Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014
ĐỐI THOẠI VỚI GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAO-LỒ II (Phần IV)
THƯ NGỎ GỬI GIÁO HOÀNG JOHN PAUL II
Vũ Trọng Minh
Hoa Kỳ, ngày
15-3-1995
Kính gửi: Giáo
Hoàng John Paul II
Tòa Thánh
Vatican
La Mã
Kính thưa Ngài,
Người được hân
hạnh viết thư này gởi đến Ngài là một Phật tử Việt Nam tỵ nạn tại Hoa Kỳ đã
mười sáu năm; Sau khi đọc cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của Ngài,
do ông Hoàng Quý dịch ra Việt ngữ, thấy cần phải lên tiếng trình bày với
Ngài một vài điều ngộ nhận để góp ý kiến phê phán và sửa chữa.
Trước hết vì
dịch giả là một trí thức Công giáo, tổng thư ký nguyệt san Hiệp Nhất,
hẳn phải là một tín hữu thuần thành, do đó tôi tin rằng bản dịch này không
có gì thiếu sót hoặc sai lầm trong việc chuyển ngữ, và phản ảnh trung thực
những ý tưởng của Ngài nên tôi căn cứ vào đó mà viết thư này.
Điều thứ hai
là những vấn đề mà Ngài nêu ra cho các giáo hữu Kitô toàn thế giới, có ít
hoặc không có liên hệ đến Phật tử chúng tôi thì xin miễn bàn đến. Tôi chỉ
nêu lên một vài điểm ở chương “Đức Phật Thích Ca” từ trang 104 đến trang 109
của bản dịch, nói về Phật giáo. Sau hết, tôi không phải là trí thức hay học
giả, mà chỉ là một người thường dân trung bình, nên tôi không đi vào lý luận
trừu tượng, tối tăm mà chỉ nói đến những sự việc có thực, nhiều người biết,
đã và đang xảy ra tại nước tôi hoặc nơi khác, nhất là những việc tôi đã nhìn
thấy bằng mắt, nghe thấy tận tai đối chiếu với lời nói thành văn của Ngài.
“Trăm nghe
không bằng một thấy” là câu tục ngữ quen thuộc của người Việt chúng tôi.
Cũng như Ngài đã hiểu rõ Cộng sản bằng thực tế xảy ra ở quê hương Ba Lan của
Ngài, tôi cũng hiểu đạo Chúa bằng thực tế xảy ra tại nước tôi. Vậy thì trong
cả hai trường hợp ấy, sách vở đâu có giá trị bằng cái biết trực tiếp, mà
nhiều khi sách vở chỉ là văn chương phù phiếm, hoặc lý luận quanh co để che
dấu những sự thật chẳng tốt đẹp gì.
Thưa Ngài, ở
đầu chương này (trang 105 của bản dịch) Ngài viết rằng:
Giáo lý của
Phật giáo về ơn cứu độ tạo thành tâm điểm hoặc đúng hơn là một điểm duy nhất
trong hệ thống này. Tuy nhiên, cả truyền thống Phật giáo lẫn những phương
pháp khơi nguồn từ đó đưa ra một nền thần học cứu rỗi hầu như độc hữu tiêu
cực.
Nói ngắn gọn
hơn nữa, Ngài khẳng định: “Giáo lý, truyền thống, phương pháp của Phật giáo
đều là tiêu cực cho nên thần học cứu rỗi của Phật giáo đều là tiêu cực”. Nếu
đó là ý kiến của Ngài thì tôi xin nói ngay là Ngài đã sai lầm nghiêm
trọng, nếu không muốn nói là Ngài cố tình xuyên tạc với hậu ý không lương
thiện.
Trước hết, ý
niệm cứu rỗi hàm ý có một vị thần linh toàn năng, toàn triệt, cao cả nhất (tức
là Thượng Đế hoặc Chúa) ban ân huệ cho các tín đồ bằng cách xóa bỏ các tội
lỗi của họ, như ông quan tòa tha tội cho các phạm nhân. Ý niệm ấy không có
trong Phật giáo vì đó chỉ là một ảo tưởng do con người bịa đặt ra để dọa dẫm
và lừa dối nhau mà thôi. Cả mấy ngàn năm qua, chưa có ai thấy Thượng Đế mặt
mũi ra sao, chưa có ai nhìn thấy Thiên Đường ở đâu. Người nhút nhát, sợ hãi
nghe vậy vội vàng lễ lạy ngày đêm, dâng cúng phẩm vật tiền bạc, ruộng đất
nhà cửa, làm giàu cho các tu sĩ và Giáo hội cho nên họ mới có tài sản đồ sộ
hàng trăm, hàng ngàn tỷ, mà Ngài thừa biết, là tài sản của Tòa Thánh
Vatican.
Phật giáo bác
bỏ ý niệm ấy vì nó không có thực, nó phi lý, nó làm ngu tối con người. Phật
tử không bao giờ tin là có một ông hay bà Thượng Đế nào có quyền năng như
vậy cả. Những hành động xấu xa, ác độc, của một cá nhân tạo ra, trở thành
nghiệp quả xấu cho chính cá nhân đó. Muốn tháo gỡ nghiệp quả đó thì chính
bản thân người ấy phải nỗ lực để tự cải thiện, làm điều lành, tránh điều dữ,
tu tỉnh lại và thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, hướng về cái tốt, cái lành
trong đời sống, yêu thương súc vật cho đến cây cối. Có như vậy mới mong giảm
thiểu hoặc chuyển đổi được nghiệp quả đó chứ không có một ông thần, bà thánh
nào can thiệp được cả. Không cần phải lễ lạy đêm ngày, không cần phải cúng
tiền, hiến ruộng, hiến thân cho ông tu sĩ nào hết.
Chỉ với đoạn
văn trên của Ngài, tôi cũng biết là Ngài chưa bao giờ đọc một cách kỹ lưỡng
về Phật giáo, hoặc nếu có thì chỉ coi mấy bản tường trình tóm tắt của các
cận thần phụ tá. Tiện đây xin nói thêm rằng kinh điển Phật giáo rất nhiều,
quá nhiều nữa - không có một tôn giáo nào trên thế giới này có nhiều kinh
điển như Phật giáo, không phải vài ba chục cuốn như Công giáo, Tin Lành, Do
Thái, Hồi Giáo... mà có hàng ngàn bộ kinh, đọc cả đời chưa chắc đã hết.
Ngay cả mấy bộ
kinh quan trọng như kinh A Hàm, kinh Lăng Già, kinh Hoa Nghiêm, kinh Thủ
Lăng Nghiêm... có muốn đọc hết cũng phải hàng chục năm. Mà có đọc chăng nữa,
cũng không chắc gì hiểu nổi, nếu chưa tuần tự tu hành (vừa tu tập vừa
hành động) theo đúng phương pháp để đạt được một trình độ tâm linh
sung mãn. Dù Ngài có muốn đọc đi nữa, thì ở ngôi vị Giáo Hoàng, vừa làm
chính trị toàn cầu, vừa quản trị một Giáo hội lớn như Vatican, làm sao Ngài
có thì giờ, trong khi biết bao vấn đề cấp bách cần phải giải quyết vì Giáo
hội đang trên đà xuống dốc như hiện nay.
Ngoài ra,
những điều Ngài phê bình là tích cực hay tiêu cực, dù có định nghĩa trong tự
điển, cũng chỉ là những khái niệm tương đối và trừu tượng.
Ta không thể
nhìn thấy, không thể nghe thấy, không thể đo lường được những khái niệm ấy,
mà phải cụ thể hóa nó bằng sự việc rõ rệt. Hơn nữa, cùng là một khái niệm
tiêu cực hay tích cực thì mỗi người, mỗi tập thể có thể hiểu một cách khác
nhau, tùy theo trình độ hiểu biết, ước vọng và quyền lợi xa hoặc gần của tập
thể ấy chi phối nhận định của họ.
Như Ngài đã
biết, trong Thế chiến II (1939-1944) khi Hồng quân Liên Xô tràn vào nước
Balan quê hương của Ngài, họ đã giết chết cả ngàn sĩ quan Balan và chôn xác
họ ở rừng Katyn, thì đối với chúng ta, đó là một tội ác man rợ, đáng ghê tởm,
nhưng đối với những người cộng sản Liên Xô và Balan, thì đó là một hành động
tích cực, quyết liệt, để diệt trừ mầm phiến loạn còn trong trứng nước, để
họ yên tâm xây dựng một xã hội Balan mới theo mô hình cộng sản mà họ chủ
trương.
Cũng hệt như
vậy, ở nước tôi, vào những năm đầu của chế độ Đệ I Cộng Hòa, khi ông Tổng
Thống Công Giáo là Ngô Đình Diệm cùng với mấy em là các ông Ngô Đình Nhu và
Ngô Đình Cẩn (đều là Cố vấn chính trị của ông Diệm) chủ trương tiêu diệt
những người Quốc gia chống Cộng hăng say, nhưng không cùng một tôn giáo với
họ, như ông Nguyễn Bảo Toàn (Hòa Hảo) và ông Hồ Hán Sơn (Cao Đài) bằng cách
bắt cóc bí mật, trói chặt họ rồi đút vào bao bố, lấy dao nhọn và lưỡi lê đâm
cho đến khi chết hẳn rồi buộc đá nhấn chìm xuống sông Nhà Bè Saigon (ông
Nguyễn Bảo Toàn) hoặc vứt xuống giếng khô rồi lấp lại (ông Hồ Hán Sơn).
Nhân chứng hãy còn sống đây, sau hơn 30 năm mới dám viết sách ở Hoa Kỳ tố
cáo những việc man rợ này. Các kẻ sát nhân này chắc hẳn nay cũng ở Hoa Kỳ,
vẫn sống ung dung phè phỡn và ngày nào mà chẳng đến nhà thờ cầu nguyện Chúa
cho lên Thiên Đàng. Đối với Phật tử chúng tôi thì đó là một đại trọng
tội, một hành động man rợ, nhưng đối với tập thể Công giáo tôn thờ anh em
ông Diệm và Giáo hội Công giáo thì chắc hẳn họ coi đó là một hành động tích
cực, vì Chúa, vì Giáo hội để mở mang nước Chúa. Bằng chứng là hơn ba chục
năm nay họ ngậm miệng, coi như không có việc gì xảy ra. Còn Phật tử chúng
tôi, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, chúng tôi chưa hề truy lùng bọn
sát nhân đó để bắt đền tội. Thái độ đó lại được coi là tiêu cực sao?
Cũng vẫn chế
độ Công giáo trị của Ngô Đình Cẩn ở miền Trung Việt Nam, đã thủ tiêu và tàn
sát cả chục ngàn người dân, gán cho họ là Cộng sản (theo bảng tổng kết của
Ủy Ban Điều tra tội ác của chế độ Nhu Diệm, sau khi họ bị sụp đổ) thì theo ý
Ngài đó là hành động tích cực chăng? Vì Chúa, vì Giáo hội mà giết người
như vậy thì Tòa Thánh có cho rằng đó là công lao tích cực mở mang nước Chúa
không? Nếu có, thì Tòa Thánh còn đợi gì mà chưa phong Thánh cho mấy anh em
ông Diệm, Nhu, Thục, Cẩn?
Nêu lên mấy sự
kiện lịch sử cận đại của nước Việt Nam, tôi muốn nhấn mạnh rằng việc xác
định thế nào là tích cực hay tiêu cực là một việc hoàn toàn có tính cách chủ
quan, cho nên không thể nào hồ đồ, không nên dùng cách chơi chữ, mượn những
từ ngữ mập mờ đánh lận con đen, lộn sòng thiện và ác để che dấu những việc
xấu xa, tàn ác, man rợ để trốn tránh trách nhiệm hoặc để tự tô vẽ cho mình.
Cách tốt hơn cả là phải đối chiếu lời nói với việc làm, mới tìm ra sự thật.
Điều thứ hai
Ngài viết rằng đạo Phật “đòi hỏi sự đoạn tuyệt với những ràng buộc nối liền
chúng ta với thế giới bên ngoài... để thành thản nhiên trước những gì thuộc
về thế giới đó” và “không đề cập đến Thượng Đế hay Trời Đất (vô thần).” ở
trang 105 của bản dịch.
Đọc đoạn này
tôi thật sự ngạc nhiên thấy Ngài khẳng định những điều về Phật giáo mà chẳng
hiểu gì về giáo lý đạo Phật cả. Tôi sẽ không dài dòng, mà chỉ xin vắn tắt
như sau: Nếu chủ trương của Đức Phật chỉ là đoạn tuyệt với thế giới bên
ngoài, thì sau khi thành đạo, tại sao Đức Phật không ngồi yên ổn ở một đạo
tràng hoặc một khu rừng nào đó, an nhàn thư thả, chứ tại sao lại phải dầm
mưa đội nắng, du phương khất thực, truyền đạo suốt 49 năm trên gần khắp miền
Bắc nước Ấn Độ thời đó, từ làng này qua làng khác, dạy dỗ từng người, từ các
quốc vương tới người hành khất, cả người hạ tiện gánh phân giữa đường, có
khi bị kẻ mưu hại, bị kẻ công kích đả phá và âm mưu ám sát nữa?
Rồi Ngài Bồ Đề
Đạt Ma, vị Tổ thứ nhất của Thiền tông ở Viễn Đông, tại sao lại lặn lội từ Ấn
Độ qua Trung Hoa thời Lương Vũ Đế? Tại sao 13 thế kỷ trước đây, pháp sư
Huyền Trang, một mình mà dám liều mạng lặn lội từ thành Trường An (tây Trung
Hoa) đi bộ suốt hai ba năm trời, vượt qua mười vạn dặm đường, để đi thỉnh
kinh ở Ấn Độ, rồi lại trở về cặm cụi dịch kinh, dạy dỗ tín đồ? Nói như Ngài
“cắt đứt mọi ràng buộc với thế giới bên ngoài” thì hai vị nói trên họ có
khùng hay không mà làm những việc nguy hiểm đến tính mạng như thế?
Ngài nói rằng
Phật giáo không đề cập đến Thượng Đế (Trời và Đất) là vô thần. Tôi yêu cầu
Ngài, vì sự thật, vì sự lương thiện của một vị chủ chiên một tôn giáo lớn mà
hỏi ngay các nhà trí thức, học giả người Âu Châu và Mỹ Châu, hiện nay có cả
ngàn người, hỏi họ coi tại sao họ lại bỏ đạo Công giáo của ông cha họ đã hai
ngàn năm rồi mà đi theo Phật giáo vô thần. Phật giáo không phải vô thần (như
Ngài đã nói về Cộng Sản, mà bây giờ lại dùng cho Phật giáo với dụng tâm đó),
Phật giáo chỉ không tin có cái gọi là Thượng Đế mà đạo Giatô (Công giáo) đã
bày đặt ra và trang trí cả hai ngàn năm nay để làm giàu cho Giáo hội, cho
các tu sĩ cao cấp.
Lịch sử Giáo
hội Công giáo còn là lịch sử của tiền bạc thừa mứa, ăn chơi trác táng của
các Giáo Hoàng, Giáo Chủ, của những âm mưu đen tối tranh giành, cướp phá,
giết hại lẫn nhau. Chúng tôi đã đọc nhiều rồi. Các tài liệu, văn bản đều do
người Giatô viết ra, chứ không có một “tên ngoại đạo” nào biết được mà viết
cả. Ngài muốn biết tôi nói đúng sự thật hay không, xin đọc cuốn Vicars of
Christ - the Dark Side of the Papacy (tạm dịch: Triều Đại Dâm Loạn của
các Giáo Hoàng) do nhà Crown Publishers Inc xuất bản năm 1988, các thư viện
lớn đều có. Tác giả là Tiến sĩ Peter de Rosa, Tổng Giám Mục giáo sư thần học
của chủng viện Westminster và là giáo sư Niên trưởng của môn Thần học tại
Corpus Christi College ở Luân Đôn, tức là một đại trí thức Thiên Chúa giáo
và là thầy dạy cao cấp của các Linh mục, giám mục. Đọc xong, các độc giả trí
thức Công giáo sẽ thấy rõ sự thật về Giáo hội tốt đẹp hay xấu xa như thế nào,
khỏi cần bàn cãi nữa.
Đọc hết 6
trang trong chương nói về Đạo Phật Thích Ca (của bản dịch), sau khi đả phá
Phật giáo (lẽ dĩ nhiên) Ngài đề cao Công giáo bằng những từ nghe rất kêu:
suy niệm thần bí, ngọn lửa nồng nhiệt của Tình yêu, nhận thức về sự dữ, mặc
khải của Chúa Hằng sống, công đoàn của đức tin, đức cậy và đức mến, giải
phóng toàn triệt, bẻ gãy uy quyền của Thần Dữ, duy trì chủ nghĩa hoàn thiện
trần gian, v.v... Tôi dám đánh cuộc rằng số tín đồ Công giáo ở một số vùng
quê nước tôi như Hố Nai, Gia Kiệm, Phát Diệm, Bùi Chu, dù có đọc thì cũng
chẳng hiểu gì. Nhưng đã là lời Đức Thánh Cha thì đương nhiên họ khâm phục và
nhắm mắt mà tin.
Tôi xin tình
nguyện giúp họ thấy một phần của sự thật bằng những kinh nghiệm bản thân tôi
đã trải qua từ lúc còn nhỏ cho đến ngày nay, với tư cách là một nhân chứng
quan sát sự việc có thực xảy ra để đối chiếu với mớ danh từ mơ hồ, ai hiểu
sao cũng được, mà Ngài đã dùng. Sự đối chiếu này chỉ để chứng minh một quy
luật “kinh tế”: cứ nhìn phẩm chất của một sản phẩm thì biết giá trị của “hệ
thống” sản xuất ra nó.
Năm 1930, hai
anh em tôi mới 9, 10 tuổi, theo người chị sang làng Kẻ Sặt (huyện Bình Giang,
tỉnh Hải Dương) chỉ cách làng tôi gần 3 cây số để coi rước lễ. Ở thôn quê
nghèo, đâu có gì giải trí như ở thành phố, nên đâu có đám ma, đám rước là
cũng đi coi. Kẻ Sặt là một làng Công giáo rất đông dân, có chợ Sặt lớn nhất
vùng đó. Trên bến dưới thuyền, có phố chợ, nhiều Hoa kiều ở từ lâu đời. Lúc
đó là mùa hạ (chắc là lễ Phục sinh) chúng tôi ghé một nhà Hoa Kiều quen biết,
lên lầu coi cho đỡ chen chúc. Đám rước đi qua lúc trời đã tối, tôi đang mãi
coi hai hàng mấy trăm bà sơ, mặc toàn đồ trắng rất đẹp mắt, cầm mỗi người
một cây nến, vừa đi vừa cầu kinh. Rồi đến một ông cha Tây, mũi lỏ da trắng
hồng, cũng mặc toàn đồ trắng. Ông cha to béo, bệ vệ, râu rậm và dài chấm
ngực, bốn người lớn đi bốn góc nâng cái phương du (mùng) lụa trắng, có nóc
và bốn mặt riềm thêu hoa trắng. Lại có cả chục đứa bé, cở tuổi tôi, vừa nhảy
múa vừa hát, vừa đập phách chung quanh ông Cha Tây. Tiếng trống tây, kèn tây
vang dội khắp phố. Đang mãi coi thì có tiếng trẻ con la hét và khóc ở hai
bên phố, phía sau - thì ra kiệu Chúa sắp đến, những thanh niên trong ban
trật tự điều hành đám rước (không phải là lính hay cảnh sát, ở các huyện nhỏ
này làm gì có cảnh sát) họ dùng roi đánh những đứa trẻ con (ngoại đạo)
đứng coi hai bên đường, bắt chúng phải quỳ xuống đón kiệu Chúa. Đứa nào
không quỳ, bị đòn, phải quỳ xuống hết, còn những đứa đứng phía sau không
chịu quỳ, chạy vào các nhà bên đường. Những người cũng đứng trên lầu
nhìn xuống như chúng tôi thì họ dùng sào tre dài thọc vào cửa sổ, bắt phải
xuống đường không được nhìn từ trên cao xuống kiệu Chúa. Chị tôi vội vàng
kéo chúng tôi lùi vào phía trong cho họ khỏi thấy. Từ đó chúng tôi không bao
giờ đi coi rước Chúa nữa, nhưng hình ảnh này không bao giờ quên được. Đó là
lần đầu tiên tôi được biết đến đạo Chúa.
Lần thứ Hai,
cách đó hai năm, tôi học ở trường tiểu học huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương,
gần dinh Tri huyện và cũng ở sau lưng Phố Sặt, trọ ở nhà người quen trong
phố. Gặp ngày nghỉ, tôi đi bộ về làng. Ra khỏi làng Sặt, tôi gặp một cố đạo
Tây khác - ông đang ngồi trên một chiếc xe caosu (như xe xích lô nhưng không
có người đạp mà kéo bằng hai càng dài phía trước) chắc ông đi hóng mát vì xe
đi chậm. Có một đứa con trai chắc hơn tôi mấy tuổi vì tôi chỉ đứng bằng vai
nó, đang đứng gần đó. Gặp xe ông cố đạo đi tới, nó giơ hai tay chắp vào nhau
lên cao quá đỉnh đầu, vái xuống sát đất, vừa vái lạy vừa nói: "Muôn lạy Cha
ạ". Điều tôi lấy làm lạ là cách nó vái chào. Chúng tôi chào ông bà, cha
mẹ, thầy giáo hay người già cả thì chỉ chắp tay cúi đầu một chút là đủ. Sao
thằng bé này (dân đạo Chúa) nó lại lạy từ trên trời xuống tận đất như vậy.
Bốn chục năm sau tôi mới hiểu được rằng do các cha cố thực dân dạy dỗ, chúng
chỉ tôn thờ Chúa (thực dân), ngoài ra không còn tuân lệnh ai hết.
Lần thứ Ba
tôi gặp đạo Chúa, cũng lại ở làng Kẻ Sặt. Hôm đó được nghỉ, tôi đi bộ về
làng. Đường từ phố Sặt về làng tôi phải đi qua trước cửa nhà thờ. Chẳng biết
vì sao mà người làng kéo đến rất đông ở sân nhà thờ, ồn ào, lại có tiếng
khóc nữa. Tò mò, tôi đi đến cổng, dưới lầu chuông nhìn vào. Thấy giữa đám
đông là một khoảng trống như sân khấu, người ta dựng cây thập ác trên có
hình nộm Chúa bị đóng đinh, giống y như người thật, có cả máu me nữa. Dưới
chân thập ác là 5, 6 chục các bà đang khóc. Có mấy bà tóc bạc phơ, còn phần
đông ở lớp tuổi mẹ tôi chừng trên dưới 40 tuổi. Khi mấy bà khóc to, tiếng
khóc thật thiểu não, nức nở nghe thương tâm vô cùng. Từ lúc còn nhỏ, tôi đã
được coi mấy đám ma ở làng, con cái khóc bố chết hay mẹ chết, lúc quan tàn
hạ huyệt, không còn bao giờ thấy bố mẹ nữa, cố nhiên là khóc. Nhưng không
có đám ma nào có thể khóc với lòng thương xót, tiếc nuối, đau khổ đến cùng
cực như các bà đi đạo này. Tôi không hiểu được tại sao theo “đạo” lại khóc
một ông Tây hơn cả người ta khóc cha mẹ sinh thành, nuôi dưỡng mình từ khi
trứng nước.
Rồi cũng phải
mấy chục năm sau nữa, tôi mới hiểu được rằng: các cha cố Tây uốn nắn tín đồ
đạo Chúa thành những kẻ cuồng tín, không biết cái gì hơn là Chúa và Giáo
hội, từ đó đến chỗ phản lại Tổ quốc của họ theo thực dân (nước Chúa) chỉ còn
gang tay.
Lần thứ Tư
là
năm 1935 - 1936, tôi học lớp nhì năm thứ nhất (cours moyen première année)
tại trường tiểu học tỉnh lỵ Hưng Yên, trọ học tại phố Hiến cổ, cuối làng Mậu
Dương. Ngày rước thần làng năm đó tôi đi theo coi. Đám rước đi từ đình làng,
sát với phố Hiến, lên đền Thiên Hậu, nằm trên bờ Hồ Bán Nguyệt, nhìn sang tư
dinh của quan Công sứ (Tây) bên kia hồ. Đám rước đi dọc theo bờ hồ, từ dinh
Bố Chánh, đến Vọng Cung (nơi vua sẽ ở khi ra kinh lý) rồi tới dinh Tuần phủ
(tỉnh trưởng người Việt). Vừa tới Vọng Cung thì chiêng trống, thanh la, đàn
sáo im bặt, đám rước thành ra đám người đi chợ, không ai nói một lời nào.
Chẳng hiểu vì sao, tôi chạy lại hỏi mấy người khiêng trống lớn sao không
đánh trống thổi kèn nữa. Người ấy chỉ tay về phía dinh Tuần phủ, bảo: “Quan
Tuần cho lính ra cấm không cho đánh trống thổi kèn đi qua cửa dinh”. Thế là
từ đó về đến Đền Thiên Hậu (chỉ còn độ bốn, năm trăm mét nữa), cả đám
rước hơn bốn trăm người lửng thửng đi như một đàn chó bị cắt đuôi, chẳng ai
nói lời nào, im lặng, nhẫn nhục chịu đựng… Ông Tuần phủ ấy là một người
theo đạo Chúa, tên là Nguyễn Văn Thư mới đổi về ít lâu. Hai năm sau, ông Lê
Đình Trân đổi về thay, tôi có học cùng với hai người con của ông là Lê Hồng
Giang và Lê Duy Kỳ ở lớp nhất (cours supérieur) niên học 1937 - 1938 mà sau
này khi kết bạn với nhạc sĩ Phạm Duy, khi nhạc sĩ làm con nuôi ông bà Lê
Đình Trân (coi hồi ký Phạm Duy).
Lần thứ Năm,
tôi ở Sư đoàn Bộ Binh 23 mới thành lập cuối năm 1958 đóng ở Dục Mỹ, phía bắc
Nha Trang trên con đường từ quận Ninh Hòa (quốc lộ 1) lên Ban Mê Thuột. Lúc
tôi đến, Sư đoàn còn đang xây dựng doanh trại, tiếp sau đó là dựng nhà thờ
và trại gia binh nhưng không làm một cái chùa nào cả. Ngân khoản do Quân nhu
cấp bao nhiêu không ai biết, nhưng binh sĩ phải lên rừng cưa cây, xẻ gỗ làm
kèo cột, lấy lá lợp mái và tre nứa làm vách. Mỗi ngày đại đội tôi phải cử
một tiểu đội (từ 10 đến 12 người) ra làm nhà thờ. Tính ra hơn cả trăm người
mỗi ngày làm không công cho đạo Chúa. Quân số Sư đoàn lúc đó có khoảng 7.000
người mà cả sĩ quan và binh sĩ theo đạo Chúa chưa đầy 250 người với 2 cha
tuyên úy, còn lại toàn là Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo và đạo Ông Bà, nghĩa
là Công giáo chỉ có một nhóm nhỏ xíu, nhưng nắm tất cả quyền hành. Tư
lệnh Sư đoàn là Trung tá Trần Thanh Phong (bà con với Tướng Trần Văn Đôn)
sau lên Thiếu Tướng rồi tử nạn máy bay.
Trong vụ làm
nhà thờ và trại gia binh này không hiểu quý vị Trung đoàn trưởng và các Cha
tuyên úy kiếm được bao nhiêu, chỉ biết các binh sĩ có gia đình phải ký nhận
đã lãnh mỗi người 2000đ (lúc đó mỗi lượng vàng giá 3000đ) để hưởng căn nhà
mà chính tay họ đổ nền, lên rừng lấy cây, lấy lá dựng nhà, lợp mái, nghĩa là
do họ làm ra, nay phải nhận đã lãnh 2000đ để làm nhà mà thật sự chẳng được
đồng nào. Có đến ba bốn chục binh sĩ không ký, dọa dẫm họ cũng không ký.
Sau các quan lớn phải bắt nhân viên phòng kế toán mạo chữ ký của họ nạp hồ
sơ lên Quân Nhu mà không dám làm gì mấy chú lính bướng bỉnh này, e vỡ lỡ câu
chuyện. Mấy kẻ bẩn thỉu trong chuyện này toàn là Công giáo. Ông Thiếu tá
Trung đoàn 1 (tên Võ VC) và Trung đoàn 2 (Nguyễn V Tr.) đều là người Công
giáo, riêng ông Nguyễn V Tr. còn là Bí thư Đảng bộ Cần lao của Sư đoàn, nên
ông Tư lệnh Sư đoàn cũng phải kiêng nể. Mà cái ông Tr. này chỉ là Trung Úy,
được lên Đại úy tạm thời, và khi thành lập sư đoàn thì đeo lon Thiếu tá giả
định (fictif). Đem sĩ quan loại đó, bẩn thỉu như thế mà đòi đánh Cộng sản,
hèn chi chẳng chạy như đàn vịt.
Lần thứ Sáu,
muốn biết người Công giáo nghĩ gì về Quốc gia, dân tộc, xin Ngài và độc giả
nghe câu chuyện này: Đầu năm 1960, tháng 2 tức là Tết Việt Nam, Cộng sản
đánh úp đồn Trảng Sụp ở Tây Ninh, đoạt toàn bộ vũ khí giữa đêm 30 tết mà
chúng không thiệt một người nào. Sau khi binh sĩ nhảy dù càn quét quanh Tây
Ninh chỉ lấy lại được một số rất nhỏ súng đạn Cộng sản bỏ lại khi di chuyển
trong rừng, Trung đoàn tôi được lệnh lên Tây Ninh càn quét tiếp. Suốt từ
cuối tháng 2/1960 đến tháng 5 năm đó, Trung đoàn ra thông báo gởi xuống cho
các đơn vị. Thông báo dài choán hết trang đánh máy nghe vui tai lắm, nhưng
kết quả thu được sau 3 tháng hành quân với một Trung đoàn đầy đủ quân số,
chỉ có 2 khẩu súng lục và 30 bao lúa mà Cộng sản bỏ lại ở một trạm trong
rừng - cho đến hôm đó là ngày lãnh lương cuối tháng, có xe Trung đoàn đến
phát lương - chúng tôi đóng trên một ngọn đồi thấp, sát đường lộ Tây Ninh đi
Kà Tum, ở một nơi gọi là Giếng Thí, cách Tây Ninh chừng 15 hoặc 18 cây (không
còn nhớ rõ) có tất cả 4 anh em hạ sĩ quan cùng ngồi với ông Đại đội trưởng.
Tất cả đều băn
khoăn về tương lai cuộc chiến, nếu cứ ấm ớ thế này mãi, nếu Việt cộng nó
thắng thì mình chạy đi đâu, còn chỗ nào nữa. Dù có nước nào giúp, thì chẳng
lẽ bỏ đất đai, Tổ quốc lại mà chạy sao? Đang nói thì có một ông Trung sĩ ở
Trung đoàn theo xe lương xuống, tên là Thức (hoặc Chức vì tôi không quen)
ghé vào tham gia câu chuyện. Ông này làm y tá và cũng là một người Công giáo
quan trọng trong đảng Cần lao của Sư đoàn, là tai mắt của ông Trung đoàn
trưởng nữa. Ông Thức này phát biểu một câu đáng ghi nhớ để đời. Xin Ngài và
quý độc giả cho phép tôi nhắc lại nguyên văn như sau: “Xin lỗi Trung úy (Đại
đội trưởng) và quý ông, người Công giáo chúng tôi đéo cần Tổ Quốc!”
Bốn anh em
chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, không nói gì. Cả ông Đại đội trưởng của chúng
tôi cũng không dám nói, lẳng lặng đưa mắt nhìn chúng tôi có ý bảo nên giữ
miệng. Rồi ông chăm chú nhìn ông Thức như có ý thắc mắc muốn nghe thêm. Thấy
mọi người im lặng, ông Thức nói tiếp như giải thích: “Tổ quốc là cái gì?
Tổ quốc chỉ là một mảnh đất do Chúa sinh ra. Tất cả đất đai, sông núi, cây
cỏ này, cả vũ trụ này đều là Chúa sinh ra. Nếu mất mảnh đất này Chúa lại
sinh ra chỗ khác cho mà ở, cần gì”.
Đến đây thì
bọn chúng tôi lấy cớ ra xe lãnh lương, đứng dậy, không muốn nán lại, nếu
chẳng may ngứa miệng tranh luận với ông ta thì nguy hiểm. Thời đó, quyền
uy của Công giáo và gia đình Tổng Thống Diệm ghê gớm lắm, nếu kẻ nào dại dột
nói cái gì bị nghi là có ý chống Công giáo thì tàn đời ngay, dại gì mà vuốt
râu hùm. Hôm đó là ngày 30 tháng 8 năm 1959. tôi nhớ được là vì ngày
lãnh lương và đúng một tháng sau đó, tôi thuyên chuyển đi đơn vị khác. Từ
ngày nghe câu nói bất hủ đó đến hôm nay tôi viết thư này, vừa đúng 35 năm 6
tháng và 15 ngày tôi còn nhớ như in.
Tôi rất cám ơn
ông Thức về chuyện này. Nhờ ông nói ra tôi mới hiểu tâm địa thầm kín của
người Công giáo Việt
Nam.
Điều đó giải thích được bao nhiêu là thắc mắc của tôi mà không tìm ra nguyên
nhân. Tại sao Công giáo lại theo Tây cướp nước mình, tại sao họ lại làm
tay sai cho Tây suốt đời Pháp thuộc, tại sao họ lại giết các nhà ái quốc mà
không phải là Cộng sản, và tại sao đàn bà, con gái của họ ngủ chung với các
cha Tây đẻ ra cả lô con lai, mà họ vẫn không hề ngượng ngùng, lại còn hãnh
diện nữa. Con của các cha Tây thì cũng do ý muốn của Chúa chứ sao. Các
Cha đã dạy rằng: một sợi tóc rụng, một giọt mồ hôi chảy ra cũng là do ý
Chúa mà!
Lần Thứ Bảy,
để hiểu về tinh thần đoàn kết của Công giáo ở Mỹ này, các cha cố đang ra sức
mở chiến dịch đoàn kết tôn giáo để chống Cộng. Có mấy nhà sư không
hiểu chính trị là gì và chưa bao giờ hiểu tâm địa thật sự của người Công
giáo, nhất là các cha cố của họ, còn phần đông uất ức vì Cộng sản tàn ác đã
gây ra mối thù bất cộng đái thiên, nên họ thành công được bề mặt, lập được
một vài tổ chức tượng trưng gọi là có, nhưng thực lực chẳng có gì. Đa số vẫn
đứng ngoài, vì đã có kinh nghiệm với Công giáo thế nào rồi. Muốn biết tâm
địa thực sự của Giatô (tức Công giáo) đối với các tôn giáo Đông Phương, nhất
là Phật giáo họ khinh bỉ ra sao, xin vui lòng nghe câu chuyện này:
Năm 1934,
một ngày đẹp trời, một vị cố đạo Tây mũi lõ tóc quăn đi dạo buổi sáng. Gặp
một ngôi chùa ở vùng Hậu Giang (Nam phần Việt Nam), ông sồng sộc đi thẳng
vào chánh điện chùa. Lúc đó chỉ có một ông thầy 60 tuổi và một chú sa di (chú
tiểu) hơn 10 tuổi. Trong chùa có pho tượng Phật lớn nhất thì ông ta biết rồi,
còn hai tượng bồ tát ở hai bên có lẽ ông chưa thấy bao giờ. Chẳng cần chào
hỏi ai cả, ông cầm ba toong chỉ vào một pho tượng hỏi trống không:
- Thằng này
tên gì?
Chú tiểu
vừa tức, vừa sợ không dám lên tiếng, nhưng vị sư già thản nhiên đáp:
- Tên nó là
Văn Thù (Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho Trí huệ siêu việt)
Ông cố đạo
Tây lại chỉ sang pho tượng bên kia:
- Còn thằng
này tên gì?
Vị sư già
cũng vẫn điềm đạm trả lời:
- Tên nó là
Phổ Hiền (Bồ Tát Phổ Hiền tượng trưng cho Từ Bi)
Đến đây ông
có đạo Tây sắp sửa ra về thì vị sư già nói tiếp ngay:
- Ấy, chúng
nó có ba anh em tất cả, nhưng một thằng bỏ chạy đi đâu mất nên chỉ còn hai
đứa này thôi.
Ông Tây cố
dạo quay lại hỏi:
- Thằng
chạy đi ấy tên gì?
Vị sư già
đáp liền:
-
Tên nó là Giêsu.
Vị
sư già ấy chết đã lâu, nhưng chú tiểu hồi đó còn sống, nay là một nhà sư bảy
mươi tuổi. Tôi không nói tên ngôi chùa và địa điểm vì tôi muốn tránh cho vị
sư có thể gặp phiền nhiễu do câu chuyện tôi được nghe. Nếu Đức Thánh Cha
muốn biết tường tận xin cho tôi biết tôi sẽ ghi pháp danh và địa chỉ của vị
sư này (đã sang Mỹ từ hơn mười năm nay và hiện cũng ở California).
Lần thứ Tám, cũng trong chương này, Ngài viết rằng “những
vị Tiến sĩ Hội thánh này không chủ trương tách rời khỏi thế giới...” (trang
106 của bản dịch). Câu ấy đúng quá, tôi thiết nghĩ Ngài khỏi cần nhắc, các
vị chức sắc Hội Thánh, các vị cha xứ ở nước tôi đã làm từ lâu rồi. Chắc chắn
các vị ấy không bao giờ mơ tưởng Niết Bàn hay Thiên Đường đâu mà cứ khư khư
ôm chặt lấy thế giới này đấy. Mà thế giới là gì? Là đất đai, vườn ruộng, nhà
cửa và con người, đàn ông và đàn bà con gái, nhất là tài sản của Giáo hội đã
nắm trong tay. Tôi xin đưa ra một thí dụ rõ rệt xảy ra gần nơi tôi ở và
nhiều người được nghe, được thấy:
Năm 1968 tại Saigon, quân đội Cộng sản tổng công kích (đợt hai)
vào khoảng tháng 5/68. Lúc đó tôi đang ở Đồng Ông Cộ, thuộc Gia Định, gần
Ngã Năm Bình Hòa và đang làm thuê cho hãng Denis Frères ở đường Tự Do
Saigon. Từ gần sáng đã nghe tiếng súng từ Cầu Sơn. Đến khi sáng rõ, thấy
tình hình nguy quá vợ chồng tôi dẫn bảy đứa con chạy khỏi nhà, lếch thếch
dìu dắt mấy đứa nhỏ, theo đoàn người đông đảo chạy loạn, xe cộ, đồ đạc vứt
đầy đường, tính xuống Bàn Cờ ở nhờ nhà quen. Xuống tới chợ Bà Chiểu (Gia
Định), chúng tôi định đi xuống Cầu Sắt vào Sài Gòn, thì gặp ở phía tay trái
ngay bên đường lộ một ngôi nhà thờ lớn và ngọn tháp chuông rất cao (tôi quên
tên nhà thờ đó rồi) nhưng nó chỉ cách chợ Bà Chiểu chừng 400 mét là nhiều
ngay sát đường lộ. Nhìn những chân tường nhà thờ dầy có lẽ tới vài ba mét,
tôi nghĩ nếu có đạn lớn nhỏ bắn từ đâu tới thì cứ núp quanh đây cũng chẳng
hề hấn gì. Còn Cộng sản có bắn súng cối thì tường dày cũng chẳng đổ được.
Thế là chúng tôi theo người ta kéo vào sân nhà thờ mỗi lúc một đông. Ba mặt
nhà thờ lại mới xây trường học ba tầng bao quanh, hình chữ U, như vậy yên
tâm chờ ở đây, nếu yên thì trở về nhà cũng gần, còn nguy lại chạy tiếp lên
Sài Gòn cũng hợp.
Người ta theo nhau vào sân nhà thờ mỗi lúc một đông, cho đến tối
thì sân đầy người, đàn bà con gái già trẻ lớn bé chẳng biết nằm đâu, ngủ
đâu. Có hai người đàn bà bụng to có lẽ gần đến ngày sanh, phải nằm trên đất
vì cửa nhà thờ đóng kín, các lớp học dưới đất và trên lầu đều khóa chặt, mà
chẳng có ai để hỏi han hoặc xin ngụm nước uống. Lần mò vào bên hông nhà thờ
thấy một khoang trống không có cửa, nền xi măng, có lẽ là nơi để xe đạp của
học sinh, nên hơn trăm người chen chúc trong đó có gia đình tôi, giải áo và
mền nằm tạm qua đêm. Trời tối hẳn thì bóng đèn điện duy nhất trên trần nhà
sáng lên, mọi người đang sửa soạn cho con cái ngủ, thì một vị linh mục (áo
chùng đen, cổ áo khoanh trắng bên trong) bước vào cùng với một người chắc là
phụ tá. Ông nói gì không nghe rõ, vì ồn ào quá. Mãi sau, ông vỗ tay la lớn:
“Im lặng nghe đây, im lặng nghe đây” thì tiếng ồn mới hạ xuống dần dần. Ai
nấy đoán rằng ông là cha xứ ở nhà thờ hoặc là hiệu trưởng của ngôi trường
này với gần 5, 6 chục lớp học, chắc ông sẽ lên tiếng an ủi đồng bào gặp nạn
phải bỏ nhà cửa chạy lấy thân, hoặc sẽ nói về sự cần giúp của Giáo Hội, và
kỷ luật, trật tự cần phải có trong lúc này. Nhưng không, ông chỉ nói thế
này: “Im lặng, tôi nói cho mà nghe, ai có cái gì thì giữ lấy mà ăn, ở đây
chúng tôi không có gì cả”.
Thấy mọi người chỉ nhìn mà không ai nói gì cả, ông nói thêm cho
rõ: “Tôi nhắc lại, ai có gì thì giữ lấy mà ăn, ở đây chúng tôi không có gì
cả”, nói xong ông đi ra luôn. Lũ người tị nạn nhìn nhau không ai nói lời
nào. Đáng chú ý là ông Cha này không gọi chúng tôi là anh em, không gọi là
đồng bào mà cũng không gọi là bà con cô bác gì hết, ông chỉ nói trống không.
Tôi đoán là ông thấy đám người chạy loạn này là bọn Phật giáo đáng khinh bỉ
(vì tôi không thấy ai chào ông “Lạy Cha” hay “Muôn lạy Cha ạ” như người Công
giáo thường nói khi gặp các vị chăn chiên).
May sao đêm ấy không có đánh nhau lớn nên ngủ được. Đến khi trời
sáng rõ hẳn, mọi người sửa soạn ra đi. Gia đình tôi ra đến ngoài sân nhà thờ
thì đã thấy bốn chiếc xe vận tải GMC của quân đội chỡ phẩm vật cứu trợ của
Sở Xã Hội Đô Thành đem xuống phát cho dân di tản như chúng tôi. Chắc chắn
100% là các cha đã gọi điện thoại lên Sở Xã Hội từ ngày hôm trước, vì khi xe
vừa tới thì đã có sẵn hơn chục người của nhà thờ ra xe khuân đồ vào như:
mùng, mền, chiếu, gạo, bánh mì, nồi niêu, chén bát, v.v... còn cả ngày hôm
trước chẳng thấy bóng dáng một ai. Những người bỏ đi sớm vì hôm qua cha đã
nói là “ai có gì giữ lấy mà ăn, ở đây chúng tôi không có gì cả” thì còn nán
lại làm gì. Còn lại lúc đó không quá ba chục người, mà cũng chẳng có ai ở
lại lấy cái gì cả. Có một người khoảng 36, 37 tuổi, người miền Nam đứng trên
đống đá, nói thật to: “A ha! hôm nay nhà thờ trúng mối!” Cả bọn chúng
tôi đều cười ồ rồi kéo nhau ra đi, chẳng ai thèm lấy cái gì hết. Nhà thờ
trúng mối lớn quá thật - chẳng phải tốn phí xu nào, chẳng tốn một ngụm nước
máy cho ai uống mà được 4 xe vận tải phẩm vật thì còn gì phát tài bằng.
Kính thưa Đức Thánh Cha,
Trên đây là một việc làm tiêu biểu cho tinh thần bác ái, giúp đỡ
người nghèo, người bị nguy khốn của đạo Chúa của Ngài, của các cha cố và cả
tập thể Công giáo Việt Nam của Ngài đấy.
Câu chuyện thứ Chín, là tinh thần tích cực làm tiền của
các cha cố ngay tại Sài Gòn mà cả nước ai cũng biết. Khi thực dân Pháp chiếm
xong Nam Kỳ (miền Nam nước Việt) thì họ cho một công ty Pháp mở một đồn
điền trồng cao su, chạy dài 14 cây số từ cổng trường bay Tân Sơn Nhất xuống
đến Chợ Lớn. Năm 1954, Pháp bị Cộng sản đánh bại, phải rút khỏi Việt
Nam, họ liền bí mật bán cho nhà Chung, không ai biết bao nhiêu nhưng
chắc chắn là rẻ mạt vì Hiệp định Genève đang tiến hành trước sau cũng mất.
Đất bán cho nhà Chung cứ để y nguyên nên ai cũng tưởng là đất của chánh phủ
lấy lại của Tây. Đến năm 1970, nhà Chung Công giáo chia lô làm nhà ra bán
cho người ta mua làm nhà vì dân số đô thành lúc đó tăng gấp năm lần, nhà bán
chạy như tôm tươi. Mỗi lô bán trung bình hai trăm năm mươi ngàn đồng lúc đó.
Số tiền bán nhà đất thu về sơ sơ cả mấy trăm triệu không biết có gởi về nhà
băng Tòa Thánh hoặc các ngân hàng không?
Chỉ
biết một phần số tiền đó các ngài mở ngân hàng Đại Nam, trước ngày
Cộng sản thống nhất toàn bộ đất nước có lẽ các Ngài biết rõ tình hình sắp
sụp đến nơi nên thu vốn lại, không rõ đem đi đâu vì ngân hàng Đại Nam không
kèn không trống biến mất tiêu trước ngày 30/4/1975. Thế là đất nước Việt
Nam bị kẻ cướp thực dân lấy khai thác chán chê rồi bán cho bạn chí thiết của
kẻ cướp là Giáo hội Công giáo. Chưa ai thấy ơn cứu rỗi của Chúa và Giáo hội
Công Giáo đâu cả, chỉ thấy tài sản đất đai nước tôi chuyển từ tay bọn ăn
cướp ngày là thực dân sang tay bọn cướp đêm là công ty bán vé cứu rỗi của
quý Ngài.
Cũng chuyện đất đai, năm 1925 một nhóm Cách mạng Việt Nam ở
Pháp, trong đó có mấy người nổi tiếng như các ông Nguyễn Thế Truyền và ông
Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh sau này) viết nhiều sách báo tố cáo những
tội ác của thực dân Pháp. Tôi được đọc ngay tại Sài Gòn một cuốn của ông
Nguyễn Ái Quốc (Le Procès De La Colonisation Francaise), vào tháng 2
năm 1955 tại một phòng thông tin của Pháp (lúc đó chưa rút hết) khi lần đầu
tiên tôi đến thành phố này. Phòng thông tin đó nằm trên đường Lê Văn Duyệt
(tên cũ) ở trong tòa nhà lớn gọi là Nhà Kiếng (sau chính phủ Diệm cấp trụ sở
cho Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu (lãnh tụ công giáo) làm
trụ sở). Tôi còn nhớ cuốn sách mỏng độ hơn 100 trang, tố cáo thực dân Pháp
nhiều việc. Tôi chỉ còn nhớ một việc là thực dân Pháp cho Giáo hội Công
giáo 200 ngàn mẫu tây (ha) đất ở tỉnh Vĩnh Long. Trải qua hai triều đại
Công giáo Diệm và Thiệu, số đất đó vẫn được miễn thuế. Tuy chính quyền Diệm
và Thiệu theo lời khuyến cáo của Mỹ có cải cách ruộng đất tất cả 2 lần,
nhưng không ai dám đụng đến số 200 ngàn mẫu ruộng đó của Giáo Hội. Sách xuất
bản giữa Paris, vào thời thịnh đạt của đế quốc Pháp và Paris là trung tâm
chính trị lớn nhất Âu Châu. Nếu họ nói sai sự thật, giáo hội Công giáo có
tinh thần tự trọng phải lên tiếng cải chính rằng đó là chuyện vu cáo, không
có, người ta bịa đặt ra để nói xấu. Sao từ đó đến nay là 70 năm rồi, quý vị
cứ “ngậm miệng ăn tiền” như vậy? Quý vị đã bòn rút được bao nhiêu của cải
của đất nước tôi gần một trăm năm đem về La Mã.
Ngoài số 200 ngàn mẫu đất ruộng này ở Vĩnh Long, Giáo hội còn
đầu tư bao nhiêu vốn vào hàng trăm công ty lớn nhỏ khai thác tài nguyên nước
tôi, chỉ kể ra đây ba công ty thôi:
-
Công
ty trồng cao su Đông Dương (Société des plantations d’hévéas de
l’Indochine).
-
Công
ty Mỏ than Bắc kỳ (Société des charbonnages du Tonkin).
-
Nhà
băng Đông Dương (Banque de l’Indochine).
Còn bao nhiêu công ty khai thác mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, thiếc, kẽm, chì,
wolfram, tungsten, nước suối... và xuất nhập cảng ở khắp nước không kể hết
được. Tòa Thánh và Giáo hội Công giáo Việt Nam đã đầu tư lấy lời bao nhiêu
máu mủ của đất nước tôi đem về La Mã, không ai biết cả.
Chỉ có một người Pháp, viên thanh tra chính trị phủ Toàn quyền, ông
Aurousseau (?), đã viết rằng tài sản của Giáo hội Công giáo ở Việt Nam
(khi cuộc đô hộ Việt Nam vừa mới vững chân) còn lớn hơn là tài sản của Chánh
phủ Đông Pháp (gồm nước Việt-Miên-Lào). Quý vị cứu rỗi được bao nhiêu
linh hồn?
Không ai thấy.
Quý vị đem tiền bạc cướp được đó cứu giúp được những ai đang sống? Không ai
thấy cả.
Còn mấy cái
Viện mồ côi mà chánh phủ thực dân Pháp bỏ tiền ra xây, trợ cấp hàng
tháng hoặc hàng năm, giao cho các cha, các bà sơ trông nom để kiếm thêm tín
đồ vì quá ít người theo đạo. Họ cho số cô nhi này học đạo trước khi học chữ,
thế là vừa được tiếng làm phước lại vừa mở rộng đường đạo. Trong việc truyền
giáo thâu lợi đó quả là tích cực hết chỗ nói, thưa Ngài, nhớ lại thời cổ (thế
kỷ thứ 8), khi người Ả Rập Hồi giáo chiếm được Tây Ban Nha công giáo, bắt cả
triều đình vua quan, hoàng hậu, phi tần và thu hết vàng bạc châu báu, đàn bà
con gái, binh lính và dân phu từ Tây Ban Nha vượt eo biển Gibraltar, và đi
suốt từ Maroc qua Algérie, Tunisie, Ai Cập sang bán đảo Á Rập mất mấy tháng
mới về tận triều đình của họ ở Bagdad (Irag ngày nay). Đoàn người dài cả
trăm cây số, giữa ban ngày cả thiên hạ đều biết là một vụ cướp lớn lao, nhơ
nhớp để tiếng xấu trong lịch sử, ai cũng biết.
Thời đại mới
này, quý vị lãnh đạo Công giáo khôn ngoan, tính toán giỏi hơn họ nhiều. Tài
sản cướp được ở các nước thuộc địa, xuống tàu chở về Âu Châu bán nguyên liệu
sống (như than đá, cao su, quặng kim khí) hoặc chế biến rồi lại xuất cảng
bán cho cả thế giới, làm sao người ta biết nổi khi gởi tiền vào các nhà băng,
chia chác nhau trên giấy tờ, rồi lại chuyển tới các nhà băng giữ, đâu có cái
gì lọt ra cho bên ngoài thấy. Cách chiếm đoạt và phân tán ấy thật là kính
đáo tuyệt hảo, hơn người Ả Rập cả trăm lần. Dân chúng thuộc địa, như các tín
đồ Công giáo của Ngài, là loại dân chỉ biết làm ruộng, đánh cá, làm muối ở
ven biển nước tôi, hầu hết là mù chữ, làm sao mà hiểu nổi, cho nên từ đời
ông cố, ông sơ cho đến cha mẹ họ và họ ngày nay, vẫn tin rằng Giáo hội và
các chức sắc trong Đạo của họ là đạo đức là thánh thiện lắm.
Từ khi các cha
cố đầu tiên đến nước tôi, đã ngoài 400 năm, quý vị và con chiên đã làm được
gì để đóng góp xây dựng đất nước này? Cách đây 50 năm, học giả Đào Duy Anh
viết cuốn sách nổi tiếng Việt Nam Văn Hóa Sử Cương đã phê bình rằng :
Sự đóng góp của người Giatô tức Công giáo vào văn hóa Việt Nam cho đến nay (tức
1940) không có gì đáng kể. Từ đó đến nay, thêm 50 năm nữa cũng chẳng có gì
hơn.
Đời họ từ
trong bụng mẹ ngoài việc đi lễ ở nhà thờ đã nghe cầu kinh từ tờ mờ sáng, từ
đêm khuya, ngắm rồi nguyện tới mỗi đàng. Kết quả là tầm mắt của họ không
nhìn được cái gì cao hơn nóc nhà thờ, không thấy cái gì xa hơn cổng nhà thờ,
không thấy ai trên đời này giỏi bằng ông cha xứ, không tuân lệnh ai ngoài
cha xứ, quanh năm suốt tháng không đọc sách vở nào ngoài cuốn kinh bổn với
những câu như:
²Lạy
Cha chúng tôi ở trên trời, xin tha cho chúng tôi là kẻ có tội²
hoặc là
²xin
cho chúng tôi đồ ăn đủ ngày²
v.v... Tôi hiểu được tâm địa của họ qua những hành động và lời nói của những
người Công giáo mà tôi đã thấy trong thời Pháp thuộc và thời Diệm - Thiệu.
Chuyện thứ
Mười:
Làng Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên (nay gọi là tỉnh Hải Hưng) có đền
thờ Tướng quân Phạm Ngũ Lão, một danh tướng nước tôi đời nhà Trần (thế kỷ
12) có công lớn chống giặc Nguyên, vẫn được các triều đại sau đó phong thần.
Ngôi đền này ở đầu làng Ủng chỉ cách làng Kẻ Sặt (Công giáo) có hơn hai cây
số. Vì mẹ tôi là người làng Ủng và có ít ruộng ở đó, nên năm nào tôi cũng
thường qua chơi và ở luôn nhà ông cậu suốt tháng giêng, đền mở hội hàng năm.
Người ta đổ về hội Ủng lễ bái rất đông không chỉ tháng Giêng mà suốt năm, từ
các tỉnh xa như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Sơn Tây. Cho đến năm tôi 25
tuổi, vì chiến tranh tôi mới rời khỏi vùng này. Suốt mấy chục năm như vậy,
tôi chưa hề thấy một người Công giáo nào ở làng Kẻ Sặt đến coi (chưa nói là
đến lễ bái làm gì), dù họ hàng ngày vẫn đi qua đó mua lúa về bán cho các
tiệm Tàu và thuyền buôn, hoặc xay giã thành gạo bán ở chợ Sặt.
Đường đi vào
làng Ủng sát ngay sân đình, tôi đã để ý nhiều lần, lần nào cũng vậy, họ
không hề ngó vào đình, không hề bước vào sân đình, chứ đừng nói đến vào lễ.
Tôi còn nhớ được tên mấy người làng đó thường qua lại mua lúa của ông cậu
tôi là bà Ba Lẹm, khá giàu, mua lúa có khi cả mấy trăm thùng một lúc (mỗi
thùng 10 kilôgram). Người ít vốn hơn như bà Lệ (gọi theo tên anh con trai là
anh Lệ). Năm 1956, 57, chúng tôi còn gặp anh này ở khu Bàn Cờ Saigon khi anh
từ Hố Nai xuống thăm nhà quen, và còn một người nổi tiếng ở làng Kẻ Sặt là
ông Lý Kiệm, làm lý trưởng làng Kẻ Sặt có lẽ đến hai chục năm liền. Tôi có
biết, thấy và gặp ông này tháng 6 năm 1952, khi một đoàn quân Pháp hành quân,
tiểu đoàn ba thuộc trung đoàn 1 Maroc (1er Régiment des Tirailleurs
Marocains) đóng tại làng Sặt và bộ chỉ huy đóng ngay tại nhà ông ta. Vì quân
Pháp rất tin cậy người Công giáo, nên chẳng đề phòng như khi đến các làng
khác, cả bộ chỉ huy ở đó mà chỉ có một người lính Marốc đứng gác, lúc đó
đang trò chuyện rất vui vẻ với các cô gái làng Sặt bán trái cây và quà bánh
cho họ, còn các sĩ quan Pháp thì đi ăn tiệc với các cha, cho nên có lần đó
năm tù nhân làm phu khuân vác của tiểu đoàn (Prisonniers internés militaires,
viết tắt là PIM), lẩn vào dân đi chợ và trốn luôn, trong đó có một người
làng tôi, anh Nguyễn Văn Mai nay còn sống. Tình quân dân giữa lính Tây Maroc
và dân làng công giáo thật là nồng hậu, thắm thiết, cho nên suốt 9 năm chống
Pháp, quân đội kháng chiến không bao giờ dám đóng ở một làng Công giáo nào
cả.
Chắc hẳn cũng
do dân làng Kẻ Sặt chỉ dẫn, nên đền thờ làng Phù Ủng, thờ vị anh hùng dân
tộc Phạm Ngũ Lão bị pháo binh Tây bắn nát vụn không còn gì, chủ ý là họ phá
ngôi đền chơ vơ ở đầu làng. Còn lính Tây thì họ đâu có biết lịch sử nước
tôi, ông Phạm Ngũ Lão là ai, có công gì với dân Tây đâu. Đến khi hòa bình
trở lại, đền mới được trùng tu, xây nhỏ hơn đền cũ. Ngài có biết ai đứng ra
trùng tu ngôi đền này không? Thưa rằng do chính phủ Cộng sản mà người Công
giáo vẫn chửi bới là vô thần, vô Tổ quốc đó!
Tôi không hiểu
người Công giáo nghĩ thế nào, vì mấy người tôi quen biết trên đây, những khi
họ đến nhà dân chúng tôi mua lúa, gặp khi có kỵ giổ cúng ông bà tổ tiên, mời
họ ăn một miếng họ cũng không ăn, dù họ gánh lúa từ sáng đến xế chiều chưa
kịp ăn gì. Có lần bà Ba Lẹm (đã nói ở trên) đến kiếm ông cậu tôi để nói về
chuyện mua lúa hoặc trả tiền nong gì đó, ông cậâu đang ở ngoài chùa, tôi
phải đưa bà ra chùa. Đến cổng chùa, bà ta nhất định không vào bắt tôi vô gọi
ông cậu ra nói chuyện. Các chùa ở thôn quê rộng rãi như một xóm nhỏ, đâu có
chật hẹp như các chùa ở thành phố. Trước khi đến chùa thờ Phật, còn nhà
khách, nhà kho, nhà bếp, còn chùa ở xa đó, riêng một nơi.
Nhưng đối với người Công giáo, thì bất cứ cái gì liên quan đến chùa, đến Bụt
là ma quỷ, họ sợ phải đi xưng tội với các cha Tây vì đụng chạm hoặc đến gần
ma quỷ. Đã sống trong thời Pháp thuộc, tôi hiểu được ý nghĩ thật sự của
người Công giáo, toàn là những ý nghĩ phản dân tộc. Cho nên ngày nay, thấy
họ hô hào đoàn kết hòa đồng tôn giáo để chống Cộng, tôi chỉ thấy buồn cười!
Thư đã quá dài, tôi xin phép tạm dừng bút. Tôi rất quý trọng Ngài ở điểm kêu
gọi các tín đồ Giatô (nay gọi là Công giáo) hãy thống hối các tội ác hợp tác
với thực dân mà trở thành đám phản quốc. Nếu họ không muốn con cháu họ sau
này đời đời bị người ta coi rẻ, nhìn bằng nửa con mắt thì họ nên thành thật
hối lỗi, đừng dở trò bịp bợm như hiện nay nữa, không ai mắc lừa lâu đâu.
Cuối thư xin
kính chúc Ngài thêm nhiều sức khoẻ, sống lâu để làm việc công ích thật sự
cho nhân loại và nhất là thay đổi được tư duy và hành động của số người Công
giáo cuồng tín ở Việt Nam (là đám Cần lao Nhu-Diệm), kéo họ ra khỏi vũng bùn
lâu đời: phản quốc và phản dân tộc.
Kính thư.
Vũ Trọng Minh
Falls
Church.VA. 4/95
NÓI CHUYỆN VỚI “NỬA PHẦN HỒN” CỦA TÔI
Hoàng Nguyên Nhuận
Đạo làm cho
người gần nhau, người theo đạo làm cho người xa nhau. Đó là cảm nghĩ của tôi
khi đọc xong quyển Crossing The Threshold of Hope (Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy
Vọng) của Giáo Hoàng John Paul II do thư xã Alfred Knopf, Hoa Kỳ, dịch
ra tiếng Anh và Random House, Australia ấn hành năm 94.
Vượt Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng
dù Giáo Hoàng là tác giả, không phải là một Giáo Điệp hay Tông thư có giá
trị như một mệnh lệnh nội bộ tuyệt đối từ một người mà tín lý xác quyết là
không thể sai lầm. Đây là một tác phẩm thần học tung vào đời dưới hình thức
thương mại, và đương nhiên thu hút không chỉ cố gắng hiểu biết, cảm thông,
mà cả ý hướng đối thoại. Tôi ghi lại ý nghĩ của tôi trong ý hướng đó.
Hiện có hai
bản dịch tiếng Việt nhưng cả hai đều thiếu sót khi dịch những đoạn nói về
Cộng sản (Dân Chúa, 4.95). Không biết bản tiếng Việt của Trần Thái
Đỉnh do Info Art, Sydney ấn hành hồi cuối năm ngoái có phải là một trong hai
bản này không? Xin tạm thời dựa vào bản tiếng Anh trong khi chờ đợi một bản
dịch tiếng Việt được chính thức công nhận.
Vượt Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng
dành nhiều đoạn bàn về Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, Khổng giáo, Lão giáo
và Phật giáo. Ba tôn giáo được đặc biệt chú trọng là Hồi giáo, Do Thái giáo
và Phật giáo. Trừ phần dẫn khởi và thư mục, quyển sách dày 236 trang này
dành trọn chương 14 dài 7 trang cho Phật giáo với tựa đề Buddha. Ngoài ra
Phật giáo còn được nói đến trong các trang 42, 43, 80, 81, 82 và 83. So với
các tôn giáo khác, Phật giáo quả đã được chú ý hơi nhiều đúng như lời tác
giả xác nhận là: “... cần thiết phải đặc biệt chú trọng Phật giáo”
(sđd.tr.84).
Chỉ có sóng
sau lấn đẩy sóng trước, không đời nào sóng trước hồi kích sóng sau. Phật
giáo đã đến với đời hơn 500 năm trước khi Kitô giáo thành hình ở Jerusalem
và hòa hợp với dân Việt Nam cả ngàn năm trước khi Vatican nghĩ đến chuyện
xin phép tháp tùng người Bồ Đào Nha đếnViệt Nam để tìm kiếm “hạt tiêu và các
linh hồn” (Phan Phát Hườn - Việt nam Giáo Sử I - Cứu Thế Tùng Thư,
Saigon, tr.25). Phán luận, phê bình, chống đối nhân danh tôn giáo là việc
của người theo đạo chứ không phải chủ trương của các Giáo Chủ. Hậu thế vẫn
dùng lời Giáo chủ để điều hướng hành động và ý nguyện sống đạo của mình.
Nhưng cũng có khi hậu thế phải đi ngược lời Giáo Chủ để duy trì hành động và
ý nguyện đương hành.
Hãy lấy một ví
dụ... “Giáo Hoàng” là cách chuyển Việt của chữ Pope, nguyên nghĩa Hy
lạp là Cha, bởi vậy Giáo Hoàng có khi còn được gọi là Thánh Cha. Các Linh
mục cũng được gọi là Cha. Ở Việt Nam, các Cha cao niên bản xứ được gọi là Cụ,
các Cha ngoại quốc già trẻ đều được đặc cách thang hai bậc thành Cố
thay vì một bậc là Ông Nội. Nhưng Thánh Kinh lại cũng ghi rành rành lời Đức
KiTô nghiêm cấm: “Chớ gọi ai trên trái đất này là cha ngươi, ngươi chỉ có
một Cha trên trời” (Matthew đoạn 23, câu 9). Khi được Vittorio Messori tham
vấn về điều nghịch lý đó, Giáo Hoàng giải thích rằng đó là lời xưng hô
bắt rễ từ truyền thống lâu đời. (Sđd tr.8). Nghĩa là dùng riết rồi quen
dù là nghịch ý đấng Tối Cao.
Vượt Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng
cho rằng, Phật giáo, theo một quan điểm riêng nào đó, cũng như Thiên Chúa
giáo, là một tôn giáo giải thoát. Tuy nhiên, “cần phải nói ngay rằng lý
thuyết giải thoát trong Phật giáo và Thiên Chúa giáo là đối nghịch nhau.” (sđd.
tr. 84-85). Vì Phật giáo là “hoàn toàn tiêu cực” (sđd. tr.85), giác ngộ theo
Phật giáo là “thuần túy tiêu cực” (sđd. tr.87) và Phật giáo đa phần là một
“hệ thống vô thần” (sđd. tr. 86).
Đức tin, theo
Thiên Chúa giáo, là ý nghĩ tối hậu đặt tín hữu giáp mặt với bức tường cao
dày mênh mông, không còn gì để phân vân, khao khát, kén chọn. Đức tin làm
đông đặc không gian, thời gian, suy tư, hy vọng. Tín hữu chỉ còn hai con
đường lựa chọn, hoặc quay lưng lại với bức tường tuyệt đối đó, hoặc đi thụt
lùi. Cho nên không thể hỏi: Tại sao tin như thế? Mà chỉ có thể hỏi: Tin như
thế rồi thì sống thế nào với anh em đồng loại? Lòng tin đó đã giúp ích gì
cho mình, cho đời? Khác với tinh thần nhìn mặt trăng chứ không nhìn ngón tay
chỉ mặt trăng của Phật giáo, khác với tinh thần cả tin vào sách vở thì thà
đừng có sách vở còn hơn của Nho giáo, mỗi chữ mỗi câu của các giáo quyền
Kitô giáo đều là tín lý bất di bất dịch.
Với các đồng
hương Kitô hữu Việt Nam của tôi thì tinh thần này lại còn kiên định hơn nữa
vì “không ai có thể nghi ngờ tấm lòng trung kiên vâng phục quyền giáo huấn
chính thức của các Giáo hội đã ăn sâu vào hàng giáo sĩ Việt Nam” (Nghi Thanh
– Nhìn lại 20 năm Ly hương Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ,
Tivi Tuần San 26-4-95). Nói như thế, giáo quyền Việt Nam chỉ tuân lệnh
Vatican và Kitô hữu Việt nam thì “trước đây 20 năm, không ai nói đến chuyện...
một lối sống đức tin khoáng đạt hơn” cả (Nghi Thanh, sđd). Cho nên tôi phân
vân không biết các đồng bào Kitô hữu của tôi đã nghĩ gì, phản ứng như thế
nào khi đọc những đoạn Giáo Hoàng nói về Phật giáo?
Một tín hữu
Kitô giáo có thẩm quyền là linh mục Nguyễn Hồng Giáo nghĩ rằng: “... trình
bày của Đức Thánh Cha không phải là sai nhưng hình như Ngài chỉ biết đến
giáo lý “nguyên thủy” của Đức Phật, và ngay giáo thuyết này cũng có vẻ như
được cường điệu cho phù hợp với ý định của Ngài. Ý định đó là “muốn biện hộ
cho Kitô giáo để cảnh cáo những Kitô hữu ở phương Tây đang có xu hướng chạy
theo Phật giáo”. Linh mục Nguyễn Hồng Giáo cũng trích lời của Linh mục
Aloysius Pieris, nhà thần học nổi tiếng của
Sri Lanka
cho rằng “Rôma vẫn duy trì cái nhìn bảo thủ của mình xưa nay về các tôn giáo.”
(Công Giáo và Dân Tộc, Xuân Ất Hợi 1995, tr.7).
Vì thấy rằng
những điều Giáo Hoàng nói về Phật giáo chỉ là cường điệu, bảo thủ, tấn công
để phòng thủ chứ “không phải là sai” nên Linh mục Nguyễn Hồng Giáo cũng như
Linh Mục Aloysius Pieris đã không kịp ghi nhận sự khác biệt căn bản giữa hai
khung cửa giải thoát mà Kitô giáo và Phật giáo mở ra cho tín hữu. Khung cửa
hy vọng của Kitô giáo được lắp ráp bằng Bảy Mối Tội Đầu và Mười Điều Răng và
xây trên cái nền tín lý kiên định rằng con người không thể tự mình thực hiện
chân hạnh phúc mà phải trông cậy hoàn toàn vào Tình Thương của Thượng Đế Tạo
Hóa và vào quyền lực của Giáo Hội là cơ chế đại diện Thượng Đế ở trần gian.
Khung cửa giải thoát của Phật giáo được lắp ráp bằng Tham Sân Si và xây trên
cái nền của lòng tự tín tự quyết. Người Kitô hữu phải đi vào ngưỡng cửa của
tín lý mới mong về nước Thiên Đàng. Người Phật tử phải vượt qua Tham-Sân-Si
với quyết tâm tự lực giải thoát mới mong đạt Niết Bàn. Để được cứu rỗi, Kitô
hữu phải lắng nghe tiếng gọi từ ngoài để xông thẳng vào cái CÓ, người Phật
tử phải lắng nghe chính mình để nhảy vào cái KHÔNG. Thấy được điều khác biệt
uyên nguyên đó thì khỏi cần nói chuyện đúng sai, phải trái. Đã là tin thì
chỉ có khác biệt. Đúng sai, phải trái không tùy thuộc nội dung của đức tin
mà tùy thuộc vào việc đem nội dung ấy ra áp dụng vào đời sống của mình và
tương giao giữa mình với cuộc đời.
Linh mục
Nguyễn Hồng Giáo và tờ Công Giáo và Dân Tộc tả khuynh phê phán cái
nhìn bảo thủ của Giáo Hoàng về Phật giáo nhưng không hẳn Linh mục (có thể bị
một số đồng đạo kết án là “quốc doanh thân cộng”) đã thoát được áp lực của
cái nhìn bảo thủ đó khi nói đến “những Kitô hữu ở phương Tây đang có xu
hướng chạy theo Phật giáo”. Không thấy vị linh mục này nói rõ việc chạy
theo Phật giáo này có gì khác việc ai đó chạy theo Pháp, chạy theo Mỹ hay
chạy theo Cộng sản không?
Nếu không nhờ
Pháp, Kitô giáo ở Việt Nam không thể nào thu hoạch được ngót 10 phần trăm
dân số, cũng như không nhờ Hoa Kỳ thì làm thế nào một thế lực chỉ chiếm 10
phần trăm dân số lại có thể chiếm luôn cả hai chức Tổng Thống Đệ Nhất và Đệ
Nhị Cộng Hòa, nắm trọn vận mệnh của một phần đất trong đó 90 phần trăm là
“kẻ ngoại đạo” trong những giai đoạn sinh tử nhất của đất nước: chiến tranh
phát khởi thời Đệ Nhất Cộng Hòa và kết thúc thời Đệ Nhị Cộng Hòa! Chưa kể
trước đó Kitô giáo cũng đã cung cấp những rường cột chống đỡ một triều đình
bù nhìn đổ nát với Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khả và Nam Phương Hoàng Hậu. Nếu
nước có quyền nước, dân có quyền dân thì thực trạng mất quân bình chính trị
đó có thể xảy ra được không? Có phải là tự do dân chủ không? Có bao nhiêu
đồng hương Kitô hữu đã tự hỏi như vậy sau bao nhiêu biến cố đảo điên, nhất
là sau khi Saigon thất thủ 1975 và cuộc đời ăn nhờ ở đậu xứ người kể từ ngày
đó?
* *
*
Bi quan! Tiêu cực! Vô thần!
Sáu
mươi năm là một thời gian dài, lịch sử có thể đi vạn dặm. Nhưng sáu mươi năm
cũng có thể chỉ là chớp mắt nhanh đến độ người ta không thể đi hết một bước.
Thật vậy, hơn sáu mươi năm trước cũng đã có những Kitô hữu nói về Phật giáo
bằng những lời lẽ như “Chính Thích Ca cũng không muốn biết Tạo Hóa” (San
Đình – Vì Chúa, 6.5.38). Và: “Cái lầm to (của Phật giáo) là chỉ nói
chúng sinh mà không nói Tạo Hóa... Phải chi hiểu nghĩa Thiên Chúa thì không
đến đổi sai lầm như vậy” (J.M. Thích – Vì Chúa, 11.6.37): chưa kể
“Ngoài việc niệm kệ, tụng kinh, đúc chuông, tô tượng, (Phật giáo) chẳng có
một sự nghiệp gì để hầu bổ ích cho đời.” (Hương Trai – Vì Chúa,
1.7.38). Đó là những câu Trần Văn Giàu trích dẫn từ một cơ quan truyền bá
Kitô giáo ở Huế hơn nửa thế kỷ trước đây (Trần Văn Giàu. Sự Phát Triển
của Tư Tưởng Việt Nam, tập 2, NXB TP.HCM, 93, tr.386, 387 và 390).
Những người theo Marx như Trần Văn Giàu, lúc bấy giờ, chỉ có cái nhìn của
một viên chức nhìn tôn giáo như thuốc phiện nên không nhận thấy rằng duy vật
biện chứng và duy vật sử quan của Marx chỉ là bản sao bất toàn chủ trương
bám lấy cuộc đời như một giá trị thiêng liêng của Thượng Đế ban cho để làm
khởi điểm giải thoát. Họ có lẽ cũng không nhận thấy rằng về phương thức thực
hiện, lối kết nạp Đảng viên, khốâng chế tinh thần Đảng viên bằng học tập,
bằng tự phê, tự kiểm, bằng khai trừ của Đảng Cộng Sản chỉ là bản sao bất
toàn lối rửa tội, học Đạo bằng Sách Bổn, tín hữu không được đọc
nguyên bản Thánh Kinh cũng như lối xưng tội, kiểm duyệt sách báo,
biện pháp cảnh cáo, dứt phép thông công mà Kitô giáo đã áp dụng cả ngàn năm
trước Lenin.
Bởi
có những điểm tương đồng như thế nên sáu mươi năm trước một nhà lý luận
Mác-xít như Hải Triều đã tố Phật giáo là “đạo của những dân tộc lười, tôn
thờ chủ nghĩa vô vi... chủ nghĩa vô vi là tự sát” (Nguyễn Lang – Việt Nam
Phật giáo Sử Luận, tập 3, Lá Bối, San Jose 87, tr.28) thì hôm nay tác
giả của Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng cũng đã phụ họa nguyên văn rằng
“Phật giáo là hoàn toàn tiêu cực”, “thuần túy tiêu cực”. Cải hai đã không
giải thích tại sao một tôn giáo lười biếng, vô vi, tiêu cực như thế lại có
thể tồn tại được hơn 25 thế kỷ, và tại Việt Nam, lại có thể động viên cả một
dân tộc đứng lên dựng nước và giữ nước từ Ngô, Đinh, Lê, đến những thời đại
huy hoàng Lý, Trần?
Ở
Việt Nam, Cộng sản và Kitô giáo có thể khác nhau như mặt trăng, mặt trời,
nhưng cả hai đều đứng cùng chiến tuyến khi đối diện với Phật giáo. Như Ngô
Đình Diệm năm 1963 và Lê Duẫn năm 75. Cộng nghiệp lịch sử là một gọng kềm
kẹp cứng Phật giáo. Một bên là độc thần, một bên là vô thần; một bên hữu
khuynh cực đoan nhân danh tự do, một bên cực tả nhân danh cách mạng giải
phóng; một bên sẵn sàng hy sinh đất nước cho tín ngưỡng, một bên sẵn sàng hy
sinh dân tộc cho giai cấp. Đó là diễn biến thê thảm của lịch sử Việt Nam từ
ngày chủ quyền quốc gia rơi vào tay Pháp.
Nho
giáo là ý thức hệ trị loạn hữu hiệu đã giúp Nguyễn Gia Long ổn định đất nước
triền miên rối loạn từ Trịnh - Nguyễn phân tranh. Nhưng Nho giáo cũng là cái
cùm giữ chân xã hội không cho tiến tới bằng cách đẩy tầng lớp lãnh đạo vào
vũng lầy nệ cổ, độc thiện, hình thức. Tiếng súng đại bác từ các chiến thuyền
Pháp ngoài khơi vọng vào cho tầng lớp lãnh đạo thức tỉnh thì đã muộn. Việt
Nam trở thành vùng đất hoang màu mỡ cho thực dân khai thác kinh tế và tẩy
não tâm linh. Thế dựa triều đình gãy đổ dưới áp lực ngoại thuộc. Nho giáo bị
chụp cho cái mũ thoái hóa, ngoan cố và phản loạn. Nhà Nho hết lớp này đến
lớp khác thay nhau ra pháp trường hay vào tù cho đến ngày ý thức hệ Nho giáo
hoàn toàn tan rã khi các khoa thi bị bãi bỏ và chữ “quốc ngữ” chính thức
thay thể cả chữ Nho lẫn chữ Nôm của Việt nam.
Kitô
giáo bộc phát trong buổi chợ chiều chính trị đó để rồi chẳng bao lâu nhận ra
rằng Phật giáo mới chính là kẻ thù yên lặng... Mũi dùi chính từng chĩa vào
Nho giáo đã quay lại chĩa vào Phật giáo với ba “tội trọng” là mê tín dị
đoan, tiêu cực và vô thần. Kinh Tin Kính của Kitô giáo ở Việt Nam có
câu: “Cầu cho những kẻ thờ lạy bụt thần ma quỷ, tín mê Hồi giáo”. Đó
là một cách nhận diện đối tượng cho chiến dịch truyền giáo ở vùng thuộc địa
mới này.
Thất
bại của Nguyễn Thái Học đã khai tử luôn khuynh hướng dĩ ngoại trị ngoại ôn
hòa mà các cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là đại diện chính và tạo điều
kiện nảy nở cho phong trào dĩ ngoại trị ngoại cực đoan của những kẻ theo Đệ
Tứ Quốc Tế và Đệ Tam Quốc Tế. Nhưng Đệ Tứ Quốc Tế dần dần đi vào đấu tranh
nghị trường nên ảnh hưởng đã bị giới hạn ở Nam Phần trong vũng lầy dân chủ
hình thức hữu hạn Pháp bày ra để ru ngủ những kẻ cả tin vào giải pháp Pháp -
Việt đề huề.
Đệ
nhị Thế chiến bùng nổ. Sự thảm bại của Pháp ở chính quốc châm ngòi cho tinh
thần chống Pháp ở thuộc địa bùng lên. Nhưng những cuộc đàn áp kềm kẹp liên
miên của Pháp từ sau vụ Yên Bái đã triệt hết các khuynh hướng ôn hòa nên mặc
nhiên nhường vai trò lãnh đạo đấu tranh chính trị cho những người Cộng sản
Đệ Tam dĩ ngoại trị ngoại, cực đoan trên chiến lược nhưng uyển chuyển đa
diện về chiến thuật. Nhật cướp quyền đô hộ của Pháp nhưng vì áp lực hoàn
cảnh Nhật đã hành xử như một thứ chánh quyền bảo hộ nối dài nên chẳng giúp
gì cho khuynh hướng dân tộc phát triển, ngay cả trên căn bản liên minh Đông
Á chống Tây Phương như chính Nhật cổ súy.
Mùa
thu năm 45, Nhật đầu hàng, Pháp chưa kịp trở lại. Cách mạng Việt Nam bùng
lên như một đám cháy trong cách đồng hoang hạn hán chính trị vì không có một
thành phần nào đủ thực lực lãnh đạo toàn dân. Thành phần thượng tầng trí
thức trưởng thành dưới chiếc dù bảo hộ của Pháp đa số chỉ là những cộng tác
viên ngoan ngoãn trong guồng máy thư lại bản địa. Trong khi những người Cộng
sản chớp được thời cơ lãnh đạo kháng Pháp lại vội vàng vớ lấy tư tưởng Mao
và Staline làm giáo điều. Đỉnh cao của hành động “rửa tội” ý thức hệ này là
chiến dịch Chỉnh Huấn và phong trào Cải Cách Ruộng Đất đã băm nát dân tộc ra
làm ba thành phần rõ rệt là phe cực tả giáo điều vô sản chuyên chính, phe
cực hữu cuồng tín “thà chết hơn tam vô” và đại khối dân tộc chỉ muốn ấm no
tự quyết, không thích xanh mà cũng chẳng ham đỏ.
Pháp
thất bại ra đi, nhường cho Mỹ thế chân ở Nam Phần. Vì nhu cầu đối kháng
trong Chiến Tranh Lạnh, Mỹ đã gấp rút và tận tình tái võ trang tinh thần cho
tập đoàn thư lại bản địa bằng ý thực hệ hữu khuynh cực đoan và biến họ thành
những «Dũng Sĩ của Tự Do chống lại Quỷ Đỏ Tam Vô ». Trong khi ở Bắc Phần,
Cộng Sản loay hoay thí nghiệm xã hội chủ nghĩa để một đàng, cướp thời cơ đối
kháng của những thành phần cựu kháng chiến đang bị chiến dịch Tố Cộng cuồng
nhiệt của Ngô Đình Diệm đẩy vào đường cùng và đằng khác, để đáp ứng lời hiệu
triệu của Nga đẩy mạnh phong trào giải phóng dân tộc chống đế quốc toàn thế
giới.
Chiến tranh Việt Nam bị biến thành một cuộc thánh chiến ý thức hệ giữa hai
nhóm thiểu số lãnh đạo cực hữu và cực tả. Đệ Nhất Cộng Hòa của Ngô Đình Diệm
và Đệ Nhị Cộng Hòa của Nguyễn Văn Thiệu là đại diện chân chính của ý thức hệ
hữu khuynh cực đoan. Trong khi giới cộng sản ở Bắc Phần cứ bám cứng Mao và
Staline như những chiếc phao cứu mạng mà không cần biết những chủ nghĩa này
thực sự giúp ích gì cho đất nước và dân tộc. Cuộc kháng chiến chống ngoại
thuộc chính là cơ hội ngàn năm giúp họ khỏi phải trả lời với dân chúng tại
sao phải có sự sùng bái ý thức hệ ngoại lai đó.
Ý
thức hệ hữu khuynh cực đoan đã chết trên đất nước từ ngày 30-4-75. Số sống
sót phải di tản và tàn lụi dần cho đến ngày Mỹ bỏ lệnh cấm vận. Trong khi
đó, người Cộng sản từng ôm riết chủ nghĩa Mao-Staline ngót 30 năm giờ mới
thực sự có cơ hội hăm hở đem ra thí nghiệm toàn triệt. Người dân Nam Phần,
hết là nạn nhân của đám cực hữu, giờ lại trở thành nạn nhân của đám cực tả!
Điều này giải thích tại sao phong trào vượt biên lại lên cao như vậy sau khi
Cộng sản bắt đầu đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Nam Phần.
Cộng sản đã vấp té vỡ mặt trong khi hồ hởi “tiến nhanh, tiến mạnh tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội” và phải ì ạch “đổi mới” để sửa sai...
Phật
giáo đã không chạy theo đám hữu khuynh cực đoan và cũng không thỏa hiệp xu
phụ đám tả khuynh ngông cuồng quá khích. Cũng vì thế Thích Thiện Minh vào tù
của Ngô Đình Diệm năm 63, tù của Nguyễn Văn Thiệu năm 69 và chết trong tù
của Lê Duẫn năm 78. Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ vào tù năm 63 của Đệ
Nhất Cộng Hòa và tiếp tục vào tù sau năm 75 của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa.
* *
*
Đà
phát triển của Kitô giáo thường nghịch biến với đà phát triển chính trị,
kinh tế, xã hội và trí thức. Trong khi ở Tây Phương phồn vinh tiến bộ Thiên
Chúa giáo đang rút lui nhường đất cho Phật giáo phát triển như chính sự lo
ngại của Giáo Hoàng xác nhận (sđd. tr. 85) thì từ năm 78 đến năm 92, Kitô
giáo ở Á Châu khó nghèo, chậm tiến đã tăng từ 58 triệu lên 92.5 triệu. Năm
78 cũng là năm đăng quang của Giáo Hoàng đương nhiệm (Dân Chúa,
4.95). Đây là lý do tại sao trước sau vẫn duy trì cái nhìn “bảo thủ” về đủ
mọi mặt, kể từ chuyện Linh mục lập gia đình, chuyện nữ tu được thụ phong
Linh mục, chuyện hạn chế sinh sản, chuyện Phật giáo và các tôn giáo phương
Đông.
Vì
nhu cầu ổn định nội bộ giáo quyền nên khi lên tiếng, Giáo Hoàng không nhắm
vào giáo dân hay người dân thường còn ngoại đạo mà đích thực là nhắm vào
giáo quyền các cấp, nhắc cho họ biết họ đang đứng ở đâu, phải nghe ai, phải
làm gì. Dù sao đi nữa thì những mệnh lệnh “bảo thủ” này sẽ không tránh cho
Kitô giáo gặp những phản lực trên đường phát triển. Đụng độ lớn có thể xảy
ra ở Á Châu không phải là giữa Kitô giáo với các tôn giáo Đông phương như Ấn
giáo, Hồi giáo, Phật giáo mà là giữa Kitô giáo với Tin Lành, nhất là ở Phi
Luật Tân nơi đang có một Tổng Thống Tin lành nhất quyết đối đầu với những áp
lực Công giáo bảo thủ đã bị mang tiếng là đã quá gần gũi với tập đoàn Marcos
bao nhiêu năm cho đến ngày dân chúng không còn chịu đựng được nữa.
Không ai có thể phủ nhận trách nhiệm lớn lao của đồng bào Kitô hữu trong
cuộc chiến tranh 45 - 75. Điều này giải thích tại sao số đồng hương Kitô hữu
lưu vong đã chiếm 25 phần trăm tổng số người di tản vượt biên - nghĩa là cứ
bốn người tỵ nạn thì có một Kitô hữu, trong khi ở Việt nam tỷ lệ đó chỉ là
10 phần trăm (Tivi Tuần San, 26.4.95). Đa số thành phần lãnh đạo các
tổ chức đoàn thể - cũng như cá nhân, hoạt động sôi nổi ồn ào nhất trong các
cộng đồng Việt Nam lưu vong là các đồng hương Kitô hữu. Chẳng phải chỉ
cay cú thua đậm, chỉ buôn bán hận thù, chỉ ồn ào chạy tội khi có quyền trong
tay mà để “mất nước”, mà còn vì một kế hoạch hai mặt lâu dài nhằm bảo vệ
những gì đang còn giữ được, tranh thủ vị thế độc lập chính trị công khai hợp
pháp, tạo điều kiện chuyển đảo kiểu Ba Lan với tổ chức công đoàn Đoàn
kết do Walesa lãnh đạo mặt nổi. Cũng vì vậy, trong khi hàng giáo phẩm cao
cấp của Vatican vẫn thường xuyên “đối thoại” với chính quyền cộng sản
ở trong nước để cố phục hồi uy quyền của Vatican trong sinh hoạt Kitô giáo ở
Việt nam - qua quyền tấn phong Linh Mục, Giám Mục, Hồng Y và quyền bổ nhiệm
các vị chánh xứ, thì một số tín hữu Kitô người Việt ở hải ngoại lại tảo tần
vận động liên kết đồng hương các tôn giáo khác để chống Cộng một cách ồn
ào náo nhiệt (Dân Việt, 20.4.95). Mục tiêu chính của chiến
dịch hai mặt này là gây áp lực đối ngoại để mặc cả với chính quyền Cộng
sản về việc cấp cho Vatican tái lập quyền uy tối thượng đối với Giáo hội
Kitô Việt Nam hầu cản bước Giáo Hội này biến thành một Giáo Hội độc lập với
Vatican như Kitô giáo Trung Hoa. Giáo Hội Kitô ở Việt Nam cho đến bây giờ
vẫn là Giáo Hội Công Giáo Tại Việt Nam chứ chưa bao giờ được tự nhận
là Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cả.
Các
đồng hương Kitô hữu đang thành tâm đấu tranh cho tự do tôn giáo ở quê nhà có
khi nào nghĩ đến chuyện người Việt đang có đến 234 ngàn giáo dân dưới sự
chăn dắt của khoảng 470 Linh Mục Việt Nam ở Mỹ và Úc Đại Lợi thế nhưng vẫn
chưa hề có được Giám Mục - dù chỉ là Giám Mục phụ tá, chưa hề được một giáo
xứ hay một họ đạo chính thức dù số người xem lễ ngày Chủ Nhật đông gấp trăm
lần giáo dân Mỹ hay Úc nơi địa phương liên hệ. Giáo dân Việt Nam muốn làm lễ
bằng tiếng Việt thì phải bỏ tiền ra thuê nhà thờ. Một đôi giáo xứ đơn phương
mở rộng vòng tay đón nhận các sắc tộc khác tạo nên một không khí sống đạo
“đa văn hóa” như nhà thờ Trái Tim Đức Mẹ ở San Diego thì liền bị các giáo
dân Mỹ chính cống tẩy chay bỏ đi họ đạo khác (Nghi Thanh, sđd). Đâu là tinh
thần giáo hội hoàn vũ đã có lúc được đẩy mạnh đến độ khiến cho một số đồng
hương Kitô hữu nghĩ rằng “Thà mất nước không thà mất Chúa” khi họ được điều
động lên Dinh Gia Long biểu tình chống Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu năm 65 để
mở đường cho Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống?
Đối
với đa số đồng hương Kitô giáo, biến cố 75 rồi tiếp đó là những kinh nghiệm
đắng cay về chuyện đổi đời cũng như sống đạo nơi xứ người cũng là cơ hội
giúp họ nếu không cảm nghiệm sâu xa hơn những chuyện đất nước, dân tộc, đồng
bào thì ít ra cũng cho họ cơ hội đến gần hơn với nếp sống đạo cởi mở, bao
dung, công bằng, vị tha hơn là nếp sống vâng phục Cha xứ, Cha xứ chỉ biết
ngoan ngoãn với Bề Trên, và Bề Trên thì chỉ biết có Giáo đình Vatican và
Giáo Hoàng.
Chung quanh các họ đạo, giáo xứ còn có làng nước, hàng xóm láng giềng. Phần
cao quý của những gì “Công Giáo Tại Việt Nam” gầy dựng được trong 80 năm
ngoại thuộc và 30 năm chiến tranh chắc hẳn vẫn còn : Lòng Kính Chúa Yêu
Người. Đó là điều không ai có thể hủy bỏ được trừ chính người đã được ơn
trên soi sáng để ấp ủ lòng kính yêu đó. Và đó cũng có thể là Ngưỡng Cửa
Hy Vọng của Kitô giáo Việt Nam khi đất nước bước vào thế kỷ 21 vậy.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét