Đạo”.
Nội dung của Tám con đường Đạo không có gì là huyền bí, mà ở trong tầm thực hiện của tất cả mọi người, không kể là tăng hay tục, nam hay nữ, thậm chí cũng không kể mình là theo Đạo Phật hay theo các đạo giáo khác.
Nội dung của tám con đường đạo chỉ là:
1.                  Sống đạo đức.
2.                  Thân tâm được an tịnh.
3.                  Trí tuệ chiếu sáng.
Nhờ sống đạo đức cho nên thân tâm được an tịnh (định tâm), nhờ thân tâm an tịnh cho nên trí tuệ bừng sáng và con người được giác ngộ và giải thoát.
Ở đây, nếu có một điều bí mật và khó hiểu là điều này: trí tuệ đó không phải do Trời Phật nào ban cho chúng ta, mà chúng ta vốn có như vậy, nhưng vì ngu si cho nên chúng ta không tự biết đó mà thôi. Cũng như nhà triệu phú có kho vàng trong nhà mà không biết, cứ đi ăn xin hết nhà này sang nhà khác. Nói chung ta giác ngộ là giác ngộ về cái trí tuệ vốn có sẵn trong mỗi chúng ta. Đức Phật không đem cho chúng ta cái trí tuệ đó. Đức Phật chỉ làm mỗi việc là chỉ cho chúng ta thấy cái trí tuệ đó là ở trong chúng ta, cho nên phải hướng nội mà tìm, không thể cầu ở bên ngoài mà được. Cũng vua Trần Nhân Tôn trong bài phú “Cư trần lạc đạo” đã dẫn chứng, viết bốn câu đầy ý nghĩa:
“Bụt ở trong nhà,
Chẳng phải tìm xa,
Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt,
Chỉn mới hay chính Bụt là ta.” (1)
Vâng, chính Bụt là ta, là chúng ta. Thật tôi chưa thấy một tôn giáo nào đề cao giá trị của nhân sinh, của con người đến như vậy. Bài của tôi trả lời Giáo Hoàng nên kết thúc bằng bốn câu phú tuyệt vời đó.
GHI CHÚ:
(1) khuấy bổn = quên mất gốc.
                chỉnh mới hay = chính mới hay
PHỤ ĐÍNH:
Albert Schweitzer tác giả cuốn Les grands penseurs de l’Inde là tiến sĩ triết học, tiến sĩ y khoa và tiến sĩ thần học. S.Radhakrishnan trong cuốn sách của ông Eastern Religions And Western Thought đã tóm tắt nội dung phê phán của Schweitzer đối với triết học Ấn Độ (bao gồm cả triết học Phật giáo) thành 8 luận điểm mà Radhakrishnan lần lượt giới thiệu cụ thể và phản bác trong suốt chương “Mysticism and Ethics in Hindu thought” (Chủ nghĩa huyền bí và đạo đức trong tư tưởng Ấn Độ). Sau đây, tôi chỉ giới thiệu 8 luận điểm của Schweitzer:
1. Trong tư  tưởng Ấn Độ, có xu hướng cường điệu niềm vui siêu thế (ecstasy). Xu hướng này tất nhiên dẫn tới phủ định cuộc sống và thế giới này.
2. Tư tưởng Ấn Độ chủ yếu hướng tới một thế giới khác với thế giới cõi người này. Đó là điều không thể cùng tồn tại với một nền đạo đức nhân bản, nền đạo đức của con người, vì con người.
3. Chủ thuyết Ấn Độ về Maya (ảo ảnh), tuyên bố cuộc sống chỉ là ảo ảnh, tất nhiên có hàm ý phủ định thế giới này và cuộc sống này.
4. Đối với người Ấn Độ, nguồn gốc của thế giới này chỉ là một trò chơi của Thượng Đế (a game played by God).
5. Con đường giải thoát là jnana hay là tự mình tìm hiểu mình. Đó không phải là con đường phát triển đạo đức, do đó tôn giáo Ấn Độ không phải là tôn giáo đạo đức.
6. Mục tiêu của mọi cố gắng của con người là giải thoát, chứ không phải là hòa hợp (ý Schweitzer nói hòa hợp với Thượng Đế). Đó là sự giải thoát tâm linh khỏi những ràng buộc hữu hạn, chứ không phải là sự biến đổi của cái hữu hạn thành một bộ phận hay một biểu hiện của cái vô biên. Tôn giáo chỉ là nơi né tránh cuộc sống và các vấn đề của cuộc sống. Con người không có chút hy vọng gì về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
7. Con người lý tưởng của tôn giáo Ấn Độ siêu việt lên trên cái thiện và cái ác, tức là lên trên mọi phân biệt đạo đức.
8. Tư tưởng Ấn Độ nhấn mạnh một nền đạo đức hoàn thiện nội tâm, điều này mâu thuẫn với một nền đạo đức năng động và tình thương rộng mở đối với người sống bên cạnh mình.
(Giới thiệu tóm tắt từ trang 76 của cuốn sách Tôn Giáo Phương Đông và Tư Tưởng Phương Tây của S. Radhakrishnan).
Thật ra, tư tưởng của Schweitzer trong bài tựa của cuốn sách đã tỏ ra uyển chuyển hơn nhiều so với trong nội dung của cuốn sách của ông, và đặc biệt là không cứng nhắc một chiều như bài phát biểu của Giáo Hoàng Jean Paul II.
Schweitzer viết trong bài tựa:
Tôi luôn luôn có một cảm tình đặc biệt đối với nền đạo đức Ấn Độ, bởi vì nó không chỉ quan tâm tới mối liên hệ giữa con người và đồng loại và với xã hội mà cả tới thái độ của con người đối với tất cả mọi loài”.
Kỳ lạ thay, một nền đạo đức rộng mở và bao la như vậy sao gọi là tiêu cực được. Đó là một nền đạo đức bao gồm trong tình thương rộng lớn của nó (sách Phật gọi tình thương đó là lòng từ và lòng bi), tất cả mọi loài, tất cả thiên nhiên chứ không phải riêng đối với loài người. Đạo Phật phản đối khái niệm về vị trí trung tâm của loài người trong vũ trụ, bởi lẽ một thái độ như vậy bật đèn xanh cho sự phá hoại tài nguyên thiên nhiên không hạn chế, và giết hại mọi loài vật và súc vật khác một cách không thương tiếc.
Vì vậy, có thể khẳng định, nền đạo đức Phật giáo là đỉnh cao nhất của cái mà các triết gia hiện tại gọi là nền đạo đức môi trường (Environmental Ethics). Một nền đạo đức tuy không đặt mục tiêu cứu kính là con người hòa hợp với Chúa, nhưng vẫn là nền đạo đức tích cực nhất và hơn nữa hiện đại nhất. Peter Singer, trong cuốn “The Expanding Circle”(Vòng tròn mở rộng, Oxford Clarendon Press, 1981) viết:
“Phong trào sinh thái (ecology movement) đã nhấn mạnh là chúng ta không phải là loài vật độc nhất trên hành tinh này, và chúng ta không được đánh giá mọi vật theo quan điểm vật ấy có ích lợi đối với loài người hay không…”
Đó là về mặt đạo đức của vấn đề. Tôi nghĩ rằng trong chủ đề đạo đức, Schweitzer có một lối tư duy uyển chuyển hơn quan điểm một chiều của Giáo Hoàng, vốn cho rằng sự hoàn thiện bản thân “là không đủ để hòa hợp với Chúa” (La purification ne suffit pas à produire l’union à Dieu…” (Xem “Entrez dans l’Espérence” trang 143 - bản Pháp văn).
Ngay khi nói về thái độ phủ định và tiêu cực đối với thế giới về cuộc sống, Schweitzer cũng tỏ ra uyển chuyển hơn khi ông khẳng định trong bài tựa cuốn sách là:
“Theo các triết gia (phương Tây, bắt đầu từ Schopenhauer…) thì tư duy Ấn Độ hoàn toàn bị ngự trị bởi tư tưởng phủ định thế giới. Thế nhưng, tôi lại nhận thấy rằng, trong tất cả mọi thời điểm, tư duy đó cũng bao hàm cả những yếu tố khẳng định. Và sự cùng tồn tại của cả hai yếu tố khẳng định và phủ định thế giới tạo ra nét độc đáo của lối tư duy đó và quyết định sự diễn biến của nó”.
Or, j’ai constaté que de tout temps, elle a renfermé aussi des élémens d’affirmation. Cette coexistence de l’affirmation et de la négation du monde constitue précisément son originalité et determine son évolution. Xem cuốn Les grands penseurs de l’Inde - Albert Schweitzer - Preface – Page 9.
Đọc đoạn văn trên của Albert Schweitzer, chúng ta suy nghĩ như thế nào về nhận định của Giáo Hoàng Jean Paul II, khi Giáo Hoàng nhận định là Phật giáo cung cấp một phương pháp giải thoát hầu như hoàn toàn tiêu cực?
                                                                                                 MINH CHI

0 nhận xét:

Đăng nhận xét