Thứ Ba, 4 tháng 11, 2014
VÀI NHẬN ĐỊNH VỀ TÁC PHẨM “BƯỚC QUA NGƯỠNG CỬA HY VỌNG”
Nhân Tử Nguyễn 
    Văn Thọ
    
    Tác phẩm Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của Giáo Hoàng John Paul II làm 
    tôi suy tư không ít. Lý do là tôi không muốn làm gì bất kính đối với Giáo 
    Hoàng. Ai cũng biết nay Ngài là một vị lãnh đạo gần 1 tỉ người Công giáo, và 
    đã lãnh đạo một giáo đoàn đông như vậy rất là vững vàng và cứng rắn. Ngài 
    được báo Times đăng hình vào bìa báo 12 lần trong 16 năm nay. Quyển sách nói 
    trên của Ngài hiện nay bán chạy nhất trong 20 quốc gia. Ngài đi công du 
    riêng ở Ý là 119 lần, và đi công du khắp thiên hạ đến nay là 63 lần. Ngài 
    rất được thế giới và báo chí kính trọng. 
    
    Tôi có cả hai bản Anh và Việt, và tôi đọc cũng khá kỹ càng. Đọc xong quả 
    tình tôi thấy hơi thất vọng, vì sách ngài thật ra không có gì cao siêu. Ngài 
    trả lời các câu hỏi rất khéo léo. Vittorio Messori đặt ra những câu hỏi thật 
    quái ác. Ngài trả lời mà thành ra không trả lời gì. 
    Thật 
    là tài tình. Ngài đọc nhiều, và viện dẫn nhiều thánh hiền, nhiều thông điệp. 
    Thành thử nhiều khi không biết chân ý Ngài ra sao. 
    
Xin 
    viện dẫn một thí dụ: Nơi chương 8, Vittorio Messori đặt câu hỏi rõ ràng 
    rằng: Việc Đức Kitô hy tế nhằm cứu chuộc nhân loại có cần thiết không? Trong 
    câu trả lời Ngài toàn bàn về lịch sử Tư Tưởng Âu Châu từ Descartes đến 
    Newton, và cho biết phong trào này đã loại trừ Thượng Đế ra khỏi “tri thức 
    khách quan của thế giới” v.v… và Ngài không hề đã động tới câu hỏi trên.
    
    
Tiện 
    đây tôi cũng xin góp ý rằng bản dịch tiếng Việt cũng không được xuất sắc 
    mấy, ngoài ra còn nhiều đoạn dịch sai. Ví dụ: trang 75, dịch: “Ngược lại vấn 
    đề Thiên Chúa bị phỉ báng và khước từ trong sinh hoạt trí thức như vậy là 
    một vấn đề chủ yếu,” mà nguyên văn là: “It was crucible, however that such a 
    God be expelled from the world.” (tr.53) (Tuy nhiên, một Thượng Đế như vậy 
    cần phải loại bỏ ra khỏi thế giới này), thì tôi thấy bản dịch có vẽ phức tạp 
    và không lột được hết ý nguyên văn. Ví dụ chữ Modern immanentism (chủ 
    nghĩa nội tại) mà dịch là Duy lý chủ nghĩa thiết tưởng không đúng. 
    Hoặc chữ God  of the deists mà dịch là Thiên Chúa của các 
    thần minh thì chắc chắn là không đúng v.v…
    
Bài 
    Ngài bình luận về đạo Phật, theo tôi Ngài đưa ra bốn ý tưởng sau : 
    
    
1.     
    Nhận định và phê bình Phật giáo.  
    
2.     
    Lịch sử khoa huyền học Công giáo, và Phật giáo có thể đem nhập hội 
    được vào nhóm này. 
    
3.     
    Cần chấp nhận gian trần này và phát huy nó, vì Chúa muốn thế. 
    
    
4.     
    Bàn về phong trào Thời đại mới (New Age) do nhóm Giác Ngộ (Gnostics) 
    gây nên. 
    
    Trước hết là nhận định và phê phán Phật giáo: 
    
Theo 
    tôi Phật giáo rất là đơn giản: Con người cần đi sâu vào nội tâm,  mà tìm cho 
    ra con đường giải thoát. Phải nhận ra rằng khổ đau của con người là do Tham, 
    Sân, Si, do Vô Minh gây ra. Và lăn lộn trong vòng Vô Minh, sân hận đó chính 
    là bị đọa đày trong cảnh vô thường, luân hồi đau khổ. Phải dùng tuệ giác mới 
    thoát ra khỏi vùng luân hồi sinh tử khổ đau đó, mới mong tìm được trường 
    sinh bất tử, tìm ra được Niết Bàn.  
    
Giáo 
    Hoàng không cần biết gì là Vô Thường, Vô Ngã, không cần biết cái gì là 
    Trường Sinh vĩnh cửu, nên chỉ trong ít hàng là xổ toẹt đạo Phật, và cho đó 
    là một giáo lý tiêu cực, trốn tránh sự đời. Nơi tr.40, Ngài viết: “Nhãn quan 
    của Phúc Âm không dành một khoảng trống nào cho bất cứ một thứ niết bàn nào, 
    một thờ ơ nào, một nhẫn nhục nào”. 
    
Thực 
    ra Phật giáo có bao giờ xin Ngài cho một chỗ đứng nào đâu? Nơi tr.105, Ngài 
    lại nói tương tự: 
    
Phật 
    giáo theo nhận định rộng rãi là một hệ thống không đề cập đến Thượng Đế hay 
    Trời đất (Vô Thần). Chúng ta không giải thoát chính mình khỏi sự dữ nhờ 
    chính sự thiện đến từ Thiên Chúa; chúng ta chỉ giải thoát chính mình qua 
    việc tách rời khỏi thế giới vô thường. Hành động tách rời không phải là sự 
    thông hiệp với Thiên Chúa, nhưng Niết Bàn chỉ là tình trạng hoàn toàn thờ ơ 
    trước thế giới. Ơn cứu độ trên tất cả là sự giải thoát khỏi sự dữ, bằng cách 
    hoàn toàn tách biệt với thế giới huyễn tượng chính là nguồn sự dữ (sinh, 
    lão, bệnh, tử). Đó chính là cao điểm của diễn trình tâm linh trong Phật 
    giáo. 
    
Tôi 
    thấy luận điệu của Ngài có nhiều sơ hở. Trước hết Phật giáo đề cao sự hiểu 
    biết về con người, và khuyên mọi người tìm cho ra chân tướng của mình, tìm 
    cho ra Phật tính của mình, chẳng lẽ điều đó là sai trái hay sao, chẳng lẽ 
    cần Thượng Đế xen vào hay sao. 
    
Phật 
    giáo cho rằng vũ trụ này có 2 thành phần: Một là cốt lõi bất biến, (Niết 
    bàn, Chân Như môn), hai là các hiện tượng biến thiên vô thường vô định bên 
    ngoài (Luân Hồi, Sinh diệt môn). Phải rũ bỏ mọi biến thiên mới tìm lại được 
    cái Bất biến bên trong. Như vậy là Niết Bàn nằm sẵn trong Luân Hồi. Nếu Niết 
    Bàn là trường sinh, vĩnh cửu thì Thượng Đế cũng trường sinh, vĩnh cửu, và 
    Ngài đã ở sẵn trong ta như lời Thánh John of the Cross đã nói: “Tâm điểm 
    linh hồn con người là Thượng Đế.” 
    
Tẩy 
    rửa tâm hồn như vậy chính là gột rửa hết mọi biến thiên vô thường, vô định 
    để tìm ra bộ mặt chân thật và siêu tuyệt của con người. Chẳng lẽ nói thế là 
    sai trái hay sao? Chính Ngài đã cho biết Ngài say mê John of the Cross, 
    chẳng lẽ Ngài không biết những tư tưởng trên hay sao. 
    
    Trong khi bàn về Phật giáo Ngài luôn dùng hai chữ Thiện Ác, chẳng lẽ Ngài 
    không biết Phật giáo đề cao siêu suất trên Thiện Ác và lên tới Bất Nhị Pháp 
    Môn (Advaita) hay sao? Cho nên, đọc những lời Ngài bình về Phật giáo, tôi có 
    cảm tưởng như Ngài hầu như không hiểu gì về Phật giáo. Có thể là tôi không 
    hiểu nổi Ngài chăng? Ta cũng không nên đòi hỏi Ngài quá nhiều, và những gì 
    Ngài sai sót chung quy là tại người chưa nghiên cứu sâu xa mà thôi. Vả lại 
    đại diện Ngài cũng đã xin lỗi Phật giáo rồi mà, chúng ta còn trách cứ Ngài 
    làm chi? 
    
Thứ 
    hai là Ngài bàn về lịch sử khoa huyền học Công Giáo và cho rằng Phật giáo có 
    thể hội nhập vào khoa trên. Ngài đi từ các nhà Huyền học Bắc Âu như Eckhart, 
    Tauler, Suso, đến các nhà huyền học Tây Ban Nha như John of the Cross , như 
    Teresa of Avila, đến các nhà thần học Kinh Viện như Thomas Aquinas, và đến 
    các vị hiển thánh cận kim như Vincent de Paul, như Gioan Bosco, v.v… 
    
    
Theo 
    tôi điều đó không sai. Cái sai của Ngài là nói rằng: Khoa thần bí Carmelo 
    này khởi đầu chính ở điểm mà những suy tư của Đức Phật dừng lại, và những 
    chỉ dẫn tâm linh của Ngài. (tr.106). Câu nói trên hoàn toàn là vô căn cứ. 
    Ngài làm sao biết được tư tưởng John of the Cross , và của Đức Phật mà biết 
    tư tưởng nào ngừng ở đâu và bắt đầu từ đâu. 
    
Thứ 
    ba, Ngài cho rằng phải can thiệp vào chuyện đời, phải có mối tương quan tích 
    cực đối với thế giới, và Ngài cho rằng Công Giáo đã đóng góp vào sự tiến bộ 
    của khoa học kỹ thuật hiện nay (tr.107). 
    
Tôi 
    nhận thấy rằng chạy ra bên ngoài để lo chuyện đời không phải là chuyện của 
    những người đạo cao đức cả, vì họ là những người chuyên hướng về nội tâm để 
    tìm những điều cao siêu. Chuyện đời phải để cho người thế lo, chứ đó không 
    phải là chuyện của Giáo Hội. 
    
Thi 
    sĩ Nguyễn Đình Chiểu đã viết : 
    
    Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
    
    Lòng đạo xin tròn một tấm gương…
    
Tôi 
    nhận thấy Giáo Hội Công Giáo đã ngăn cản tiến bộ khoa học thì đúng hơn. Tập 
    Kỷ Yếu Syllabus mà Giáo Hoàng Puis IX (1846 - 78) ra ngày Dec. 8, 1864 có 
    ghi lại những sai lầm của thời đại mới, và cho đến mãi những năm sau Vatican 
    II (1963 -1965), Giáo Hội vẫn còn mang tiếng là thù địch của Khoa Học.
    
    
    Lecomte du Nouy viết: Kinh nghiệm cho thấy có nhiều giáo hữu đau lòng vì 
    những mâu thuẫn tưởng tượng giữa tâm thần và lý trí họ, giữa tín ngưỡng và 
    khoa học. (xem Nguyễn Văn Thọ, Lecomte du Nouy và học thuyết Viễn Đích,
    tr.292) ; (xem thêm Tại sao không theo Đạo Chúa, tr.129 - 131) .
    
Tuy 
    nhiên, Ngài chủ trương phải liên tục dấn thân để biến đổi và hoàn thiện trần 
    gian (tr.107), và thế giới này đã được giải thoát và thay hình đổi dạng để 
    tiến tới viên mãn (Gaudium and Spes). (tr.108) Thực là một tư tưởng hết sức 
    mới lạ đối với tôi, vì xưa nay Giáo Hội thường dạy thế gian này là chốn 
    khách đầy, là thung lũng lệ châu, chứ đâu có dạy về Thuyết Tiến Hóa là vũ 
    trụ này sẽ đi đến thành toàn. Mà làm sao vũ trụ này sẽ đi đến thành toàn 
    được vì chính Chúa Giêsu và các tông đồ đã tiên tri là ngày thế mạt đã gần 
    kề (Mat. 24; 26-32; Marc 13; 24-32; Luc 20; 25-32; I Peter 3; 7; I Thessa. 
    4; 15; Rev. 22; 10-13) và chắc chắn là Giáo Hoàng không thể chối cãi được 
    chuyện này. 
    
Hơn 
    nữa Ngài cũng đã quên khuấy những lời Chúa Giêsu phán rõ như đèn là “Nước ta 
    không phải là nước thế gian” (John. 18; 36), hay “được lợi lãi cả thế gian 
    mà là lỗ vốn mất linh hồn thì được lợi ích gì ?” (Mat. 16; 26) hay lời Chúa 
    trách bà Martha (Luc. 10; 41): “Martha,  Martha, người lo lắng xôn xao về 
    nhiều chuyện. Cần thì ít thôi, hay một điều thôi.” 
    
Ngài 
    trách Phật giáo là tiêu cực, không chịu dấn thân vào đời, nhưng xưa nay tôi 
    chưa thấy chính quyền nào đã chê Phật tử là không chịu đóng góp vào công 
    cuộc xây dựng đất nước. Thật ra con người xưa nay đã chịu định luật là “Trẻ 
    đi ra, già đi vô”, “trẻ lo đời, già lo đạo” có vậy mọi sự mới được hẳn hoi.
    
    
Cuối 
    cùng Ngài bàn về Thời đại mới và môn phái Giác Ngộ. Quả thật môn phái Giác 
    Ngộ đang được sống lại ngay trên đất Mỹ này. Ví dụ như ở Los Angeles có trụ 
    sở Sophia Gnostic Center, do Stephen  Hoeller đứng đầu. Tôi ghi lại vài nét 
    chính yếu của môn phái này: 
    
1.     
    Họ muốn đi tìm lại Bản lai diện mục của con người. Họ viết : Giác ngộ 
    là tìm hiểu chính mình, xem mình trước kia là ai, và bây giờ là ai, để có 
    thể tìm lại con người trước kia của mình. 
    
2.     
    Họ là những người đi tìm thần linh nội tại trong tâm hồn, tìm cho ra 
    Vô Cùng trong dạ. Họ tin rằng những điều ta hay biết là những gì hời hợt bên 
    ngoài, nhưng trong ta còn có cái gì kỳ bí dạy ta tại sao bị khổ sở trong thế 
    giới này, hãy quên nó đi, và hãy trở về quê cũ trong những miền ánh sáng xa 
    xăm. Môn phái này cho rằng Thần Linh nội tại đã tìm ẩn trong lòng con người, 
    và nếu gặp chân sư thì Thần Linh nội tại có thể trở nên sống động. 
    
    
3.     
    Họ tin rằng con người có Tiểu Ngã và Đại Ngã. 
    
Họ 
    đi tìm bản thể rốt ráo của con người. Họ không theo ai, ngoài ánh sáng tâm 
    linh trong lòng họ, họ không tin vào đấng Cứu Thế nào ngoài sức mạnh tâm 
    linh họ. Họ không muốn trở thành tín hữu Tôn Giáo suông, nhưng còn muốn trở 
    thành đấng Christ. Như vậy thì tôn chỉ của môn phái này cũng na ná như của 
    thánh hiền Huyền đồng Thiên Chúa giáo, nhưng xem ra Giáo Hoàng không mấy ưa 
    họ. 
    
Như 
    Giáo Hoàng đã nói: Từ Descastes tới nay, đã có một “chuyển hướng triết học 
    rộng lớn lấy con người làm trung tâm điểm vũ trụ” (tr.72). Và chúng ta đang 
    đứng trên ngưỡng cửa “duy lý chủ nghĩa và chủ quan chủ nghĩa tân thời”. 
    (tr.73). Tôi mạn phép nói lộn lại cho dễ hiểu hơn. Chúng ta đang đứng trên 
    ngưỡng cửa Chủ quan chủ nghĩa (Subjectivism) và Thần linh nội tại chủ nghĩa 
    (Immanentism). Nói thế, không ai hiểu. Xin giảng thêm như sau: Triết học Âu 
    Châu xưa nay chỉ chủ trương hướng ngoại (extraversion or extroversion), cho 
    nên ai nói chuyện nội quan, quán chiếu, hay nhìn vào nội tâm (Introspection) 
    thì cho đó là cái nhìn chủ quan (subjective), không khách quan (objective) 
    và không đáng tin cậy. Nhưng triết học Âu Châu nghĩ vậy là lầm. Con người 
    phải biết nội quan, quán chiếu rồi ra mới tìm ra được Thần Linh Nội Tại 
    trong mình. Một triết gia mà không biết thế nào là nội quan, quán chiếu, thì 
    không đáng gọi là triết gia. 
    
Và 
    Giáo Hoàng cho đó là một nguyên nhân làm cho con người xa dần Giáo hội 
    (tr.73-74). Tôi thấy nhận xét của Giáo Hoàng rất đúng. Và trong tương lai 
    nhất định là “Con người sẽ đi sâu vào nội tâm để mà tìm Đạo tìm Trời”, sẽ 
    không còn cần thiết những lễ nghi hình thức bên ngoài nữa. Nên nếu Giáo Hội 
    không chuyển mình kịp, không thay đổi giáo điều để thích nghi với hoàn cảnh 
    mới, thì trong tương lai nhân loại sẽ còn xa rời Giáo Hội nhiều hơn nữa. Lý 
    do là vì Giáo Hội Công Truyền không mang lại cho Con Người một chiều kích 
    sâu xa về tâm hồn, điều mà chỉ có các thánh hiền huyền học mới làm được.
    
    
Năm 
    1989, tôi đã bàn về vấn đề này trong bài “Ra đời vào đạo”. Tôi xin trích ra 
    đây một đoạn như sau: Càng ngày tôi càng trông tỏ hai nẻo đường, mà nhân 
    loại bắt buộc phải băng qua.
    
1- 
    Nẻo đường hướng ngoại, để thích ứng với hoàn cảnh. (Từ bé đến 35 tuổi).
    
2- 
    Nẻo đường hướng nội, để tiến hóa, để đắc Đạo, phối Thiên. (Từ 35 tuổi trở 
    đi).
    
- 
    Nẻo đường 1, tôi gọi là Âm Lộ, vì càng ngày càng trở nên hôn trầm, ám muội 
    (từ quẻ Cấn đến quẻ Khôn).
    
- 
    Nẻo đường 2, tôi gọi là Dương Lộ, là nẻo tiến về phía tâm linh, đưa đến sáng 
    láng, và giải thoát con người (từ quẻ Phục đến quẻ Kiền).
    
Nẻo 
    đường hướng ngoại, trớ trêu thay, lại là nẻo đường của các đạo giáo Công 
    truyền trên thế giới.
    
Phẩm 
    chất của các đạo giáo này là phẩm chất ngoại tại: Thượng Thần ngoại tại, 
    chân lý ngoại tại, lề luật ngoại tại, quyền uy ngoại tại, thưởng phạt ngoại 
    tại, đền đài, miếu mạo ngoại tại, kinh sách ngoại tại. Những người bước chân 
    vào con đường này, dần dần bị cấm suy, cấm nghĩ, cấm so sánh, càng ngày càng 
    bị “Viễn cách chỉ huy” (remotely controlled), và dần dà trở thành những hình 
    nộm trên sân khấu đời… mang danh Đi Đạo, mà suốt đời chẳng biết thế nào Đạo.
    
Con 
    người được lồng vào trong những khuôn sáo mà xã hội đã tạo dựng nên. Những 
    khuôn sáo này chính là chiếc giường cố định của Procrustes. Ai lùn, ai ngắn 
    thì sẽ kéo cho xương khớp lìa tan, miễn là phải vừa với khổ giường; ai dài, 
    ai lớn thì chặt bớt đi cho ngắn lại. Đi vào con đường này chỉ thấy toàn là 
    kỷ luật, còn tự do, hạnh phúc chỉ là những danh từ hảo, hữu danh, vô thực.
    
    Những đạo giáo công truyền này hết sức khác biệt nhau nhưng đều được giảng 
    dạy cho con người từ khi còn tấm bé. Chính vì đối tượng của chúng là Con 
    Người Ấu Trĩ nên dĩ nhiên chúng cũng rất ấu trĩ. Suy cho cùng, chúng cũng có 
    ích cho nhân loại, vì chúng đóng góp nhiều vào công cuộc giữ gìn an ninh 
    trật tự xã hội, giúp con người đối xử hẳn hoi với con người, ít là trên hình 
    thức bên ngoài, và theo tầm nhìn lối nghĩ của các Giáo Hội. Các đạo giáo 
    Công Truyền nói trên chỉ dạy phải thờ Trời, thờ Chúa, thờ Allah, thờ Phật, 
    và cho rằng con người chỉ làm được công chuyện như vậy mà thôi.
    
Con 
    đường thứ hai là con đường hướng nội, là con đường đem lại an bình tâm hồn 
    thật sự, và giải thoát thật sự. Ấn Độ xưa đã gọi giải thoát là Yoga, Moksa, 
    Kriya Yoga và ngày nay người ta gọi là self-Realization, hay God Realization 
    (Thực hiện Tự Tánh, Thực Hiện Thượng Đế) v.v… Phẩm chất của đạo giáo Mật 
    truyền này - một NỘI GIÁO DUY NHẤT CỦA NHÂN QUẦN - là Thần Linh nội tại, 
    chân lý nội tại, lề luật nội tại, quyền uy nội tại, thưởng phạt nội tại, 
    kinh sách nội tại, đền đài miếu mạo nội tại. Thần Linh nội tại chính là Căn 
    Nguyên con người; kinh sách, lề luật chính là Lương Tâm con người. Tất cả 
    đều là thiên nhiên, vĩnh cửu. Đền đài chính là thân tâm con người.
    
Con 
    người được khuyến khích suy tư, khuyến khích tìm cầu, khuyến khích thoát 
    khỏi những gì tù túng, trói buộc con người. Nó có mục đích giúp con người 
    vươn vượt lên trên thân phận con người, trở thành thần linh, ngay từ khi còn 
    ở gian trần này, hưởng hạnh phúc tâm linh, ngay từ khi ở gian trần  này. 
    Thực vậy, muốn biết mình có chứng đạo hay không, chỉ cần kiểm điểm xem mình 
    có được hạnh phúc thật sự hay không, con người mình có quang minh chính đại 
    hay không, có hồn nhiên, tiêu sái hay không. 
    
Vì 
    nó không đòi hỏi con người phải sống cố định theo khuôn khổ gian trần nào mà 
    chỉ đòi hỏi phát huy những khả năng vô biên sẵn có nơi mình, thực hiện tinh 
    hoa còn tiềm ẩn nơi mình, nên con người càng ngày càng thấy mình có thể 
    triển đương tiến hóa vô tận. Loại đạo giáo này dành cho những tao nhân, mặc 
    khách, những tâm hồn cao siêu, khoáng đạt.
    
Con 
    người thường tìm ra được NỘI GIÁO này lúc đầu đã hoa râm, lúc tuổi đã 35-40 
    và thường có may mắn là gặp được Chân Sư chỉ dạy. Nó có mục đích dạy người 
    thành Thần, thành Phật, thành Trời chứ không dạy lạy Trời, lạy Phật, vì 
    trong tương lai mai hậu con người sẽ tiến tới địa vị khả kính trên.
    
    Trên đây, Giáo Hoàng cho biết hiện nay nhân loại đang đứng trên ngưỡng cửa 
    Chủ quan chủ nghĩa (Subjectivism) và Nội Tại chủ nghĩa (Immanentism) 
    (tr.75), và thấy rằng vì thế mà nhân loại đang rời khỏi KiTô giáo. Đó là một 
    nhận xét vô cùng tinh tế: Nhân loại ngày nay thực tình đang muốn  đi sâu vào 
    tâm hồn để tìm ra thần linh nội tại trong tâm. Như vậy mới thực là Nước Trời 
    ở trong anh em (Luc 17;21). Mong rằng Ngài không chê trào lưu tư tưởng mới 
    này, chẳng những thế còn đóng góp cho nó phát triển.


22:49
Hoàng Phong Nhã 
 Posted in:  
0 nhận xét:
Đăng nhận xét