ĐỐI THOẠI VỚI GIÁO HOÀNG :
NIỀM TIN VÀ HY VỌNG
Mật Nghiêm Đặng Nguyên
Phả
Bài nầy đã được đăng trong Tuyển Tập “Đối Thoại Với Giáo Hoàng
Gioan Phaolồ II”
(Giao Điểm, USA - 1995, 2000, 2005) cùng với bài viết của 17 tác giả
khác.
NHÌN VÀO THỰC TRẠNG KITÔ GIÁO
Thế giới
đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã
cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng.
Sự
chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới
triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào
ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần
canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo
Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng
ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba
quyết định lớn:
1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh.
2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công
Đồng Vatican 2).
3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
Những
quyết định này mở đầu cho một loạt cải tổ của Giáo hội La Mã mà đối
với tất cả những nước theo hệ thống giáo quyền này thì đó là bắt đầu
sự chuyển mình. Sau Công Đồng Vatican 2, một luồng gió mới đã thổi
vào hệ thống Thiên Chúa Giáo La Mã, các y phục và nghi thức rườm rà
đã được bỏ bớt, hoặc thay đổi. Các giáo dân Á châu đã được đốt nhang
và cúng vái tổ tiên. Nhiều sự canh tân trong nội bộ giáo hội đã được
thi hành.
Giáo
Hoàng John 23 còn có ý hướng muốn hợp nhất hay là thống nhất tất cả
các giáo hội theo Thiên Chúa giáo trên toàn thế giới, nhưng trong
đời Ngài vẫn chưa thực hiện được, mặc dầu Ngài đã phá lệ lần đầu
tiên tiếp vị Tổng Giám Mục Geoffrey Fisher cai quản giáo tòa
Canterbury, đứng đầu Anh Quốc Giáo vào ngày 20-12-1960, ngoài ra còn
cử đại diện đặc biệt sang Thổ Nhĩ Kỳ và Liên Xô để nói chuyện với
hai vị Thượng phụ đứng đầu Chính Thống giáo của 2 nước này. Chủ
trương “mở vòng tay lớn tìm lại anh em” của Giáo Hoàng John 23 đã
được người kế nhiệm thực hiện, nhưng cũng chỉ là nối lại giao hảo
sau 913 năm đoạn giao giữa giáo hội La Mã và Chính Thống giáo, bằng
sự thăm viếng của Giáo Hoàng Paul VI với vị Thượng Phụ Trưởng giáo
Chính Thống Giáo thế giới Athenagoras I tại Istambul Thổ Nhĩ Kỳ ngày
25-7-1967.
Giáo hoàng Gioan XXIII (1881-1963), tác giả của Công Đồng Vatican 2
và cũng là người chống chiến tranh tại Việt Nam
Sở dĩ
các vị Giáo Hoàng chú ý đến Chính Thống giáo và Anh Quốc giáo là vì
ảnh hưởng chính trị cùng vị trí quốc tế của họ rất quan trọng nếu
đem so với Giáo hội Tin Lành, dù rằng Tin Lành có số tín đồ đông
hơn. Hiện giờ trên thế giới, những tín đồ theo Thiên Chúa giáo gồm
tổng quát có 4 giáo hội như vừa kể trên, mà có thế lực và ảnh hưởng
lớn nhất là Giáo Hội La Mã, vì vậy nên Giáo Hoàng của tòa thánh La
Mã được cả thế giới kính ngưỡng.
Tôi viết
hơi dài dòng về các vị “Chủ chăn La Mã” là để chứng minh 3 vị Giáo
Hoàng gần đây đang chủ trương:
1. Cải
tiến giáo hội,
2. Đoàn
kết nội bộ và
3. Bành
trướng thế lực Thiên Chúa giáo La Mã mà Giáo Hoàng đương nhiệm đang
thi hành một
cách mạnh mẽ.
Bây giờ
chúng ta nhận xét về ba điểm trên đây vì nó có liên quan mật thiết
và là động cơ thúc đẩy cho cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng
ra đời.
1. Trước
hết, tại sao Giáo hội La Mã lại phải cải tiến ?
§
Là vì những tín lý và nghi thức quá cũ không còn hợp thời.
§
Là
vì trình độ tri thức của con người thời đại đã cao nên đòi hỏi những
đáp ứng có tính cách thực tiễn và khoa học hơn là giáo điều.
§ Là
vì Thiên Chúa giáo từ nửa thế kỷ trở lại đây đang phải đối đầu với
sự khủng hoảng niềm tin lớn lao, ngay trong hàng ngũ tín đồ nhất là
ở Âu Châu.
§ Là
vì những tín đồ bỏ Giáo hội sang theo Tin Lành hay bỏ luôn đạo Thiên
Chúa đi theo đạo khác ngày một nhiều.
§ Là
vì các nhà tri thức và khoa học gia đã bỏ Giáo hội La Mã, lại còn
thẳng thắn phê bình những sai lầm của Kinh Thánh là không xác chứng,
còn mang nặng tính chất huyền hoặc.
§ Là
vì một số các luật cấm ấn định trong sách giáo lý từ Công đồng Trent
năm 1530 nay không còn phù hợp. Tháng 11/1992 Đức Cha Jean Honoré
Giám mục địa phận Tours (Pháp quốc) là trưởng uỷ ban tu chính giáo
lý, đã cho ra đời cuốn giáo lý mới 676 trang của Giáo Hội La Mã, sau
6 năm biên soạn, qua sự tham khảo với 3.000 vị giám mục và 24.000 ý
kiến cải tiến.
2. Vì
sao Giáo Hội La Mã lại cần đoàn kết tất cả các tín đồ Thiên Chúa
Giáo theo các hệ phái
ngoài La Mã?
§
Vì ảnh hưởng của Giáo hội La Mã ngày một yếu kém.
§ Vì
muốn tạo một thế lực để chống lại sức bành trướng của Hồi giáo và
Phật giáo.
§ Vì
muốn sửa sai quan niệm độc tôn của La Mã đã kéo dài gần 10 thế kỷ.
Thật ra
thì sự phân hóa của đạo Thiên Chúa giữa hai giáo hội La Mã và Chính
Thống đã manh nha từ sau Công đồng Chalcedon năm 451, giáo hội La Mã
đã bác bỏ giáo điều 28 chứng tỏ quyền hành lấn át Constantinople,
nhưng mãi đến 24-7-1054 hai bên mới đoạn giao thực sự. Nguyên nhân
của việc đoạn giao là vì sự bành trướng quyền lực của Giáo hội La
Mã, với địa vị độc tôn của các Giáo Hoàng, ngoài ra còn những nguyên
nhân sâu xa chồng chất, qua những quyết định tự quyền thay đổi các
tín lý để phục vụ cho quyền lực của La Mã.
Giáo Hội
Chính Thống có giáo tòa tại Constantinople, thuộc Thổ Nhĩ Kỳ kết tội
giáo hội La Mã đã phạm vào giới răn của Chúa trao cho Ô. Maisen ở
trên núi Sinai và đã gây ra 3 trọng tội:
§
Một là dám sửa Thánh kinh Tân Ước (Thánh Kinh mà hiện nay đang dùng
trong các nhà thờ trong
các giáo hội La Mã) để trọn quyền chi phối tín đồ.
§ Hai
là dám sửa ngày sinh nhật của Chúa thành 25 tháng 12 thay vì từ
trước là mồng 6 tháng giêng.
§ Ba
là dám đổi ngày lễ trọng Sabbath từ thứ bảy sang ngày Chủ nhật, trái
với truyền thống cũ.
Sự tranh
chấp giữa hai giáo hội này thật dài dòng và phức tạp, nhưng những
lỗi nặng mà Giáo hội La Mã đã làm, do Giáo hội Chính Thống kể ra
trên đây đều có chứng cứ từ Công đồng Nicaea I, khiến La Mã không
thể chối cải được. Ngày nay cả thế giới và các tín đồ Thiên Chúa đã
đón mừng ngày lễ Giáng sinh 25-12 nhưng chắc phần lớn không biết
rằng ngày này đã được đặt ra vào thế kỷ thứ 4 qua sự thoả thuận của
Vua Constantine nước Ý và sự nhượng bộ của Giáo Hoàng Sylvester I
cùng hai giáo phái thờ “Thần mặt trời” thời đó, vì ngày 25-12 nay là
sinh nhật của Thần mặt trời, cũng coi như ngày Chúa sinh trong tinh
thần hòa đồng tôn giáo. Cho đến hiện nay các tín đồ Chính Thống giáo
vẫn kỷ niệm ngày Sinh Nhật Chúa là ngày 6 tháng 1 mỗi năm.
Còn Tin
Lành thì tách khỏi La Mã từ đầu thế kỷ thứ 16 (1529) do các người
chủ trương là những giáo sĩ Thiên Chúa giáo Martin Luther
(1483-1546) người Đức và John Calvin (1509-1564) người Pháp khởi đầu
phong trào, sau này thành giáo hội Tin Lành. Anh Quốc giáo cũng tách
khỏi La Mã vào cuối thế kỷ 16 (1563) phối hợp Tin Lành với Thiên
Chúa và truyền thống Anh Quốc.
3- Tại
sao Giáo hội La Mã cần bành trướng thế lực?
Không
một ai có thể phủ nhận được thế lực chính trị và ảnh hưởng tôn giáo
của Giáo hội La Mã trong 16 thế kỷ vừa qua đã khuynh đảo thế giới.
Hiện nay ảnh hưởng này cũng đang tồn tại và còn có thể khuynh đảo
một số đường lối chính trị trên thế giới. Ngoài ra còn có thể can
thiệp làm đổi thay một vài thể chế chính trị tại một vài vùng trên
thế giới. Cộng sản khi còn là một đế quốc rộng lớn ở Âu – Á cũng rất
sợ thế lực của Thiên Chúa giáo La Mã. Ngày nay mấy nước cộng sản còn
lại trên danh nghĩa như Trung Hoa và Việt Nam… cũng vẫn ngại ngùng
Thiên Chúa giáo La Mã. Người ta còn thì thầm về sự sụp đổ của khối
Cộng sản Đông Âu là có bàn tay của Giáo Hội La Mã hay nói khác đi là
của Giáo Hoàng đương nhiệm John Paul II.
Trên
thực tế, nếu nhìn bề ngoài thì Giáo hội La Mã rất là vững vàng và
thế lực rất lớn lao, nhưng nếu tìm hiểu và nghiên cứu một cách sâu
xa, thì mới thấy được Giáo Hội này đang phải đương đầu với một sự
khủng hoảng niềm tin lớn lao và có nguy cơ đi đến băng hoại tinh
thần, ảnh hưởng đến sự mất còn của Giáo hội, vào những thế kỷ sắp
tới. Điều này đã được chứng minh cụ thể qua sự giảm sút tín đồ theo
Thiên Chúa giáo La Mã ở Âu Châu với 40% bỏ đạo và hầu như 80 đến 90%
giới trẻ không bao giờ bước chân vào ngưỡng cửa của giáo đường, hay
nói khác đi là họ không đi nhà thờ xem lễ. Ngay tại giáo phận San
Francisco trong năm 1993 cũng đã được phép Tòa Thánh đóng cửa một số
nhà thờ vì không có tín đồ. Đây là một sự thật mà các tín hữu Thiên
Chúa giáo đều biết và can đảm nhìn nhận. Vấn đề là tìm hiểu nguyên
nhân mà sự kiện này đã xảy ra, để mà tìm thuốc chữa chứ không phải
chối bỏ và che dấu sự thật.
THẮC MẮC ĐẶT THÀNH
CÂU HỎI
Cũng
trong tinh thần khủng hoảng niềm tin này mà cuốn sách Bước Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng ra đời. Tất cả những câu hỏi trong đó đều
mang những ưu tư thật sự của giới trẻ thời đại và bao trùm lên tất
cả 35 câu hỏi đều nói ra “sự khủng hoảng niềm tin”. Giới trẻ ngày
nay ở Âu Châu vốn là thành trì của Giáo hội La Mã, đã không còn tin
ở Giáo Hội, không còn tin ở Giáo Hoàng và hàng giáo phẩm, không còn
tin ở Thiên Chúa, ở Chúa Giêsu Kitô và ở Thánh Kinh nữa.
Giáo hoàng Gioan Phaolồ II (1920-2005),
người đã xung thú 7 Núi tội lỗi của Giáo hội Công giáo La Mã
Mặc dầu
Giáo Hoàng đã trả lời những câu hỏi của nhà báo Ý Vittorio Messori
rất khéo, bằng cách đem Phúc Âm của các Thánh, hoặc dùng triết học
và Thần học để giải đáp, nhưng cũng có vài chỗ Ngài dùng tuyệt chiêu
lái hẳn câu hỏi đồng thời dẫn dụ người đọc qua Phúc âm, thay vì đáp
thẳng vấn đề. Tất cả những câu trả lời của Đức Giáo Hoàng đều được
giải đáp qua đức tin, qua tín lý, qua Phúc âm là cái mà hiện thực
đang bị lung lay vào lúc này, vào thời đại này!
Hai tác
nhân quan trọng đã làm lung lay Đức tin của các tín hữu Kitô trong
suốt thế kỷ vừa qua là:
1. Khoa
học thực nghiệm, khoa học tự nhiên, khoa nhân chủng học và thiên văn
học đã chứng minh những lời nói trong Thánh Kinh là không đúng sự
thật.
2. Ảnh
hưởng của các triết thuyết đã bác bỏ rất nhiều những điều từ trước
đến giờ vẫn được coi như chân lý trong Kinh Thánh. Chính chủ thuyết
Cộng sản “Marxism” trong thời gian bành trướng và tồn tại mấy chục
năm đã đánh một đòn mạnh thẳng vào thành trì Thiên chúa giáo.
Nếu Giáo
Hoàng trả lời những câu hỏi bằng sự mặc khải của Ngài, qua sự hiệp
thông với Thiên Chúa, thì không còn gì để nói cả, vì lời Ngài nói ra
chính là lời của Đấng Tạo dựng. Nhưng, nếu Ngài trả lời bằng tri
thức con người, bằng tín lý, được đặt ra qua tư duy, thì Ngài vẫn
không giải quyết được vấn đề khủng hoảng niềm tin của thế hệ ngày
nay.
Hai điều
kẹt lớn khiến cho Giáo Hoàng khi trả lời những vấn đề được đặt ra
là, Giáo Hội đã khẳng định:
- Những
điều nói trong Thánh Kinh đều là đúng và
- Giáo
Hoàng không bao giờ sai lầm.
Nếu đặt
2 điều trên thành các “điều tiên quyết” thì đã không có 35 câu hỏi
và cuốn Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Vì thời đại ngày nay
không còn là thời Trung Cổ của Châu Âu, buộc người ta chỉ được phép
tin những gì do Kinh Thánh nói, không được nghi ngờ, không được nghĩ
khác và cũng không được phép hỏi, dù là hỏi để mà củng cố thêm niềm
tin.
* * *
Bây giờ
tôi xin đi vào cuốn sách. Thật ra thì qua 35 câu hỏi, câu nào cũng
đáng cho người đọc, được phép góp ý, trình bày quan điểm khách quan
và xây dựng của mình, nhưng phạm vi bài này chỉ đề cập riêng phần
nhận định về Phật giáo của Giáo Hoàng mà thôi, do đó tôi xin chỉ bàn
quanh một vấn đề này.
PHẬT GIÁO ĐƯỢC ĐỀ
CẬP
Trong
toàn bộ cuốn sách có tất cả ba đoạn Giáo Hoàng đề cập đến Phật giáo.
§
Một là trong câu trả lời thứ 7 về “Chúa Giêsu có phải là con Thiên
Chúa không?” Trang 66 bản dịch tiếng Việt (trang 43 bản dịch tiếng
Anh) Ngài so sánh Chúa Giêsu với Phật khi viết rằng: “Ngài
cũng chẳng giống Phật, với sự chối bỏ tất cả những gì tạo dựng. Phật
Thích Ca đúng khi không nhìn thấy khả năng cứu rỗi con người qua
việc tạo dựng, nhưng lầm khi, vì lý do này, Đức Phật chối bỏ cả việc
tạo dựng có bất cứ giá trị nào cho nhân loại”.
§
Hai là trong câu trả lời “Vì sao có quá nhiều tôn giáo” Trang 100
trong bản dịch tiếng Việt (trang 80 trong bản dịch tiếng Anh), Ngài
đã dẫn Điều 2 trong thông điệp NOSTRA AETATE: “Phật giáo
theo nhiều tông phái khác nhau, lại nhìn nhận sự thiếu sót căn bản
của cuộc đời thay đổi này và vạch ra con đường cho những người thành
tâm tin cậy, hoặc đạt đến chỗ giải thoát trọn vẹn hay giác ngộ hoàn
toàn, bằng những cố gắng của riêng mình hoặc bằng sự trợ lực của ơn
trên”.
§
Ba là câu trả lời thứ 14 nói về Đức Phật, từ trang 104 đến 109 bảng
dịch tiếng Việt và trang 84 đến 90 trong bản dịch tiếng Anh. Thật ra
thì bản dịch tiếng Việt so với bản dịch tiếng Anh có vài chỗ không
sát, vì người dịch tiếng Việt đã đem kiến thức của mình để giải
thích rõ hơn ý tác giả nhưng làm thế thì không trung thực với nguyên
văn. Thí dụ như trang 105 dòng 10 chữ “bad” trong bản tiếng Anh được
dịch là “Tham – sân – si”, và cũng trang này dòng 23 Giáo Hoàng
viết: “Phật giáo theo sự cân nhắc rộng rải thì là một “hệ thống vô
thần”. Bản dịch tiếng Anh là “Atheistic system” trong khi tiếng Việt
người dịch đã nói rộng ra là: “hệ thống không đề cập đến Thượng đế
hay Trời Đất (vô thần)”, là ý người dịch muốn giải nghĩa chữ “vô
thần” theo nhận định của người Thiên Chúa giáo. Như vậy cũng tốt
nhưng không nên thêm vào ý tác giả.
Trong cả
phần nói về Phật giáo, chỉ có đoạn quan trọng nhất nằm ở trang 105
bản dịch tiếng Việt. Tôi không chép lại đây vì tương đối hơi dài, mà
tôi chỉ chép lại từng đoạn mỗi khi trình bày ý kiến của mình.
Bây giờ
tôi xin trở lại vấn đề.
VÀI LỜI MINH XÁC
CỦA NGƯỜI VIẾT
Trước
khi trình bày ý kiến, tôi xin minh xác một vài điểm:
Một
là: Những lời tôi viết ra đây đều hết sức khách quan, nhằm tinh
thần xây dựng, chứ không có tính cách đả phá. Hơn nữa, tôi luôn luôn
áp dụng lời nói của Chúa Giêsu trong “Bài giảng trên núi” là: “Anh
em chớ đoán xét để khỏi bị đoán xét và… Anh em đong đấu nào thì sẽ
được đong lại bằng đấu đó” (Matthew 7:1-2).
Hai
là: Giáo lý của Phật rộng như biển, những điều Chúa Giêsu dạy
trong Phúc Âm thì nhiều như rừng, với kiến thức nhỏ bé của tôi đâu
dám lạm bàn, hơn nữa sự hiểu biết của tôi rất là giới hạn, nên những
ý kiến trình bày chỉ là ý kiến cá nhân, không thể nào tránh khỏi sơ
sót, chỉ mong lấy sự chân thật để đền bù lại những điều chưa được
trọn vẹn.
Ba
là: Tôi không muốn bị chụp mũ là “Một Phật tử cuồng tín” hoặc
“Một kẻ chống đối KiTô giáo” hay “Một tên Cộng sản phá hoại” vì cả
ba mũ đó tôi đội không vừa. Đức Phật dạy rằng: “Nếu ai đem cho con
cái gì mà con không nhận thì nó vẫn là của người ấy!” Tôi chỉ muốn
những vị độc giả đọc bài viết này xin hãy tiếp thu với một tinh thần
rộng rãi, tha thứ và can đảm nhìn nhận sự thật, nhưng sự thật tôi
viết ra nếu có bị nghĩ là những sự thật xúc phạm đến người đọc dù là
Phật giáo hay Thiên Chúa giáo, thì sự thật vẫn ngàn đời vẫn là sự
thật.
Bốn
là: Tôi sẽ cố gắng đứng ở một vị trí khách quan mà nhìn nhận và
góp ý. Khi phân tích thì tôi bàn riêng từng phần nói về Phật giáo,
nhưng khi nhận định thì tôi trả nó về với vị trí của nó trong toàn
bộ cuốn sách, như thế cái mạch lạc không bị mất đi và những sai lầm
hay chủ quan của sự phê phán trong cuốn sách đối với Phật giáo có
thể khoan nhượng được.
Năm
là: Tôi luôn luôn chủ trương hòa nhã và đoàn kết giữa các tôn giáo,
để xây dựng đất nước và con người, chống lại những tinh thần cực
đoan, độc tôn cho rằng Đạo mình là “chính” còn Đạo khác là “tà”. Tôi
quan niệm Đạo nào cũng khuyên người ta làm lành lánh dữ, là ngọn
đuốc soi đường, là ngón tay chỉ hướng cho chúng ta đi đến đích chân
lý, đem lại sự an vui tâm hồn cho con người. Phật hay Chúa đều là
các vị giáo chủ, đã mang chân lý đến cho mọi người, nên đều đáng tôn
trọng, không nên phân biệt Phật cao hơn hay Chúa lớn hơn. Ai hơn ai
là do đức tin của mỗi người, cứ việc tự do đặt để, nhưng điều quan
trọng là không nên bắt người khác cũng phải đồng ý theo quan niệm
của mình.
ĐI VÀO GÓP Ý TỪNG
PHẦN
Trước
khi phân tách những lời nhận xét về Phật giáo của Giáo Hoàng, tôi
xin xác định vị trí và tinh thần cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng
theo nhận xét chủ quan của tôi:
1- Cuốn
này được viết ra trong bối cảnh lịch sử hết sức quan trọng, sau thời
kỳ chiến tranh nóng và lạnh, và sau khi Cộng sản sụp đổ. Tinh thần
của người tín hữu Kitô Âu Châu đang ở vào tình huống khủng hoảng
niềm tin cao độ, và Giáo hội La Mã có nguy cơ phá sản, khi tín đồ
ngày một sút giảm, bỏ đạo, lớp người trung niên thì ra đi, còn lớp
trẻ thì không bao giờ bước chân đến cửa nhà thờ. Điều này là một sự
thật, mà những ai trung thực đều phải công nhận, không thể viện dẫn
một lý do nào để bào chữa hoặc che đậy. Nó đã được xác chứng ở ngay
trong cuốn sách này qua câu hỏi thứ 24 (trang 166 bản dịch tiếng
Việt) dòng 7: “… nếu nhìn kỹ vào những năm tháng ngay sau
Công đồng Vitican II, thì những cánh cửa Công đồng khai mở lại để
cho những người “ở trong” đi ra nhiều hơn những người “ở ngoài” đi
vào. Nhiều người không ngần ngại lo lắng cho thực trạng Giáo hội,
cho rằng sự đồng nhất của Đức Tin và quyền bính không còn vững mạnh
như xưa…” chứng tỏ rằng những người bỏ đạo ngày một đông, sau
Công đồng Vatican 2, và sự khủng hoảng niềm tin mà tôi nói là có
thật.
2- Cuốn
này viết cho đối tượng là các tín đồ Thiên Chúa giáo La Mã, và đứng
trên lập trường “Kitô La Mã” để nhìn nhận và phê phán các đạo khác,
trong vị trí chủ quan của “Người Chủ Chăn” là Giáo Hoàng, người được
tin là hiệp thông với Thiên Chúa, tiếp nối công việc của Chúa Con và
là theo sự thể hiện của Chúa Thánh Thần, nên không bao giờ nhầm lẫn,
vì rằng tiếng nói của Ngài là tiếng của Thiên Chúa!
Nếu
chúng ta nhận định cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng theo tinh
thần là những lời giáo huấn, là không sai lầm thì đâu còn để nói
nữa! Điều rất may là chúng ta đang sống trong một thế giới có tự do
về ngôn luận và tư duy, nên chúng ta có quyền phát biểu ý kiến trong
tinh thần xây dựng để làm sáng tỏ vấn đề.
PHẦN
I : ĐỨC PHẬT CÓ CHỐI BỎ TẠO DỰNG KHÔNG ?
Bây giờ,
tôi xin trình bày những ý kiến thô thiển của mình qua những nhận xét
về Phật giáo của Giáo Hoàng John Paul II. Ngài nói: “Chúa Giêsu
không giống Phật Thích Ca, với sự chối bỏ cả việc tạo dựng. Phật
Thích Ca đúng khi không nhìn thấy khả năng cứu rỗi con người qua
việc tạo dựng, nhưng lầm khi, vì lý do này, Đức Phật chối bỏ cả việc
tạo dựng có bất cứ giá trị nào cho nhân loại”.
Đọc xong
câu này tôi thấy Giáo Hoàng đúng khi Ngài đứng về lập trường Công
giáo và ở vị trí Chủ chăn nói với con chiên của Ngài, nhưng Ngài sai
ở chỗ nhìn Phật giáo qua lăng kính Thần học Thiên Chúa giáo.
Câu này
hoàn toàn nói về tín lý gồm có 3 phần, dẫn 3 ý như sau:
1. Đức
Phật chối bỏ tất cả những gì được tạo dựng.
2. Đức
Phật không nhìn thấy khả năng cứu rỗi con người qua việc tạo dựng.
3. Đức
Phật chối bỏ cả việc tạo dựng có bất cứ giá trị nào cho nhân loại.
Trước
khi nhận xét từng phần của câu trên, tôi xin phê bình cách dùng chữ
trong câu này. Giáo Hoàng dùng chữ “chối bỏ” tôi thấy không được
chỉnh và đầy tính chủ quan. Khi người ta dùng chữ “chối bỏ” là để
chỉ một điều gì có thật, là đúng, nhưng đối phương vì một lý do nào
đã gian trá nói là không đúng, như Thánh Phê-rô chối Chúa chẳn hạn.
Nếu thật khách quan thì Ngài phải viết là “Đức Phật không công
nhận” mới đúng. Khi nói “không công nhận” có nghĩa đối với người
đó thấy điều này là không đúng, không thật theo quan điểm nhận xét
của người ấy. Khi nói về một vị Giáo chủ của một tôn giáo bạn mà
Giáo Hoàng dùng chữ như thế có hơi quá chăng! Theo tôi, đây là
nguyên nhân chính mà chư tăng Sri Lanka cho là Giáo Hoàng xúc phạm.
Bây giờ,
tôi xin bắt đầu nhận xét từng phần của câu nói trên. Vào phần thứ
nhất nói là: “Đức Phật chối bỏ tất cả những gì đã tạo dựng”. Muốn
cho sáng tỏ việc nhận xét về câu nói này thì tôi xin bổ túc thêm hai
điểm: - Do ai tạo dựng? và - Tạo dựng để làm gì? để phân
biệt rõ quan điểm khác nhau giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo.
Tôi cũng
xin thưa rằng, Đức Phật không hề và chưa bao giờ “chối bỏ những gì
đã tạo dựng” mà trái lại Ngài luôn luôn công nhận một cách rộng rãi
và xác quyết trong toàn bộ kinh điển của Ngài bằng hai chữ “chúng
sinh” và “thế giới”.
-
Chúng sinh: là để chỉ muôn loài vạn vật hiện hữu trên thế gian
này, kể cả các loài nhỏ nhất cho đến lớn nhất, chỉ cả muôn loài nói
chung, không chỉ riêng nói loài người, mà cũng không phân thực vật,
động vật. Tóm lại là tất cả những gì thực hữu trên thế gian này, có
thể con người thấy được, có khi không thấy. Điển hình là ở vào thời
đại trước cả Chúa Giêsu hơn 500 năm và trước thời đại khoa học bắt
đầu khoảng 2000 năm mà Đức Phật đã dạy các đệ tử là: “Các ông uống
một ly nước, các ông có biết rằng các ông đã sát hại nhiều chúng
sinh trong đó không?”.
-
Thế giới: để chỉ hằng hà sa số thế giới nghĩa là để nói đến rất
nhiều thế giới ở ngoài địa cầu của chúng ta, khác với đạo Thiên Chúa
là chỉ có Nhân loại, Nước Trời và Địa Ngục.
Sự khác
biệt giữa Kitô giáo và Phật giáo đối với “Những gì được tạo dựng”
nằm trong hai quan điểm sau đây:
1- Đức
Phật không thừa nhận “những gì được tạo dựng” là do “ MỘT ĐẤNG THIÊN
CHÚA hay THƯỢNG ĐẾ TOÀN NĂNG” sinh ra mà Đức Phật thấy rằng những
tạo dựng đó là do “NHÂN DUYÊN” – Tức Nhân quả và Duyên nghiệp – bởi
TÂM chúng sanh tạo thành, trong một quan hệ tương liên “cái này có
nên cái kia có”.
2- Đạo
Phật khác với KiTô giáo ở chỗ không nhận những tạo dựng là “DO Ý
CHÚA” mà là do “SỰ TIẾN HÓA của VŨ TRỤ và VẠN VẬT” – Trong đó có CON
NGƯỜI –về phương diện tâm linh trong tương quan chuyển hóa của tất
cả chúng sinh tức muôn loài, vạn vật, về cả hai phương diện vật chất
và tinh thần.
Do đó,
khi Giáo Hoàng viết: “Đức Phật đúng khi không nhìn thấy khả năng
cứu rỗi con người qua việc tạo dựng, nhưng lầm khi, vì lý do này,
chối bỏ việc tạo dựng có bất cứ giá trị nào cho nhân loại” là
Giáo Hoàng đã đứng trên quan điểm của Thiên Chúa Giáo mà phê phán
Đức Phật. Như thế không thể nào tránh khỏi chủ quan và thiên lệch,
hơn nữa lại có tính cách áp đặt tín lý của mình lên Vị Đạo Sư của
một Tôn Giáo bạn. Ngoài ra, Giáo Hoàng cũng đã quên đi lời của chính
Ngài viết trong đoạn đầu của câu trả lời thứ 14 rằng: “Tuy nhiên,
cần phải nói ngay rằng, tín lý cứu độ của Phật giáo và Kitô giáo
trái ngược nhau”.
Theo
Thiên Chúa giáo, việc cứu rỗi của Thiên Chúa chỉ dành cho con người.
Thiên Chúa đã tạo ra con người, rồi vì con người tội lỗi, nhất là
tội Tổ Tông do ông Adam và bà Eva lỡ ăn phải trái cấm, nên Thiên
Chúa phải cứu rỗi. Ngài lại thương loài người đến độ cho CON MỘT của
Ngài là Đức Chúa Giêsu KiTô xuống thế chịu chết đóng đinh để chuộc
tội cho nhân loại.
Phật
giáo thì cứu độ dành cho tất cả chúng sinh nghĩa là mọi loài chứ
không riêng với loài người. Đối với loài người, Phật giáo không tin
là vốn có tội lỗi, mà vì con người bị mê muội nên “bản chất Thiện”
bị che lấp, lại do tham lam – sân hận – si mê và dục vọng sai khiến
nên đã bị lầm lạc, rồi tự mình gây nên đau khổ cho chính mình và cho
chúng sinh. Do đó muốn cứu độ thì phải khởi đầu ngay từ bản thân,
với nhận định rằng: “Mỗi người mỗi sửa thì gia đình và xã hội sẽ
thay đổi”, cho nên hướng đi của Phật giáo là “tự cứu” chứ không
trông cậy ở một Thượng đế hay thần linh nào.
Bây giờ,
giả sử như chúng tôi đồng ý với quan niệm về “Đức Tin” của Thiên
Chúa giáo là:
- Thiên
Chúa là Đấng tạo dựng ra tất cả.
- Thiên
Chúa là Đấng duy nhất có khả năng cứu rỗi nhân loại qua CON NGÀI là
Giêsu KiTô mà “khả năng cứu rỗi nhân loại” của Đấng tạo dựng chỉ
được mặc khải cho con người khi Chúa Giêsu Kitô xuống thế.
Vậy thì
trên 500 năm trước, khi Phật Thích Ca do Cha Mẹ Ngài sinh ra - không
biết có theo ý Thiên Chúa không - thì chưa có Đạo KiTô, vì lúc đó
Thiên Chúa chưa có ý định cho CON NGÀI xuống thế. Vậy thì vấn đề Đức
Phật vào thời đó “không nhìn ra hay chưa nhìn thấy” khả năng cứu rỗi
của Thiên Chúa là đúng thôi!
Nhưng,
theo Trí Tuệ của Phật giáo, thì chỉ tin vào Chân lý tức là “Sự
thật”, tin vào những gì có thể chứng minh được, qua thực nghiệm cuộc
đời, chứ không tin những gì giải thích qua thần quyền huyền hoặc. Do
đó Đức Phật không thừa nhận có một Thượng đế toàn năng sinh ra tất
cả, và càng không tin vào khả năng cứu rỗi của con người là do từ
Đấng đó.
Trở lại
vấn đề Giáo Hoàng trách Đức Phật, vì không nhìn thấy khả năng cứu
rỗi của Thiên Chúa nên “lầm khi chối bỏ cả việc tạo dựng có bất
cứ giá trị nào cho nhân loại”. Tôi xin thưa, Phật giáo nhận thức
là mọi giá trị tinh thần cũng như vật chất của nhân loại là do chính
Tâm con người làm ra chứ không do một thần quyền nào sắp đặt cả. Hơn
nữa trong toàn bộ kinh điển Phật giáo để lại, ghi chép những lời
thuyết pháp của Đức Phật, thì không hề có một kinh nào Đức Phật đã
phủ nhận “GIÁ TRỊ NHÂN SINH” và “SỰ TỒN TẠI CỦA VẠN HỮU CẢ”.
Tóm
lại, tất cả nhận thức của Giáo Hoàng về Đức Phật mà tôi vừa trình
bày trên, là cái nhìn chủ quan dựa trên tín lý Thiên Chúa giáo, hoàn
toàn không đúng với tinh thần Phật giáo.
Có người bênh vực Ngài sẽ nói là: Giáo Hoàng có toàn quyền tự do
nhận định, hơn nữa đây là những lời Ngài nói với cộng đồng Thiên
Chúa giáo thôi! Tôi xin thưa, nếu tài liệu này chỉ là phổ biến nội
bộ thì chúng tôi không dám có ý kiến, nhưng mà Ngài đã cho phép công
khai phổ biến thì nó không còn nằm hạn hẹp trong phạm vi Giáo hội
KiTô La Mã nữa, mà cho toàn thế giới học hỏi. Trong trường hợp này
thì cái nhìn phải rộng rãi, nhận định phải nhìn cả từ hai phía -
phía ta, phía người - mới tìm ra lẽ chiết trung chứ không thể phiến
diện đứng về một bên mà phê phán.
Vừa rồi
tôi đã góp ý về những nhận định của Giáo Hoàng về Đức Phật trong câu
trả lời thứ 7 trong cuốn sách đó là: “Có phải Chúa Giêsu là con
Thiên Chúa không?”. Đem trả lại vị trí của câu trả lời này vào mạch
lạc cuốn sách, sở dĩ Ngài đề cập đến Đức Phật là vì trong câu hỏi
người hỏi đã đặt ra nguyên văn như sau
“Tại
sao Chúa Giêsu không được coi như nhà hiền triết Socrates? Hoặc như
nhà tiên tri Mahômết? Hay giác ngộ như Đức Phật? Tại sao người ta
lại duy trì một khẳng định không tiền khoáng hậu rằng cái người Do
Thái đã bị xử tử trong một tỉnh lỵ nghèo nàn, lại là CON THIÊN CHÚA,
và mang cùng bản chất với CHÚA CHA? Điểm đòi hỏi căn bản này của
Thiên Chúa giáo không giống với bất cứ niềm tin nào của các tôn giáo
khác. Chính Thánh Paul đã định nghĩa đây là “Một sự xúc phạm và điên
rồ” (Trang 42 bảng tiếng Anh).
(Why
isn’t Jesus simply considered a wise man like Socrates? Or a prophet
like Muhammad? Or enlightened like Buddha? How does one maintain the
unprecedented certainty that this Jew condemned to death in an
obscure province is the SON of GOD, of one being with the Father?
This radical Christian claim has no parallel in any other religions
belief. Saint Paul himself defined it as “a scandal and madness”).
(Đã dịch ở đầu trang).
Vì câu
hỏi này nên Giáo Hoàng đã lý luận để chứng minh rằng Đức Chúa Giêsu
là độc đáo, duy nhất khác hẳn ba vị kia. Ngài trả lời hoàn toàn dựa
vào tín lý và thần học rồi sau cùng lấy Thánh Kinh ra để chứng minh
là “Không ai biết người Con, trừ Chúa Cha, và cũng không ai biết
Chúa Cha, trừ người Con, và kẻ mà Cha muốn mặc khải cho” (Lc
10:21-22). Và câu số 18 trong đoạn đầu phần Phúc âm của Thánh Gioan:
“không ai đã từng nhìn thấy Thiên Chúa. Chỉ có Chúa Con là Thiên
Chúa, ngồi bên cạnh Chúa Cha, đã biểu lộ Ngài”.
Sự chứng
minh này là hoàn toàn dựa trên đức tin, qua Thánh Kinh, cho các tín
hữu KiTô La Mã còn đối với người không phải con chiên thì thật khó
hiểu, khó mà chấp nhận! Điều mà Giáo Hoàng muốn chứng minh là Đức
Giêsu Kitô hơn nhà hiền triết Socrates, hơn Giáo chủ Đạo Hồi và Đạo
Phật là vì Chúa Giêsu là con Thiên Chúa là Người được Chúa Cha cho
xuống đây và mặc khải cho. Thật ra, trước kia Đức Giêsu Kitô chỉ
được coi như một nhà tiên tri, mãi đến thế kỷ thứ 4, sau Công đồng
Nicaea I năm 325, đời Vua Constantine, Giáo Hội mới ra thông điệp:
“Nhận Chúa Giêsu là con Thiên Chúa” và kể từ đó Kinh Thánh cũng như
những bài giảng đều hướng theo sự xác quyết này.
PHẦN
II : PHẬT GIÁO QUAN NIỆM THẾ NÀO VỀ ƠN TRÊN ?
Sang
phần thứ 2 trong cuốn sách có đề cập đến Phật giáo, đó là câu trả
lời của Giáo Hoàng về “Tại sao có quá nhiều tôn giáo?”. Ngài đã
trích dẫn một đoạn trong thông điệp NOSTRA AETATE của Công đồng
Vatican II: “Phật giáo theo nhiều tông phái khác nhau, lại nhìn
nhận sự thiếu sót căn bản của cuộc đời thay đổi này và vạch ra con
đường cho những người thành tâm tin cậy, hoặc đạt đến chỗ giải thoát
trọn vẹn hay giác ngộ hoàn toàn, bằng những cố gắng riêng mình hoặc
bằng sự trợ lực của ơn trên” (trang 100-101 bản dịch tiếng
Việt).
Câu này
thật ra chưa trọn nghĩa ở chỗ: “nhìn nhận sự thiếu sót căn bản
của cuộc đời thay đổi này” rồi bỏ lửng. Tôi xin hỏi rằng những
thiếu sót đó là cái gì? Khi biết nó là cái gì thì mới tìm ra phương
pháp giải quyết mà trong này nói là: “… vạch ra con đường cho những
người thành tâm tin cậy…”. Theo tôi, nếu đầy đủ thì phải thêm vào: “Các
tông phái Phật giáo nhìn nhận ra sự thiếu sót căn bản của cuộc đời
thay đổi này… (là cái gì)… và vạch ra con đường cho những người
thành tâm tin cậy, v.v…” thì mới dễ hiểu, chứ nếu muốn viết như
trong sách thì cả chính người Phật Tử đọc cũng chưa hiểu, nói gì đến
các KiTô hữu.
Còn một
điểm nữa trong đoạn cuối của câu nhận xét này mà tôi cần minh xác để
khỏi ngộ nhận, đó là: “Đạt đến chỗ giải thoát trọn vẹn hay giác
ngộ hoàn toàn, bằng những cố gắng riêng mình hoặc bằng sự trợ lực
của ơn trên”. Điều mà tôi muốn minh xác là hai chữ “ƠN TRÊN”.
Hai chữ này người KiTô hữu hiểu là quyền năng của Thiên Chúa hoặc
Chúa Thánh Thần, nhưng người Phật Tử lại hiểu là “THA LỰC” đó là thứ
năng lực khác, ngoài “TỰ LỰC” là năng lực của chính mình. Tha lực
chỉ trợ duyên tức là giúp thêm cho tự lực, chứ không có tính
quyết định như “Ơn trên của Thiên Chúa” bên Kitô giáo. Ngoài ra,
người Phật tử còn hiểu là tha lực hiện có ngoài không gian, nằm
trong vũ trụ lực, do tâm thức con người tạo nên, chứ không phải do
một Đấng thiên liêng nào sinh ra, kể cả Phật lực là lực do các Ngài
tự tu mà thành chứ không được ai ban phát cho cả.
PHẦN
III : GIÁO HOÀNG NHẬN XÉT SAI CHỖ NÀO?
Giờ đây,
tôi xin bàn đến phần chính nhận định của Giáo Hoàng về Đức Phật và
Giáo Lý Phật giáo trong cuốn sách của Ngài. Đây là câu trả lời thứ
14 và người hỏi đã đặt thẳng vấn đề với Giáo Hoàng về Phật giáo xem
Ngài phán xét ra sao? Tôi xin chép lại đây câu hỏi để một số độc giả
không có sách dịch hiểu rõ hơn vấn đề. Câu hỏi thế này:
“
Trước khi bàn tới Tôn giáo độc thần, trong đó có hai tôn giáo Do
Thái giáo và Hồi Giáo, là những tôn giáo chỉ thờ phượng một Thiên
Chúa, con xin Cha nói thêm về Phật giáo. Thật thế, như Cha đã biết -
tôn giáo này cống hiến một “Đạo Lý Giác Ngộ” hình như đang thu hút
nhiều người Tây Phương như một “hoán đổi” cho KiTô giáo, hoặc như
“Bổ sung” cho Kitô giáo, ít nhất trong những phương pháp khắc khổ và
thần bí của Tôn giáo này”.
Và Giáo
Hoàng đã trả lời: “Trong những tôn giáo được đề cập tới trong tài
liệu NOSTRA AETATE của Công đồng, cần lưu ý đặc biệt tới Phật giáo,
trong một số quan điểm, giống như Kitô giáo, là một tôn giáo Giác
Ngộ. Tuy nhiên cần phải nói ngay rằng, tín lý cứu độ của Phật giáo
và Kitô giáo trái ngược nhau” (trang 104 bản dịch tiếng Việt của
NXB Thăng Tiến).
Trước
khi chép tiếp, tôi xin nói ngay là người dịch của bản Việt ngữ này
đã dịch không sát nghĩa hai chỗ là:
- Đạo lý
giác ngộ.
- Một
tôn giáo giác ngộ.
Không
hiểu sao chữ “Doctrine of Salvation” mà lại dịch là “Đạo lý giác
ngộ”, rồi cũng trong câu này ở đoạn dưới cũng chữ “Doctrine of
Salvation” lại dịch là “Tín lý cứu độ”. Chúng tôi e rằng khi
dịch chữ Salvation là “giác ngộ” thay vì “cứu rỗi” hay “cứu
độ” sẽ làm sai cả ý của người đặt câu hỏi và câu trả lời của
Giáo Hoàng, hơn nữa, còn làm cho người đọc hiểu lầm, vì ý nghĩa của
“Giác ngộ” và “cứu độ” khác xa nhau nhiều lắm, ngoài ra còn
trộn nhầm cả tín lý Kitô La Mã và Phật giáo một cách vô tình nữa.
Như trong câu hỏi phần tiếng Anh: (Trang 84)
“…
Essentially - as you well know - it offers a “doctrine of Salvation”
that seems increasingly to fascinate many Westerners as an
“alternative” to Christianity or as a sort of “complement” to it…”
(Đã dịch ở đầu trang 31)
Rõ ràng
là người hỏi đặt vấn đề so sánh “doctrine of Salvation” tức là “giáo
lý cứu rỗi” chứ không phải giác ngộ. Và câu trả lời của Giáo Hoàng
là:
“… Among
the religions mentioned in the Council document NOSTRA AETATE, it is
necessary to pay special attention to Buddhism, which from a certain
point of view, like Christianity, is a religion of Salvation.
Nevertheless, it needs to be said right away that the doctrine of
salvation in Buddhism and Christianity are opposed”.
(Đã dịch ở trang 31)
Đại ý
Ngài nói: Phật giáo giống Kitô giáo là tôn giáo cứu rỗi, nhưng về
giáo thuyết cứu rỗi, thì hai bên trái ngược nhau. Về điểm này Giáo
Hoàng hoàn toàn đúng vì Kitô giáo nhận định sự cứu rỗi là do Thiên
Chúa qua Đức Chúa Giêsu còn Phật giáo là do tự nỗ lực cá nhân mình
là chính.
Và Ngài
nói tiếp: “Ngày nay chúng ta đang thấy một vài bành trướng của
Phật giáo tại Tây Phương” (trang 105). Ngài nhắc đến Đức ĐẠT LAI
LẠT MA là người mang Phật giáo đến với những người Kitô giáo Tây
Phương và đã gây ra được sự quan tâm về tinh thần Phật giáo cùng
phương pháp cầu nguyện Phật giáo. (Trong bản dịch đã dịch chữ
Buddhist spirituality là “đường hướng tu đức” không sát nghĩa)
(Trang 104).
Rồi Giáo
Hoàng phê phán về Giáo lý Phật giáo như sau (trang 105):
“Giáo
lý Phật giáo về ơn cứu độ tạo thành tâm điểm, hoặc đúng hơn là điểm
duy nhất trong hệ thống này. Tuy nhiên, cả truyền thống Phật giáo
lẫn những phương pháp khơi nguồn từ đó đưa ra một nền thần học cứu
rỗi hầu như độc hữu tiêu cực”.
Đọc xong
câu trên, chúng tôi nhận thấy có hai điểm nổi bật được đề cập đến đó
là:
1- Cứu
độ là tâm điểm và là điểm duy nhất trong hệ thống Phật giáo.
2- Cả
truyền thống Phật giáo và các phương pháp của Phật giáo đều đưa ra
một nền Thần học cứu rỗi độc hữu tiêu cực.
Chúng
tôi xin trả lời:
1- Đối
với Phật giáo “Cứu độ” chỉ là một trong những phương tiện, hoàn toàn
không phải là tâm điểm hay điểm duy nhất trong hệ thống Phật giáo.
Điểm duy nhất và là tâm điểm của Phật giáo là Giải thoát,
giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Đức Phật đã dạy: “Cũng như nước
biển chỉ có một vị mặn, giáo lý của ta cũng chỉ có một vị là vị giải
thoát”. Tất cả một rừng kinh điển Phật giáo, trong suốt 49 năm
thuyết pháp, Đức Phật đều nhắm theo một mục đích giải thoát mà thôi.
2- Nếu
phân tích giáo lý Phật giáo theo hướng triết học thì là một sự sai
lầm và nếu lại nhìn theo lăng kính Thần học Thiên Chúa giáo thì lại
càng sai hơn. Vì toàn bộ giáo lý Phật giáo là giáo lý thực nghiệm
được hình thành từ nơi cuộc sống và con người, do đó không phải
là một sản phẩm của tư duy mà cũng không phải những điều được mặc
khải do một vị thần linh nào. Trong câu này Giáo Hoàng đã viết:
“Nevertheless, both Buddhist tradition and the
method deriving from it have an almost exclusively negative
Soteriology”. (Tuy nhiên, cả truyền thống Phật giáo lẫn những
phương pháp khơi nguồn từ đó đã có một sự cứu rỗi hầu như độc nhất
tiêu cực.).
Chữ
“Soteriology” là một danh từ Thần học chỉ sự cứu rỗi của Thiên Chúa
qua Chúa Giêsu Kitô. Như vậy là Giáo Hoàng đã nhìn Phật giáo qua
lăng kính Thiên Chúa Giáo để mà phê phán. Theo nhận xét của chúng
tôi thì vấn đề Phật giáo ở đây đã được phân tích qua triết học và
thần học, vì vậy nên mới bị nhận định là cứu rỗi độc nhất tiêu cực.
Đây chẳng qua là hai thái độ và hai cái nhìn khác nhau về vấn đề cứu
độ mà thôi.
Theo
Phật giáo thì “cứu độ” trước hết là cứu mình ra khỏi sự u mê, rồi
sau đến cứu người, đó là tinh thần “tự độ” và “độ tha”. Còn “Tích
cực” và “Tiêu cực” thì Phật giáo lại quan niệm rằng khi tự mình tìm
giải thoát cho mình là có tinh thần “Tích cực”, còn dựa vào thần
quyền hay vào người khác thì là “Tiêu cực”. Tôi xin dẫn ra đây câu
của Ngài Narada Thera viết trong “Buddhism in a Nutshell”, chương I:
“To depend on others for Salvation is negative, but to depend on
oneself is positive”. (Nương vào kẻ khác để được cứu độ là tiêu cực,
nhưng dựa vào chính mình là tích cực).
Một bức tượng của Đức Phật tại bảo tàng Sarnath
Và trong
kinh Đại Bát Niết Bàn (Parinirvana Sutra) Đức Phật dạy các đệ tử là:
“Hãy
làm những hòn đảo cho chính các ngươi, hãy làm chốn nương tựa cho
chính mình, đừng tìm kiếm nương tựa ở nơi nào khác”.
(Be ye islands unto yourselves, be ye a refuge
unto yourselves, seek not for refuge in others.).
Trong
khi đó thì người Thiên Chúa giáo lại hiểu là sự cứu rỗi đến từ Thiên
Chúa và chỉ coi là tích cực khi không chối bỏ Thiên Chúa, đồng thời
tin Đức Giêsu Kitô đã đem thân cứu chuộc cho loài người. Và “cứu
rỗi” là cứu con người khỏi sự xấu xa, tội lỗi, hay là những sự dữ.
Vậy thì
Giáo Hoàng đã phê phán tinh thần Phật giáo “cứu độ tiêu cực” có phải
vì không thừa nhận Thiên Chúa hay là vì lý do nào khác? Nhưng, dù vì
lý do nào đi nữa thì cũng không đúng với quan niệm Phật giáo. Nếu
chúng ta đọc tiếp trang 107, những dòng cuối của trang này đã giải
thích rõ nhận xét của Thiên Chúa giáo đối với Phật giáo về vấn đề
“Tiêu cực” như sau:
“Công
đồng Vatican II đã xác nhận mạnh mẽ chân lý này. Duy trì thái độ
tiêu cực đối với thế giới, với kết luận rằng thế giới chỉ là một
biển khổ cho con người và vì thế con người phải giải phóng toàn
triệt khỏi đó, đó là điều tiêu cực, không những có tính cách một
chiều, mà còn hoàn toàn trái ngược với những phát triển của chính
con người và thế giới mà Đấng Tạo hóa đã ban cho và trao phó cho
người như một sứ mạng”.
(Trang 88 bản tiếng Anh).
Quan điểm nguyên thủy của Thiên Chúa giáo về tích cực và tiêu cực
là điều mà chúng tôi đã trình bày ở trên, còn quan điểm này chỉ có
sau Công Đồng Vatican II, nó nêu ra 2 nhận định:
1- Cho rằng thế giới là một bể khổ vì thế con người cần thoát ra là
tiêu cực.
2- Nói rằng thế giới này là một bể khổ là nhận xét ngược chiều và
trái với sự phát triển của con người
và thế giới mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho và trao cho con người một sứ
mạng.
Vế thứ nhất đã nói rõ lìa bỏ thế giới này là tiêu cực mà theo tinh
thần Kitô giáo thì như vậy là chối bỏ Thiên Chúa, chối bỏ cái thế
giới mà Chúa đã ban cho con người. Vế thứ hai là nhận xét đời là khổ
là một chiều, rồi tìm cách thoát ly là trái với sự phát triển của
con người và thế giới mà Chúa đã trao cho con người một sứ mạng.
Mới nghe qua thì có vẽ hữu lý, song le xét kỹ thì những nhận xét này
của Thiên Chúa giáo đối với Phật giáo còn mang đầy tính chất chủ
quan, ngoài ra còn trộn lẫn giữa hiện tượng và tâm lý, giữa nhân
sinh và tâm linh và bao trùm tất cả là một tính cách thần quyền lại
muốn áp đặt người khác phải thừa nhận tín lý của mình. Muốn giải rõ
vấn đề này chúng tôi xin trích dẫn tiếp lời nhận xét của Giáo Hoàng
về Phật giáo như sau: (Trang 105).
“Sự “khai ngộ” do Đức Phật thể nghiệm thực sự được tóm kết trong
niềm xác quyết rằng thế giới này đầy những tham-sân-si, rằng đó là
nguồn mạch sự dữ và đau khổ cho con người. Để giải thoát chính mình
khỏi tội ác, con người phải giải thoát chính mình khỏi thế giới này,
đòi hỏi phải đoạn tuyệt với những ràng buộc nối liền chúng ta với
thế giới bên ngoài – những ràng buộc hiện hữu nơi bản chất của con
người chúng ta, nơi tâm thức và cả nơi ngũ quan nữa. Chúng ta càng
giải thoát khỏi những ràng buộc đó nhiều, chúng ta trở thành thản
nhiên trước những gì thuộc về thế giới đó, và càng tránh được đau
khổ, nghĩa là tránh khỏi những sự dữ đến từ thế giới.
Chúng ta có thể tiến tới gần Thiên Chúa bằng đường lối này không? Đó
cũng không là vấn đề được đặt ra trong “Khai Ngộ” do Đức Phật truyền
đạt. Phật giáo theo nhận định rộng rãi là một hệ thống Vô thần
(không đề cập đến Thượng Đế hay Trời Đất). Chúng ta không giải thoát
chính mình khỏi sự dữ nhờ chính sự Thiện đến từ Thiên Chúa; chúng ta
chỉ giải thoát chính mình qua việc tách rời khỏi thế giới vô thường.
Hành động tách rời hoàn toàn không phải là việc thông hiệp với Thiên
Chúa, nhưng Niết Bàn chỉ là tình trạng hoàn toàn thờ ơ trước thế
giới. Ơn cứu độ trên tất cả là sự giải thoát khỏi sự dữ, bằng cách
hoàn toàn cách biệt với thế giới huyễn tượng chính là nguồn sự dữ.
Đó chính là cao điểm của diễn trình tâm linh trong Phật giáo!”
Trên đây là thành phần quan trọng nhất về nhận định đối với Phật
giáo của Giáo Hoàng, nó đã nói lên sự hiểu biết của Ngài nói riêng
và của những người Thiên Chúa giáo nói chung về Phật giáo, đồng thời
nó cũng trình bày sự khác biệt về nhận thức giữa hai tôn giáo về con
người và thế giới. Đại để Giáo Hoàng nhận xét như sau:
1- Sự “ngộ” của Đức Phật là thấy rằng thế giới này đầy xấu xa,
là nguồn mạch của sự dữ và đau khổ
cho con người.
2- Muốn thoát khỏi điều đó thì theo Phật giáo là phải thoát khỏi thế
giới này.
3- Phương pháp để thoát khỏi là cắt đứt những ràng buộc về tinh thần
và vật chất giữa mỗi người với
thế giới bên ngoài.
4- Kết quả là càng cắt đứt ràng buộc được bao nhiêu thì càng thản
nhiên với thế giới và tránh được đau
khổ.
Còn đối với Thiên Chúa giáo thì trong phần này được giải thích bằng
những nhận định như sau:
1- Sự “ngộ” của người Kitô giáo là đến gần với Thiên Chúa.
2- Người Kitô hữu không giải thoát chính mình khỏi sự dữ mà nhờ ơn
Thiên Chúa ban cho sự Thiện.
3- Nếu tách rời khỏi thế giới này thì mất sự hiệp thông với Thiên
Chúa.
4- Người Kitô hữu đã có ơn cứu độ để giải thoát khỏi sự dữ.
Chúng tôi chưa bàn đến những nhận xét của Giáo Hoàng về Phật giáo có
chính xác không và ở mức độ nào, mà chúng tôi chỉ phân tích ra đây
để đọc giả thấy rõ sự khác biệt giữa hai quan điểm. Theo Phật giáo
thì tự mình phải đấu tranh để thoát khỏi những khổ đau về tâm lý
trên phương diện vật chất cũng như tinh thần. Theo Thiên Chúa giáo
thì là cầu nguyện xin sự cứu rỗi của Ơn trên để được thoát khỏi sự
dữ.
Chúng tôi xin trích dẫn ra đây 1 câu trong cuốn giáo lý Phật giáo do
Ngài NARADA THERA (SRILANKA) viết để thấy rõ quan điểm của Phật
giáo:
“A Buddhist should not pray to be saved, but
should rely on himself and win his freedom”, nghĩa là: “Người
Phật tử không nên cầu nguyện để được cứu độ, mà cần tin cậy nơi mình
và đạt được sự tự do cho chính mình”. Sự tự do ở đây là muốn nói
đến giải thoát sự ràng buộc.
* * *
Bây giờ tôi xin góp ý về những nhận xét của Đức Giáo Hoàng. Vào đầu
Ngài viết:
“The “Enlightenment” experienced by Buddha
comes down to the conviction that the world is bad, that it is the
source of evil and suffering for man”,
nghĩa là: “Sự “Giác Ngộ” do Đức Phật thể hiện đem đến sự xác
quyết rằng thế giới này là xấu xa, là nguồn của tội lỗi và đau khổ
của con người”.
“To
liberate oneself from this evil, one must free oneself from this
world, necessitating a break with the ties that join us to external
reality – ties existing in our human nature, in our psyche, in our
bodies. The more we are liberated from these ties, the more we
become indifferent to what is in the world, and the more we are
freed from suffering, from the evil that has its source in the
world”.
“Để
giải thoát mình khỏi tội lỗi, con người phải giải thoát chính mình
khỏi thế giới này, đòi hỏi một sự cắt đứt với những ràng buộc nối
liền chúng ta với thực tại bên ngoài – Những ràng buộc nơi bản chất
con người, nơi tâm hồn và thể xác chúng ta. Chúng ta càng giải thoát
khỏi những ràng buộc đó bao nhiêu thì chúng ta càng trở nên lãnh đạm
với những gì ở trong cuộc đời, và càng thoát khỏi đau khổ, khỏi tội
lỗi bắt nguồn từ thế giới này”.
Trước
khi trình bày ý kiến mình, chúng tôi xin xác nhận rằng đây không
phải là cuộc tranh luận về đúng sai, phải trái mà chỉ là một sự đả
thông giữa hai nhận thức và hai quan điểm. Chúng tôi không thể
đòi hỏi Giáo Hoàng phải hiểu về Đạo Phật đúng như người Phật Tử,
cũng như bản thân chúng tôi, lẽ dĩ nhiên, không thể hiểu Đạo Thiên
Chúa như một Kitô hữu. Do đó những trình bày của chúng tôi chỉ
để minh xác những gì là sự thật theo nhãn quan Phật giáo bằng những
hiểu biết rất là nông cạn và còn thiếu sót của mình. Trong tinh thần
đó chúng tôi xin bắt đầu :
Trước
hết nói đến sự “Giác Ngộ” (Enlightenment) của Đức Phật. Khi nhắc đến
sự “giác ngộ” này là người Phật tử hiểu rằng đây là một trạng thái
thăng hoa của Tâm thức, nó vượt lên khỏi những gì thuộc về ý thức và
nó đạt đến chỗ trí tuệ tột cùng và giải thoát tuyệt đối, gọi là
“Toàn giác”. Nó không phải được hình thành bởi sự kết tụ kinh nghiệm
của ý thức, mà cũng không sinh ra do ý tưởng hay lý luận bình phàm.
Nó không giống như một triết gia khi tìm ra một triết thuyết hay như
một nhà tâm lý học, một nhà xã hội học tìm ra một phương thức xây
dựng lý thuyết của mình.
Thật sự,
Đức Phật sau khi đạt được “Toàn giác” đã đến “Vườn Nai” ở Varanasi
để thuyết giảng bài giảng đầu tiên về “thuyết Trung Đạo” và “Bốn lẽ
thật” (Tứ Diệu đế) trong đó có đề cập đến “Đời là bể khổ”. Sau này
bài pháp đó trở thành Giáo Lý căn bản của Phật giáo (Kinh Chuyển
pháp luân) nhưng không phải giáo thuyết này được sinh ra từ trạng
thái Giác Ngộ trên. Vì giáo thuyết này sinh ra từ thực nghiệm cuộc
đời và nằm trong nhận thức bình phàm mà Đức Phật đã có ngay từ khi
còn là Thái Tử lúc đi thăm bốn cửa thành gặp những cảnh già, bệnh,
chết chứ không phải đợi đến ngày đắc đạo mới tìm ra. Vấn đề này thật
rất khó giải thích cho những người phương Tây hiểu được, nhất là
những vị thường quen với luận lý Triết học và nặng về Thần học.
Tôi xin
bàn tiếp về nhận định của Giáo Hoàng. Ngài nhận xét rằng: Đức Phật
thấy cuộc đời này là xấu xa, đau khổ nên đưa ra phương cách giải
thoát khỏi thế giới này bằng cách cắt đứt những ràng buộc từ bản
chất, tâm hồn và thể xác với thực tại bên ngoài, khi càng thoát được
những ràng buộc đó bao nhiều thì càng thờ ơ với thế sự và càng bớt
đi đau khổ, tội lỗi vốn bắt nguồn từ thế giới này bấy nhiêu.
Đọc xong
những lời nhận xét của Giáo Hoàng mà tôi vừa tóm gọn ở trên thì ta
thấy Ngài đã hiểu Đạo Phật quá khái quát. Đây là Ngài muốn diễn tả
về “Bốn lẽ thật” của Phật giáo, nhưng tiếc thay Ngài chỉ nhận thức
theo lý luận, không phải thực hành, hơn nữa lại thiếu một bước lớn
trong bốn bước của chuỗi luận thuyết này.
Ngài
nhận xét ở ba điểm như sau:
1. Đời là khổ.
2. Phải dứt khổ đau.
3. Muốn dứt khổ thì phải cắt đứt mọi ràng buộc.
Cái thiếu quan trọng nhất mà Giáo Hoàng không nói đến là “nguyên
nhân của khổ”. Theo “Bốn lẽ thật” (Tứ Diệu đế) của Phật giáo thì:
1. Đời là khổ.
2. Nguyên nhân của khổ.
3. Sự chấm dứt khổ.
4. Con đường hay phương pháp dứt khổ.
Phương pháp luận của Đức Phật dù đã trên 2500 năm nhưng vẫn rất
chính xác và rõ ràng. Nếu không biết “nguyên nhân” thì làm sao dứt
bệnh? Phương pháp của Phật giáo đưa ra thì đủ nhưng khi lập lại thì
Giáo Hoàng đã bỏ sót, từ đó dẫn đến sự phê phán không chính xác và
nhận thức sai lầm.
Ngài đã phê bình thái độ của Phật giáo là “tiêu cực” vì hai lẽ :
(Trang 107)
1. Duy trì thái độ tiêu cực đối với thế giới, với kết luận rằng
thế giới chỉ là một biển khổ cho
con người.
2. Vì thế con người phải giải phóng toàn triệt khỏi đó, đó là điều
tiêu cực.
Về điểm thứ nhất ở đây, tôi xin thưa, chữ DUKKHA trong Đạo Phật có
một nghĩa rất rộng, nó còn bao gồm cả những gì bất toàn, những gì
không như ý, những gì đổi thay cho nên chữ “khổ” hay “Suffering”
chưa lột hết ý. Chính vì nó nhiều nghĩa như vậy nên nó đã biểu hiện
một thực hữu của tâm lý con người. Và Dukkha đã mang trọng trách làm
“tiền đề” cho phương pháp luận “Bốn lẽ thật” của Đạo Phật.
Nếu chỉ xét theo lý luận một cách ngoại vi thì có thể thấy đời có
lúc vui, lúc buồn, khi sướng, khi khổ, nhưng nếu nhìn sâu hơn vào sự
không vững bền, vào những đổi thay ngoài ý muốn, vào sự không trọn
vẹn thì sẽ thấy đời con người ta lúc nào cũng bao trùm bằng một tâm
lý lo âu, sợ sệt và buồn khổ. Người Thiên Chúa giáo được dạy dỗ rằng
nếu muốn giải quyết những điều trên thì tìm về với Chúa để được cứu
rỗi, còn với Phật tử thì được dạy rằng phải tự mình giải quyết cái
tâm lý của mình bằng cách cắt đứt rễ, vứt bỏ cái nhân gây nên nỗi
khổ là tham-sân-si và cái dục, chứ không ai có thể giúp mình được
cả. Cho nên đối với tín đồ Phật giáo khi nhìn nhận “Đời là bể khổ”
chỉ là khách quan nhìn vào một hiện tượng nên không có vấn đề tiêu
cực hay tích cực ở đây, mà tích cực hay tiêu cực là ở tinh thần của
mình có tự phấn đấu, có dám đấu tranh với hoàn cảnh hay là buông
xuôi hoặc cầu trời khấn Phật.
Còn vấn đề thứ hai mà Giáo Hoàng cho là tiêu cực khi muốn giải thoát
khỏi cuộc đời thì tôi xin thưa rằng theo tinh thần Phật giáo, dù là
Tiểu thừa hay Đại thừa cũng vẫn lấy cuộc đời và chúng sinh là môi
trường hành đạo nên không có việc tách mình ra khỏi xã hội trong
thực tế của nó.
Còn việc giải thoát bằng cách cắt đứt mọi liên hệ với thực tại bên
ngoài, thì lại là một nhận định trộn nhầm thực hành với lý luận. Vì
thế cho nên Ngài nói: cắt đứt những ràng buộc về bản chất, tâm hồn
và thể xác rồi càng cắt đứt bao nhiêu thì thờ ơ bấy nhiêu! Nếu hiểu
như thế này thì thật là lệch lạc quá sức.
Người Phật tử đều hiểu là:
- Bản chất là Phật tánh.
- Tâm hồn là vọng thức do giác quan và ngoại cảnh tạo thành.
- Thể xác là do vật chất mà có.
Do vậy nên không cắt đứt Phật tánh mà là làm sáng ra cái Phật
tánh đang bị sự mê mờ, tối tăm do vọng tâm và ngoại cảnh che lấp,
nay muốn trở về với tâm hồn trong sáng tức là chân tâm, thì phải
thực hành phương pháp làm chủ thân và tâm để khỏi bị vọng tâm chi
phối. Chính ở điểm này đã bị hiểu lầm về phương pháp cắt đứt mọi
liên hệ với bên ngoài. Hiểu như vậy là hoàn toàn theo lý luận. Sự
thật cắt đứt với bên ngoài có nghĩa là không để bị lôi cuốn vì ngoại
cảnh mà thôi, chứ không phải chối bỏ hoặc xa lìa thực tại. Điều này
tôi có thể thưa rằng chỉ những người nào có uống nước mới biết thế
nào là nóng hay lạnh, còn đứng ngoài bàn thì chỉ là tưởng tượng bàn
suông mà thôi!
Chúng tôi biết Giáo Hoàng đã sinh ra và trưởng thành trong tín lý
Thiên Chúa giáo và sống với triết học cùng thần học về phương diện
tinh thần, nên chúng tôi rất kính trọng Ngài trên phương diện học
giả, nhưng nếu muốn hiểu và nhận xét về Phật giáo thì phải vừa là
học-giả vừa là hành-giả, điều này không thể có được nơi bất cứ
người nào khi còn dùng tư duy để suy luận và phán đoán Phật giáo, vì
đâu có hành mà nói được thực tế ra sao.
Đạo Phật có một câu rất hay là “Dùng Sự để hiển bày cái Lý”
hay nói khác đi là: thực hành để chứng thực chân lý, vì vậy mới là
“Đạo Thực Nghiệm”. Ngày xưa, khi Phật còn tại thế Ngài cũng đã
khuyên các đệ tử là nên hành mà không nên lý luận suông và Ngài đã
gọi tất cả những gì dùng suy tư để mà bàn luận đều là “Hý luận” mà
thôi, nghĩa là nói cho vui chứ không thực tiễn.
Ngoài ra, tôi xin nói thêm một điều nữa, đó là theo nhận xét của
chúng tôi, thì phần lớn người Tây Phương, kể cả Giáo Hoàng, chỉ mới
làm quen với hai môn phái của Phật giáo là “Thiền” là “Mật” trong
khi Phật giáo còn hàng chục môn phái khác nữa. Nay nếu nhìn Phật
giáo qua lắng kính của “nhà Thiền” hay “nhà Mật” thì cũng vẫn còn
khiếm khuyết chứ chưa thật có cái nhìn tổng quan về Phật giáo.
Bây giờ chúng tôi xin góp ý tiếp về đoạn sau khi Giáo Hoàng nhận xét
rằng :
“Buddhism is in large measure an “atheistic” system” và: “… but what
is called Nirvana, a state of perfect indifference with regard to
the world. To save oneself means, above all, to free oneself from
evil by becoming indifferent to the world, which is the source of
evil. This is the culmination of the spiritual process”.
“Với
sự cân nhắc rộng rãi, Phật giáo là một hệ thống vô thần”, và: “nhưng
cái gì gọi là Niết bàn, là một trạng thái hoàn toàn lãnh đạm với thế
giới. Cứu độ chính mình có nghĩa trên hết là giải phóng khỏi tội lỗi
bằng cách trở nên lãnh đạm với thế giới vốn là nguồn của xấu xa. Đó
là cao điểm của diễn tiến tâm linh”.
Trong
câu này có ba ý:
1. Phật
giáo là một hệ thống vô thần.
2. Niết
Bàn là một trạng thái hoàn toàn lãnh đạm với thế giới.
3. Cứu
độ mình bằng cách trở nên lãnh đạm với thế giới.
Đối với
người Việt Nam ta, khi nghe đến hai chữ “vô thần” thì thường rất bị
xúc động và không có ý tốt, đôi khi còn coi như bị thóa mạ. Nhưng
“vô thần” mà Giáo Hoàng dùng đây mang ý nghĩa Triết học, để chỉ là
không tin ở Thượng đế, không tin ở Nhất Thần giáo mà thôi, hay theo
Thần học có nghĩa là không tin ở Thiên Chúa. Nếu hiểu theo nghĩa này
thì Giáo Hoàng đã nói đúng. Còn hiểu theo nghĩa thông thường là
không tin có thần thánh thì Đạo Phật thuộc về quan niệm là có thần
thánh tức là “Hữu Thần” chứ không giống Duy vật Vô thần.
Về trạng
thái Niết Bàn, Đức Giáo Hoàng nói là: “a state of perfect
indifference with regard to the world”, nghĩa là: “một trạng thái
hoàn toàn lãnh đạm với những gì thuộc về cuộc đời hay thế giới”, là
một định nghĩa hoàn toàn sai. Nó không những sai cả về ý nghĩa mà
còn sai luôn cả về sự diễn tả. Ở đây chúng tôi không muốn đi vào
danh từ, vào định nghĩa Nir là gì, Vana là gì vì nói
như thế là lại rơi vào chỗ hạn hẹp của ngôn ngữ và lại khiến cho
người đọc - chưa bao giờ thực hành - lại rơi vào lý luận và sai lầm.
Vì nó là một trạng thái nên chỉ có “cảm nhận” không có “mô tả”, hơn
nữa không thực hành thì không biết nổi, nói ra chỉ sai thôi!
Tôi xin
dẫn ra đây lời một học giả người Anh là Ngài EDWIN ARNOLD mà người
Thiên Chúa giáo biết rất nhiều qua cuốn thơ “The light of Asia” (Ánh
sáng châu Á) nói về cuộc đời Phật Thích Ca. Nhà học giả kiêm thi sĩ
người Anh đã viết về Niết Bàn như thế này:
“If any
teach Nirvana is to cease
Say unto
such they lie
If any
teach Nirvana is to live
Say unto
such they err”
From a
metaphysical standpoint Nirvana is deliverance from suffering.
From a
psychological standpoint Nirvana is the eradication of egoism.
From an
ethical standpoint Nirvana is the destruction of lust, hatred and
ignorance.
Nghĩa là
:
“ Nếu
có ai dạy Niết Bàn là sự chấm dứt,
Bạn
hãy nói rằng người ấy dối ta.
Nếu
có ai dạy Niết Bàn là đang sống đó,
Bạn
hãy nói rằng người đó sai lầm.”
Về
phương diện siêu hình, Niết Bàn là sự giải thoát khỏi khổ đau,
Về
phương diện Tâm Lý, Niết Bàn là nhổ bỏ lòng ích kỷ,
Về
phương diện Đạo đức, Niết Bàn là phá tan Tham-sân-si.”
Sir
Edwin Arnold là một người Thiên Chúa giáo Anh quốc nói về Niết Bàn
như trên, đã đủ để bổ túc thêm những thiếu sót trong định nghĩa hoàn
toàn phiến diện hoàn toàn lý luận của Giáo Hoàng. Sau cùng, theo chỗ
chúng tôi được biết thì tùy theo mức độ tu tập của mỗi người, sẽ có
cảm nhận khác nhau, nhưng tổng quát có thể nói Niết Bàn là một trạng
thái an lạc, tự tại, sáng suốt và giải thoát mà chỉ những ai có thực
hành mới hiểu và đạt được.
Nói đến
điểm: “Muốn tự độ, giải thoát mọi khổ đau thì phải trở thành lãnh
đạm với thế giới là nguồn của tội lỗi”, theo nhận thức của Giáo
Hoàng, thì chúng tôi cũng xin thưa là Ngài đã quá nặng về phân tích
triết học và lý luận, không có một chút thực nghiệm nào trong này
cả, mà Đạo Phật là Đạo thực nghiệm chứ không phải lý luận, do đó
nhận xét này hoàn toàn không đúng với thực tế.
Đạo Phật
có một câu căn bản mà người học Phật và tu hành không ai là không
biết, đó là : “Phật pháp bất lý thế gian giác” có nghĩa là
“Giáo lý của đạo Phật không lìa thế gian để giác ngộ” hay nói một
cách khác là “không thể giác ngộ nếu lìa bỏ thế gian này”. Hơn thế
nữa môi trường để người Phật tử tu học chính là cái xã hội xung
quanh mình. Ngoài ra thực tế Đạo Phật lấy Tâm làm gốc với tinh thần
“Nhất thiết duy TÂM tạo” nghĩa là tất cả đều do TÂM, mà muốn thấy
Tâm mình tốt, xấu, rộng, hẹp, mê mờ hay tỉnh giác thì chỉ có thể
thấy được trong sự tiếp xúc giữa mình với xung quanh.
Nói khác
đi, Đạo Phật lấy thế gian làm nơi để chứng nghiệm chân lý, với tinh
thần “không có chúng sanh thì làm sao có Phật” và chính chúng
sanh sinh ra Phật vậy. Từ quan điểm hoàn toàn khác biệt này nên
quý vị bên Thiên Chúa giáo, kể cả chính Giáo Hoàng cũng không thể
nào hiểu được Đạo Phật thì làm sao sự nhận xét và phê bình không
phiến diện và thiếu sót! Chúng tôi viết những dòng này với một sự
thông cảm dạt dào chứ không mảy may chê trách. Vì sao? Vì quý vị
theo một nếp suy tư khác, có một quan điểm nhận thức khác nên rất
khó hiểu nhau.
Rồi từ
sai lầm này dẫn đến sai lầm khác, cũng vẫn nằm trong phạm vi tư duy
và lý luận. Giáo Hoàng đã đem ra những nhận xét qua Thánh John Thánh
giá và khoa thần bí Carmelo của dòng nữ tu Carmelite để so sánh với
các pháp khổ hạnh và Mật tông Phật giáo, rồi Ngài kết luận là:“Khoa
thần bí Carmelo này khởi đầu chính ở điểm mà những suy tư của Đức
Phật dừng lại cùng với những chỉ dẫn tâm linh của Ngài!”. Trong
một đoạn dưới Ngài tiếp: “… khoa thần bí Kitô giáo ở mọi thời
điểm… đã không bắt đầu với “khai ngộ” hoàn toàn tiêu cực. Khoa thần
bí này không phát sinh từ nhận thức về sự dữ hiện diện trong việc
con người bị ràng buộc vào thế giới qua giác quan, trí thông minh và
tinh thần. Thay vào đó, khoa thần bí Kitô giáo phát sinh từ mặc khải
của Thiên Chúa hằng sống”.
Thú thật
rằng, sau khi đọc xong những nhận xét trên đây của Giáo Hoàng tôi
buồn ghê lắm! Tôi tự nghĩ rằng: “Nếu Giáo Hoàng hiểu Đức Phật như là
một nhà tư tưởng hay một triết gia, lập thuyết để dạy đời, thì đâu
còn là “Phật” nữa, và như thế thì đâu còn cái gì gọi là Đắc
“Anuttara- Samyak-Sambodhi” tức là được “Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác”. Lại nữa, nếu Giáo Hoàng hiểu Đạo Phật như một thứ luận thuyết
tiêu cực, đòi hỏi con người ta phải cắt đứt mọi liên hệ với thế giới
về giác quan, về trí thông minh và tinh thần, thì còn gì là Đạo
Phật, và giải thoát là biến con người thành một thứ ROBOT bằng
xương, bằng thịt hay sao?
Ngài đem
khoa thần bí Thiên Chúa giáo ra so sánh với Đạo Phật hay đúng ra với
tư tưởng của Đức Phật nên bảo rằng “Khoa thần bí Carmelite bắt đầu
từ chỗ mà những suy tư của Đức Phật chấm dứt, cùng với những giáo
huấn của Ngài về đời sống tâm linh”. Thế có nghĩa là, theo nhận xét
của Giáo Hoàng thì dòng Carmelo đã đi xa hơn những suy tư của Đức
Phật cùng với giáo lý Phật giáo. Chúng tôi không hiểu rõ “Dòng tu
Hành khất” này nên không thể luận bàn, so sánh mà chỉ xin góp ý về
nhận xét của Giáo Hoàng ở điểm “suy tư của Đức Phật chấm dứt”.
Vâng,
nếu nói về mặt Tâm thức thì Ngài đúng, nhưng nếu hiểu về suy tư như
Ngài thì sai! Đức Phật đã chấm dứt suy tư từ lâu, chứ không phải đợi
đến khi đi thuyết pháp dạy đời mới ngừng suy tưởng. Bởi vì sao? Vì
suy tư là sản phẩm của ý thức, và suy tư là “hữu ngã” là “cái Ta” có
mặt. Mà muốn đạt “Trí tuệ siêu việt” thì phải mở cánh cửa “Vô Ngã”
mà vào mới có đèn trí tuệ thắp sáng. Điều này tôi nói ra chắc các
nhà Thần học không thể tin và cũng không hiểu nổi! Và khi đã “Phát
Huệ” thì Đức Phật nhìn rõ tất cả cái “Thực tướng” tức là “cái đúng
thật” của muôn sinh, vạn vật. Lúc đó quả thật Ngài không dùng suy tư
và kiến thức để đo lường, phân biệt, mà Ngài dùng Trí tuệ quán chiếu
vạn vật cùng con người và vũ trụ.
Vào cái
lúc mà suy tư dừng lại, thì trí tuệ lại bừng sáng và phát triển, cho
nên những giáo huấn của Đức Phật lại không dừng lại, mà biến hiện ra
thiên hình vạn trạng, để tùy duyên cứu độ chúng sinh nên đời sống
tâm linh càng thêm phong phú. Vì thế cho nên giáo lý của Đức Phật là
một vườn hoa muôn màu, ngàn sắc không thể nào tả được. Do đó khi đem
tư tưởng của khoa thần bí Carmelo ra so sánh với tư tưởng Phật giáo,
Giáo Hoàng đã mắc phải hai sai lầm lớn, đó là:
Thứ
nhất:
đem tiến trình suy tư của ý thức ra so sánh với Trí Tuệ Phật giáo là
loại kiến thức đã vượt ngoài phạm vi ý thức.
Thứ
hai:
đem
đường lối một môn phái của Kitô giáo ra so sánh với cả hệ thống giáo
lý Phật giáo với hàng trăm môn phái rồi vội kết luận là “khoa thần
bí Carmelot khởi đầu ở điểm mà suy tư của Đức Phật dừng lại”, như
thế Giáo Hoàng đã không hiểu gì về Phật giáo, ví như một người có
sáng kiến ra chợ mua nắm muối biển bỏ vào ly nước khuấy lên rồi hô
to rằng, “Bà con ơi! Đây là nước biển, nước biển nằm trong ly này và
biển chính là đây!” trong khi thực sự người đó chưa biết biển thế
nào.
Tôi nói
như thế để quý vị độc giả hiểu rằng không chỉ đọc vài quyển sách tóm
lược và phân tích những giáo lý căn bản của Phật giáo mà có thể hiểu
được Phật giáo. Nhà học giả người Anh Edward Conze đã bỏ ra 40 năm
chỉ để học kinh Bát Nhã là 1 trong 12 bộ kinh lớn của Phật giáo.
Riêng kinh nghiệm bản thân của chúng tôi cũng như một số bạn bè học
Phật, đã vài chục năm, nhưng càng vào thì càng thấy nhiều hoa thơm
cỏ lạ, đồng thời cũng thấy Phật pháp nhiều như rừng, rộng như biển
mà sự hiểu biết của mình chỉ như muối bỏ bể, hơn nữa cứ càng học thì
càng thấy dốt.
Tôi lại
được biết trong Phúc Âm của Thánh John, câu chót có viết: “Còn nhiều
việc khác Chúa Giêsu đã làm mà nếu ghi chép lại từng việc một thì
tôi nghĩ cả thế giới này không đủ chỗ để chứa các sách đã viết ra”.
(John 21:25). Ấy là Chúa Giêsu chỉ đi rao giảng có 3 năm mà Thánh
John còn nói thế, vậy mà Đức Phật đi giảng Đạo 16 lần nhiều hơn Đức
Chúa tức là 49 năm thì rừng kinh sách còn lưu lại nhiều biết chừng
nào. Đó là chỉ nói về lượng cho vui mà thôi. Kinh sách Phật giáo còn
lại hiện thời đã bị đốt bỏ đi nhiều qua thời kỳ Thổ Nhĩ Kỳ cai trị
Ấn Độ và thời kỳ Ba La Môn phục hồi ở đó (thế kỷ thứ 9 đến 13).
Trở lại
vấn đề đang bàn giải, tôi đã phân tích, góp ý hầu hết những lời nhận
xét của Giáo Hoàng về Phật giáo. Chiều hướng bài viết của tôi là để
giải thích những nhận xét khiếm khuyết mà Giáo Hoàng nhìn vào Đức
Phật và Phật pháp, chứ không phải để tranh luận về giáo thuyết ai
đúng, ai sai. Những trình bày của tôi là đứng trên vị trí của một
Phật tử nghĩ gì và thấy thế nào, qua sự phê phán về Đạo Phật của
Giáo Hoàng. Chúng tôi viết với tinh thần:
- Đi tìm
sự thật và
- Chuyển
hóa nhận thức của người không rõ Phật pháp.
Cho nên
tôi không muốn phê phán về tín lý ở đây để khỏi mang tiếng chủ quan
và mất niềm tin hòa khí vì Đạo Phật vốn là đạo hiếu hòa.
Sau
cùng, Giáo Hoàng đã ngỏ lời cảnh giác riêng với tín hữu Thiên Chúa
giáo là:
“Do
đó, không phải là không thích đáng khi cảnh cáo những tín hữu Kitô
khi nhiệt thành đón nhận một vài tư tưởng khởi sự từ các truyền
thống tôn giáo Viễn đông - Thí dụ như những kỹ thuật và phương pháp
định tĩnh và thực hành khổ tu. Tại một vài nơi, những điều này trở
thành mốt thời trang và được chấp nhận hơn là phê phán”.
(For
this reason it is not inappropriate to caution those Christians who
enthusiastically welcome certain ideas originating in the religious
traditions of the Far East - For example, techniques and methods of
meditation and ascetical practice. In some quarters these have
become fashionable and are accepted rather uncritically).
Đọc xong
đoạn này tôi thấy nổi lên hai vấn đề:
1- Ở Âu
Châu ngày nay người ta đang tìm tu theo các phương pháp phát xuất từ
các tôn giáo Đông phương như Thiền, Mật của Phật giáo và Yoga của Ấn
Độ giáo, v.v… rất nhiều, thậm chí đã trở thành phong trào hay mốt
thời thượng.
2- Mối
quan tâm của Giáo Hoàng về ảnh hưởng và sự bành trướng của những
pháp môn trên đối với các Kitô hữu, lẽ ra họ phải gạt bỏ hay phê
phán chứ không được hoan hỷ chấp nhận, nên đáng cảnh cáo.
Đoạn
cuối của câu trả lời về Đức Phật này, Ngài có lên án và phê bình về
“Phong trào New Age” hiện đang bành trướng tuy cũng tin Thiên Chúa
nhưng đi ngược lại với tín lý Kitô giáo.
Chúng
tôi không muốn bàn đến hiện trạng của mấy điều vừa nêu trên, vì nó
đi ra ngoài phạm vi của bài này, nhưng thực sự những vấn đề đó đã và
đang làm nhứt nhối Tòa Thánh La Mã không ít !
TÂM SỰ CUỐI BÀI
Phật
giáo với nhiều tông phái và vô lượng pháp môn nhưng đều nhằm đi đến
“Giác Ngộ” và “Giải thoát”. “Giác Ngộ” có nghĩa là nhìn thấy cái
“Đúng là” và “Đang là” của con người, nhân sinh và vạn vật; còn
“Giải thoát” có nghĩa là trút bỏ được những lo âu, phiền muộn, làm
chủ chính mình và tự tại trong cuộc sống. Chân lý của Đạo Phật là
những sự thật ngàn đời rút ra từ cuộc sống. Phật pháp là những giải
pháp cho con người đi vào đời mà vơi đi những khổ đau trong kiếp
sống. Cho nên con đường mà Phật giáo đang đi là con đường mà mọi
người đang bước, vào đời để tìm thấy sự an vui và sự tự do tinh thần
ngay trong môi trường sống. Do đó Phật giáo vì Đời mà có, nên không
lìa Đời và sống mãi với Đời trong suốt quá trình tồn tại của nó.
Tuy
nhiên, theo tiến trình văn minh của nhân loại, cùng với sự đổi thay
về thấy biết, về tri thức và về tâm linh qua mọi thời đại, Phật giáo
không đặt ra một ước lệ, một tín lý nào, để bắt buộc con người phải
theo, mà để “tùy duyên giác ngộ”.
Hôm nay,
cũng trên tinh thần “Tùy duyên” mà chúng tôi viết ra những dòng này,
với ý hướng là cố gắng trình bày một cái nhìn chân thực về Phật giáo
để tránh cho người khác hiểu lệch lạc, phiến diện đối với tín ngưỡng
của mình. Những điều tôi viết ra đây để gởi đến những người bạn, ở
các tôn giáo khác, để mong tìm ở quý vị một sự cảm thông đầy thân
ái. Tôi cũng viết ra cho chính những người bạn đạo của tôi, để củng
cố niềm tin với nhau để vững vàng nắm tay tiến bước trên con đường
đang cùng nhau đi tới.
Đối với
Giáo Hoàng John Paul II, Người được cả thế giới tôn trọng do địa vị
là người lãnh đạo một tôn giáo lớn trên địa cầu, tôi quý trọng Ngài
ở chỗ: Ngài là người can đảm, thẳng thắn và rất nhiệt tình. Tôi nhận
thấy Ngài đã có hai điều can đảm lớn:
1- Ngài
là người chính thức và đầu tiên đứng đầu Giáo Hội La Mã, đã công
khai xác nhận sự sai lầm của Giáo Hội, từ đời đức Giáo Hoàng URBANS
VIII (1623 - 1644) vaò thế kỷ thứ 17, về vụ “GALILEO GALILEI” (1564
- 1642) một nhà thiên văn học Ý đã bị tòa án dị giáo của tòa thánh
xử tội cấm cố cho đến chết, chỉ vì dám nói là: “Trái đất tròn và
xoay quanh mặt trời” trái với Thánh Kinh là “Trái đất vuông và
mặt trời do Chúa sinh ra cho địa cầu này, nên phải xoay quanh trái
đất !”. Từ thời Kha Luân Bố người ta đã biết được địa cầu đúng là
hình tròn và điều mà nhà thiên văn học Galilei tìm ra rất đúng. Vậy
mà trải qua gần 4 thế kỷ (vụ xử Galilei ngày 22 tháng 6 năm 1663)
qua 26 đời vị Giáo Hoàng, chưa vị nào dám công khai xác nhận sự sai
lầm này.
2- Vào
ngày 14 tháng 11 năm 1994, trong một lá thư mục vụ gửi cho các giáo
hữu của Ngài, Ngài đã nói: “Để bước vào thiên niên kỷ mới năm 2000 -
giáo hội Kitô La Mã phải biết dọn mình xưng tội” (To enter new
millennium, Pope says, church must confess) và Ngài viết thế này:
“Một
chương đau đớn khác của lịnh sử mà những người con cái Chúa không
thể không nhìn lại với nổi niềm ăn năn đó là qua nhiều thế kỷ đã tán
thành sự thiếu khoan dung và đôi khi dùng cả bạo lực để phụng sự
chân lý”.
“Another
painful chapter of history to which the sons and daughters of the
church must return with a spirit of repentance is that of the
acquiescence given, certainly in certain centuries, to intolerace,
and even to the use of violence in the service of the truth). (Trích
L.A. Times ngày 15-11-1994).
Ở đây ý
Ngài muốn nói đến bảy cuộc chiến tranh Thập tự giữa Kitô giáo La Mã
với Hồi giáo, và các Vua chúa không thần phục Tòa Thánh kéo dài suốt
từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15 (1095 đến 1453) đã giết hại biết bao dân
lành vô tội và khiến bao nhiêu thanh niên Kitô giáo phải hy sinh chỉ
vì quyền lực của Giáo Hội La Mã dưới danh nghĩa “Bảo vệ Chân lý”. Tờ
Los Angeles Times viết :
“Trong thiên niên kỷ này, với cuộc chiến tranh Thập tự quân, với
những vị Giáo Hoàng phóng đãng và ham mê quyền lực đã tạo nên sự nổi
dậy của Tin Lành, việc thành lập các tòa án dị giáo là những trang
sử đen tối của Giáo hội”.
(In this millennium, the warmongering
crusades, dissolute popes who lust for power fueled Protestant
revolt, and the selfconsuming courts of Inquisition are all the dark
pages in church histoy).
Khi Giáo
Hoàng khuyên nhủ giáo dân nhìn về quá khứ để thấy lỗi lầm của Giáo
hội mà ăn năn, xưng tội, lại một lần nữa tỏ ra Ngài can đảm nhận
những sai lầm từ trước của Giáo hội. Tôi vẫn gọi hai điều đó là can
đảm dù hai điều này là hai điều hiển nhiên ai cũng biết rồi. Còn về
điểm “thẳng thắn và nhiệt tình”, Ngài đã chấp nhận đối thoại với
chính những tín hữu của mình và thẳng thắn trình bày ý kiến, không
che dấu, do đó mới có cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng này,
và mới có đề tài cho chúng tôi góp ý hôm nay.
Cũng vì
nhìn thấy tinh thần cởi mở của Giáo Hoàng Kitô Jean Paul II và học
hỏi ở sự thẳng thắn của ý giả Vittorio Messori, người đứng ra đặt
các câu hỏi đôi khi rất trắng trợn - làm sườn cho cuốn sách này, nên
chúng tôi cũng mạnh dạn, không ngần ngại thẳng thắn trình bày quan
điểm của mình với sự góp ý rất trung thực và đầy thiện chí.
Ngôn từ
thì thường rất giới hạn nên thật ra sự trình bày của chúng tôi cũng
chưa nói lên hết được ý mình, lại nữa, người đọc cũng hiểu theo ý
họ, nên đôi khi không đúng như ý người viết muốn phát biểu.
Nhưng,
dù sao đi nữa, chúng tôi cũng muốn nói lên ở đây một tinh thần đối
thoại bình đẳng và thành khẩn giữa hai tôn giáo. Và, với “MỘT NIỀM
TIN VÀ HY VỌNG”, chúng ta - các bạn và chúng tôi – sánh vai, cùng
song song bước vào thế kỷ 21, một thế kỷ của Tâm linh và Tiến bộ,
bằng niềm tin tưởng vào con đường mình đang đi và với hy vọng đem
nhân loại và thế giới này vào một kỷ nguyên của tình thương và ánh
sáng, của Hạnh phúc tràn đầy.
Để
kết thúc bài viết này, chúng tôi xin trích dẫn ra đây lời dịch từ
tấm bia ở Sarnath của Đại đế Asoka nước Ấn Độ khoảng 250 năm trước
Tây lịch, để lại cho hậu thế như sau :
“ Ta
không nên chỉ tôn vinh tôn giáo riêng của mình và chỉ trích các tôn
giáo khác, mà ta nên kính trọng các tôn giáo khác vì lý do này hay
lý do nọ. Làm vậy, ta đã giúp cho chính tôn giáo mình phát triển và
cũng đồng thời hỗ trợ những tôn giáo khác. Hành động ngược lại chính
là ta đã tự đào huyệt chôn tôn giáo mình và cũng gây hại cho những
tôn giáo khác. Bất cứ ai tôn vinh tôn giáo mình và chỉ trích tôn
giáo khác, tưởng như vậy là sùng bái tôn giáo mình, nghĩ là đã
“Tuyên dương tôn giáo mình”. Nhưng, ngược lại làm như vậy là đã gây
tổn thương nặng nề cho tôn giáo mình. Nên hòa thuận thì tốt: Hãy
lắng nghe tất cả và sẵn sàng nghe các học thuyết của các tôn giáo
khác với thiện chí”.(One
should not honour only one’s own religion and condemn the religions
of others, but one should honour others religions for this or that
reason. So doing, one helps one’s own religions to grow and renders
service to the other religions too. In acting otherwise one digs the
grave of one’s own religion and also does harm to other religions.
Whosoever honours his own religion and condemns other religions,
does so indeed through devotion to his own religion thingking “I
will glorify my own religion”. But on the contrary, in so doing he
injuries his own religion more gravely. So concord is good: let all
listen, and be willing to listen to the doctrines professed by
others). (Trích trong cuốn: “Buddhism in the eyes of
intellectuals” của Ven. Dr.K.Sri. DHAMANADA).
Đọc xong
những lời để lại trong bia đá của tiền nhân, tôi tự hỏi chúng ta,
những kẻ hậu sinh, đã làm được điều mà người xưa nhắc nhở chưa ? Tôi
lại cảm thấy rất là xốn xang, nếu trong bài viết này của tôi, có
chút gì tôn vinh Tôn giáo của mình!
Sau
cùng, tôi lại nhắc đến lời Chúa Kitô dạy :
“ Nếu
bị người ta vả má phải thì hãy giơ má trái ra nữa.
Nếu ai
muốn kiện con để lấy áo trong, hãy trao cả áo ngoài cho kẻ ấy!”
(Mathieu 5:39-40)
Khiến
tôi càng thấy não lòng! Thì ra, ngày nay các con của Chúa đã quên
mất lời Chúa dạy lâu rồi! Và hỏi rằng: “Đã có ai thực hiện điều này
chưa nhỉ?” Điều thiện này, không phải chỉ dành riêng cho những người
theo Thiên Chúa giáo, mà là cho tất cả mọi người không phân biệt tôn
giáo, chủng tộc, màu da và xứ sở…
Tôi nhìn
thấy khổ đau của con người ngày càng lớn, tội lỗi ngày một nhiều mà
lòng tôi rớm máu! Trong cơn nức nở tràn dâng này, tôi nghe văng vẳng
đâu đây những tiếng: “NIỀM TIN và HY VỌNG! NIỀM TIN và HY VỌNG!...”
Mật Nghiêm Đặng Nguyên Phả
Sách
Việt tham khảo:
-
Giáo Lý Công Giáo (Hoài Chiêu và N.K. Chuyên dịch)
- Kinh
Thánh Tân Ước (Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn dịch)
- Nguyệt
san Hiệp Nhất (số 24 và 27)
Sách
tiếng Anh tham khảo:
- A
Concise History of the Catholic Church, by Thomas Bokenkotter.
- Christian
Theology since 1600, by H. Cunlife-Jones
- Our
Christian Heritage, by Powel Mills Dawley
- The
Essence of Christianity, by Ludwig Feuerbach
- A
Buddhist critique of the Christian Concept of God, by Gunapala
Dharmasiri.
- Buddhism
in a Nutshell, by Narada Thera
- The
Buddha, his life retold, by Robert Allen Mitchell
- Crossing
the Threshold of Hope, và bản dịch tiếng Việt của NXB Thăng
Tiến.
- Buddhism
in the Eyes of Intellectuals,
by Ven.Dr.K.Sri.
Dhamananda.
Posted in: Tôn Giáo
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét