Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014
Việt Nam 1945: Những Ngày Cuối Cùng Trong Cuộc Đời Làm Chính Trị Của Học Giả Phạm Quỳnh
19:58
Hoàng Phong Nhã
No comments
Cho
tới nay mọi người đều biết là sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, 9 tháng 3,
1945, Nội Các Phạm Quỳnh đã từ chức và được thay thế bởi Nội Các của Học
Giả Trần Trọng Kim. Vắn tắt như vậy, nhưng một vấn đề
không kém quan trọng cần được đặt ra là chuyện gì đã xảy ra ở chung
quanh Hoàng Đế Bảo Đại và thái độ của nhà vua đối với Phạm Quỳnh trong
thời gian một tuần lễ kể từ ngày Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nhà vua mà
Phạm Quỳnh là tác giả , được ban hành, từ ngày 11 tháng 3 đến ngày 19
tháng 3 năm 1945, ngày Phạm Quỳnh và các thượng thư khác, mà người ta
thường quen gọi là Cơ Mật Viện hay Hội Đồng Thượng Thư hay Nội Các Phạm
Quỳnh tùy theo từng sách, từ chức và nhà vua tuyên bố đích thân điều
khiển việc nước, sau đó đã quyết định thành lập chính phủ mới? Trong bài
này người viết xin được phần nào trả lời câu hỏi này.
Nội Các Phạm Quỳnh Từ Chức và Vai Trò của Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng Phạm Khắc Hoè
Sau Đảo Chính 9 tháng 3, 1945 Hoàng Đế Bảo Đại vẫn còn tín nhiệm Học Giả Phạm Quỳnh và muốn giao thêm nhiệm vụ mới
Theo
Bảo Đại qua hồi ký sau này của ông thì một ngày sau khi Bản Tuyên Ngôn
Độc Lập được ban hành, ngày 12 tháng 3, nhà vua có triệu Đại Sứ Yokoyama
vào cung để trao bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông. Trong buổi gặp gỡ này
Bảo Đại đã đặt vấn đề xứ Nam Kỳ và trước khi cáo lui, Yokoyama với
giọng như dò hỏi và nhẹ nhàng gợi ý là giữa lúc Việt Nam đi vào con
đường mới, nhà vua có định thành lập một chính phủ hợp bởi những người
mới để đáp ứng nhu cầu của một nước Việt Nam mới hay không? Trước câu
hỏi này, Bảo Đại chỉ cười mà không trả lời, nhưng trong hồi ký, ông viết
thêm là “Trao sự điều khiển quốc gia cho những người mới…Một trong những mục tiêu mà tôi nhắm tới vào lúc tôi mới lên ngôi.”[2]
Những người mới này là những người hoàn toàn mới hay là luôn cả những
người có thể được coi là mới vì mới được nhà vua đưa vào làm việc khi
ông mới lên ngôi nhưng chưa thi thố được tài năng, trong đó có Phạm
Quỳnh và Ngô Đình Diệm? Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì Bảo Đại
không trực tiếp trả lời Yokoyama mà chỉ cười, một cái cười đầy ý nghĩa,
mà sau này lời chứng của Phạm Khắc Hoè, đương thời là Ngự Tiền Tổng Lý
Văn Phòng của nhà vua, người vốn đã là một cảm tình viên của Việt Minh,
nằm vùng trong Đại Nội bên cạnh nhà vua và Nam Phương Hoàng Hậu, nhân
chứng người ngoài duy nhất có mặt trong Đại Nội trong những ngày này cho
ta biết phần nào. Trong hồi ký của Phạm Khắc Hoè, Phạm Khắc Hoè đã
ghi rằng sáng ngày 12 tháng 3, một ngày sau khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập
được công bố, nhà vua có bảo ông thảo một “đạo dụ” cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt cho Chính Phủ Việt Nam Độc Lập để giao thiệp với người Nhật.[3] Sự
kiện này chứng tỏ là vào lúc đó Bảo Đại vẫn chưa có ý định thay thế
Phạm Quỳnh và còn tín nhiệm Phạm Quỳnh hay ít ra là muốn dùng Phạm Quỳnh
trong thời gian chuyển tiếp, một thời gian vô cùng quan trọng cho vị
nguyên thủ quốc gia, sau một biến cố vô cùng trọng đại và bất ngờ xảy ra
cho đất nước mình và chính mình là Đảo Chính 9 tháng 3 năm 1945, làm
chủ được vị thế của mình, đồng thời lượng định được tình hình rồi mới đi
đến những quyết định cuối cùng hay những thay đổi có tính cách lâu dài
hơn mà không gây xáo trộn. Điều này cũng được Hoàng Xuân Hãn kể lại
khi nhân chứng đáng tin cậy này được Nhà Văn Thụy Khuê phỏng vấn như
sau:
“Rồi đến lúc đảo chính Nhật, một hôm tôi ở Hà Nội, nghe tin radio biết rằng ông ấy (Vua Bảo Đại)
giao cho ông Phạm Quỳnh liên lạc với người Nhật để đổi mới gì gì đấy.
Đợi mãi hơn một tuần không có tin gì mới hết cả. chúng tôi nhiều người
nóng ruột lắm. Chính ở Bắc, anh em có mượn một người đi vào Huế dò tin
tức, người ta đi xe đạp từ Hà Nội về Huế, lúc ấy tầu hỏa bị đứt đoạn, đi
lại khó lòng lắm. Đến lúc trở về đây thì cũng chỉ biết tin vừa vừa
thôi, rằng hình như ông ấy giao cho Phạm Quỳnh, nhưng Phạm Quỳnh không
làm gì cả.”[4]
Nội Các Phạm Quỳnh từ chức – Vai trò của Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng Phạm Khắc Hoè
Mọi
chuyện đã hoàn toàn đổi khác vì Phạm Quỳnh đã từ chức và lịch sử đã
chuyển sang một hướng khác. Theo Phạm Khắc Hoè thì việc từ chức của Nội
Các Phạm Quỳnh và sự chấp thuận sự từ chức này của Vua Bảo Đại là do
chính Phạm Khắc Hoè gợi ý và chủ động. Thay vì tuân lệnh Vua Bảo Đại,
soạn thảo đạo dụ theo ý muốn của nhà vua, Phạm Khắc Hoè đã quay sang nói
xấu Phạm Quỳnh và khuyên nhà vua không nên dùng Phạm Quỳnh nữa. Câu
chuyện hôm đó kéo dài hơn nửa giờ và Bảo Đại quyết định tạm cử Phạm Quỳnh “cho dễ liên lạc với Nhật đã rồi sau sẽ hay.” Nguyên văn lời kể của Phạm Khắc Hoè như sau:
“Sau
một đêm thao thức, suy nghĩ về những chuyện trên, sáng ngày 12 tháng 3,
tôi vào Đại Nội làm việc với ý định nêu vấn đề cải tổ Viện Cơ Mật lại
với Bảo Đại. Nhưng chưa biết bắt đầu như thế nào?
“Tôi
đang ngồi bóp trán suy nghĩ thì một nguời thị vệ vào nói: Dạ bẩm, Hoàng
đế ban Cụ qua chầu có việc gấp. Tôi liền sang Phòng Phê thì Bảo Đại bảo
thảo một đạo Dụ cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt Chính
phủ Việt Nam độc lập giao thiệp với tối cao Cố vấn Nhật và các nhà chức
trách Nhật nói chung. Thấy tôi làm thinh, tỏ vẻ không thông mệnh lệnh
ấy, Bảo Đại nói thêm: Nếu ông thấy có chi khó khăn chi thì cứ đi bàn với
ông Lại mà làm cho kịp thời. Sau phút ngập ngừng, tôi nói toạc ra với
Bảo Đại rằng: Phạm Quỳnh là một người xấu, bị mọi từng lớp nhân dân oán
ghét và giới nhân sĩ trí thức khinh bỉ, mặc dầu ai cũng biết ông ta học
rộng, nói hay cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp. Cho nên nếu nhà vua thực
tâm vì dân, vì nước thì không nên dùng Phạm Quỳnh nữa. Câu chuyện kéo
dài hơn nửa giờ và cuối cùng Bảo Đại nói: Thôi! Hãy tạm cử Phạm Quỳnh cho dễ liên lạc với Nhật đã, rồi sau sẽ hay.
“Tôi trở về văn phòng thảo ngay một tờ Chỉ
cử Lại Bộ Thượng Thư Phạm Quỳnh tạm thời làm nhiệm vụ liên lạc giữa
Chính phủ Việt Nam độc lập với các nhà chức trách Nhật, đem lên cho Bảo
Đại ký rồi sao lục ngay cho các Bộ và Tối cao cố vấn Nhật. Làm như vậy,
tôi chắc rằng những chữ chỉ, tạm thời, và liên lạc thế
nào cũng làm cho Phạm Quỳnh căm thù mình! Ấy thế nhưng sáng ngày 14
tháng 3, khi gặp tôi trong buổi lễ cáo yết Liệt Thánh, Phạm Quỳnh đã tỏ
ra ngọt ngào với tôi hơn bao giờ hết. Và lúc buổi lễ kết thúc, ông ta
thiết tha căn dặn tôi chiều hôm ấy trên đường đi vào Đại Nội, ghé qua Bộ
Lại nói chuyện.
“Đúng
hai giờ chiều, tôi ghé qua Bộ Lại, Phạm Quỳnh đón tiếp tôi niềm nở hơn
trước nhiều và giữ lại nói chuyện hơn một tiếng đồng hồ. Nội dung câu chuyện xoay quanh tương lai tốt đẹp của Tổ quốc và tiền đồ vẻ vang của những người trí thức Âu-Á kiêm thông.”[5]
Đoạn
hồi ký này rất quan trọng. Nó cho người ta thấy Hoàng Đế Bảo Đại lúc
đầu chưa có ngay ý định thay thế Phạm Quỳnh và lập một chính phủ mới.
Không những thế, ngay sau ngày 11 tháng 3, nhà vua đã có ý định bổ nhiệm
Phạm Quỳnh thay mặt Chính Phủ độc lập trong việc giao thiệp với Tối Cao
Cố Vấn Nhật và các giới chức Nhật khác bằng một đạo Dụ.
Nhà vua đã tới văn phòng làm việc rất sớm, tới trước cả Phạm Khắc Hoè,
để thực hiện quyết định này. Nhưng Phạm Khắc Hoè đã phá hỏng tất cả
khiến cho ít ra một thời kỳ chuyển tiếp đã không được thực hiện và một
tình trạng không chính phủ đã xảy ra từ ngày 19 tháng 3, ngày sáu vị
thượng thư từ chức và được chấp nhận cho đến ngày 8 tháng 5, ngày nội
các Trần Trọng Kim họp phiên họp đầu tiên với đầy đủ các nhân sự để nhận
lãnh công tác và Vua Bảo Đại có lúc “đã cuống lên” vi không kiếm ra được người lập nội các như lời kể của Hoàng Xuân Hãn,[6] trong khi tình hình đất nước vô cùng nghiêm trọng, có nhiều việc cấp bách cần phải làm.
Thành công bước đầu,Phạm Khắc Hoè sau đó đã làm một “tờ chỉ”, một văn kiện kém quan trọng hơn một “đạo dụ”
rất nhiềuđể cử Phạm Quỳnh vào vai trò tạm thời nàynhằm hạ thấp vaitrò
và uy tín của Phạm Quỳnh. Cho là chưa đủ, có lẽ vì cho tới thời điểm đó
Phạm Khắc Hoè chỉ mới hành động do ý riêng của cá nhân mình do sự ghen
ghét với Phạm Quỳnh sau “một đêm thao thức suy nghĩ..”, Phạm
Khắc Hoè sau đó một mặt hỏi ý kiến Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Tân
Việt kỳ cựu hoạt động cho Việt Minh ở Huế đương thời, sau này là Chủ
Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên rồi Chủ Tịch
Ủy Ban Hành Chính Thừa Thiên, mặt khác vận động với các thượng thư Bùi
Bằng Đoàn và Ưng Úy để hai vị này thuyết phục Bảo Đại loại bỏ Phạm
Quỳnh và “vận động toàn thể Cơ Mật Viện từ chức”.[7]
Kết quả là sáng sớm ngày 17, Bảo Đại đã cho gọi Phạm Khắc Hoè qua phòng
làm việc của mình, Phòng Phê, và ra lệnh cho ông này soạn thảo một đạo
dụ theo đó “từ nay Trẫm sẽ tự cầm quyền và chế độ chính trị sẽ căn cứ vào khẩu hiệu Dân vi quý”.[8] Dụ này mang tên là Dụ Số 1, được ban hành ngày 17 tháng 3 năm 1945.
Tiếp theo đó là “ Khoảng 10 giờ sáng ngày 19 tháng 3, cả sáu vị Thượng thư vào yết kiến nhà vua đưa đơn xin từ chức” và đã được Bảo Đại chấp thuận.[9] Cũng
nên để ý là theo hồi ký của Bảo Đại, trước đó Phạm Quỳnh có báo cáo cho
nhà vua biết về những phản ứng xảy ra trong Hội Đồng, hiểu theo nghĩa ở
đây là Hội Đồng Thượng Thư, theo đó người ta sợ hoặc là người Nhật sẽ
đổi ý, hoặc là người Pháp sẽ trở lại, hoặc là Vua Duy Tân hay Hoàng Thân
Cường Để sẽ trở về… Điều này cho phép người ta suy đoán rằng tình trạng
hoang mang của các vị thượng thư này ngoài những tin tức liên quan đến
tình hình thời đó, phần nào còn là do Phạm Khắc Hoè tạo ra qua hai
Thượng Thư Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy. Tuy nhiên, để trả lời Phạm Quỳnh,
nhà vua đã dứt khoát bảo với ông này qua nguyên văn: “Ông liệu mà
bảo họ chấm dứt những chuyện ăn nói lung tung và mưu mô đó đi… Hoàng đế
là Trẫm! Bảo họ đừng quên điều đó. Nếu ngày nào Trẫm phải ra đi, ngày
đó sẽ không còn Đế Quốc Việt Nam này nữa!”[10]
Những sự kiện này và câu nói của Bảo Đại cho ta thấy một điều là ngay
từ những ngày đầu nhà vua đã phải đương đầu với hoạt động của những
người Cộng Sản xuyên qua người nằm vùng của họ, ngay trong Đại Nội bên
cạnh nhà vua, là Phạm Khắc Hoè, nạn chống đối nhau trong nội bộ các quan
lại cao cấp trong triều, đồng thời sự hiểu biết và thái độ cương quyết
của ông.
Sự thù ghét và chống đối Phạm Quỳnh của Phạm Khắc Hoè
Câu
hỏi được đặt ra là tại sao Phạm Khắc Hoè lại thù ghét và chống lại Phạm
Quỳnh như vậy? Trong hồi ký của ông, Phạm Khắc Hoè không cho biết lý
do mà chỉ nói rằng Phạm Quỳnh là một người “bản chất xấu xa và nguy hiểm”[11] nhưng
người ta có thể suy đoán hai điều. Trước nhất là sự ghen tị của Phạm
Khắc Hoè đối với Phạm Quỳnh. Sự ghen tị này bắt nguồn từ sự kiện là cả
hai người đều là thân cận của Bảo Đại ở vào thời điểm này. Thêm vào đó,
Phạm Khắc Hoè có gốc quan trường, được huấn luyện theo đường lối chính
thống để làm công chức, quan lại với chức vụ trước đó là Quản Đạo Đà
Lạt, một chức vụ cũ của Ngô Đình Diệm, còn Phạm Quỳnh không có gốc quan
trường mà xuất thân là một nhà báo, một học giả tiếng tăm, bất ngờ được
chuyển sang làm Ngự Tiền Văn Phòng rồi Thượng Thư Bộ Học và Lại. Tại
sao lại cứ là Phạm Quỳnh mà không phải là Phạm Khắc Hoè? Thứ hai, Phạm
Khắc Hoè vốn cùng quê với Tôn Quang Phiệt và có liên lạc với Tôn Quang
Phiệt từ trước nên đã chịu ảnh huởng của Tôn Quang Phiệt, do đó đã trở
thành nằm vùng cho Tôn Quang Phiệt. Nhất cử nhất động của vua Bảo Đại
cũng như những gì xảy ra ở trong Đại Nội đều được Phạm Khắc Hoè kể cho
Tôn Quang Phiệt nghe và hỏi ý Tôn Quang Phiệt hết. Sự kiện Phạm Quỳnh
bị loại bỏ do đó phần nào có thể là do chủ trương và vận động của những
người Cộng Sản hay thiên Cộng ở Huế lúc bấy giờ hay xa hơn nữa, y hệt
như trường hợp của Trường Thanh Niên Tiền Tuyến do Phan Anh thành lập.
Phạm Khắc Hoè chỉ là một nhân vật bị Cộng Sản lợi dụng qua Tôn Quang
Phiệt mà thôi.[12]
Nhưng dù đúng dù sai, hành động gièm pha, ngăn cản Vua Bảo Đại chính
thức chỉ định Phạm Quỳnh vào chức vụ mới bằng một đạo Dụ và thay bằng
một tờ Chỉ, rồi sau đó vận động với các nhân vật tai mắt ở Huế lúc đó,
tiếp tục lung lạc nhà vua dẫn đến việc sáu vị thượng thư từ chức và tình
trạng vô chính phủ đã xảy ra sau đó, khiến cho lịch sử Việt Nam diễn
tiến theo một chiều hướng khác. Đây là khúc quanh thứ nhất trong thời
gian ngắn ngủi chưa tới 4 tháng của năm 1945. Nếu không có sự thay đổi
do Phạm Khắc Hoè chủ động gây ra này, guồng máy hành chánh của Chính Phủ
Nam Triều từ trung ương đến địa phương vẫn tiếp tục hoạt động bình
thường, không bị xáo trộn và người dân không bị hoang mang trong thời
gian chuyển tiếp như Hoàng Xuân Hãn đã kể, chưa nói tới sự kiện Phạm
Quỳnh đã bộc lộ thái độ lạc quan về “tương lai tốt đẹp” của Tổ Quốc và ‘tiền đồ vẻ vang”
của những người trí thức Âu Á kiêm thông, vì đây là dịp nhà học giả này
thực hiện những gì từ lâu ông vẫn ôm ấp và mong đợi, xuyên qua những
bài viết của ông, không phải cho riêng cá nhân ông mà cho cả đất nước và
dân tộc. Nên nhớ Phạm Quỳnh lúc đó là Thượng Thư Bộ Lại là bộ đứng đầu
lục bộ lo việc quản lý các quan văn ở trong nước và trước đó là Ngự
Tiền Tổng Lý của Vua Bảo Đại nên ông nắm vững sinh hoạt hành chánh và
nhân sự trong sinh hoạt này. Với Phạm Quỳnh trong vai trò liên lạc với
người Nhật, việc chuyển giao nền hành chánh từ người Nhật sang người
Việt sẽ chấm dứt sớm hơn và triều đình Huế có cơ hội nắm vững quyền hành
hơn trước khi tình thế thay đổi, chưa kể tới việc thay thế các quan lại
tham nhũng hay bất lực.[13]
Đây là một điều đáng tiếc cho Vua Bảo Đại và Đế Quốc Việt Nam nói riêng
và cho dân tộc Việt nam nói chung. Cuối cùng, để chính thức giải thích
thái độ của mình đối với Phạm Quỳnh, Phạm Khắc Hoè viết:
“Thực
ra, tôi không có oán thù cá nhân gì với Phạm Quỳnh và tôi nghĩ hắn có
tội, thì sẽ bị nhân dân trừng trị. Khi nghĩ như vậy, tôi không ngờ rằng
chỉ khoảng một tháng sau, Phạm Quỳnh đã bị đền tội trước nhân dân.”[14]
Qua
đoạn văn này, Phạm Khắc Hoè không nói rõ Phạm Quỳnh đã bị đền tội như
thế nào, bị bắt không thôi hay bị bắt rồi bị thủ tiêu và ông đã biết
những gì về chuyện này.
Hoạt động cuối cùng của Phạm Quỳnh
Buổi
họp chiều ngày 15 tháng 8, 1945 tại văn phòng Vua Bảo Đại với Nhà Vua,
Phó Tổng Trưởng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao Trần Văn Chương và Đại Nội Đại
Thần Nguyễn Duy Quang.
Đây
có thể là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Phạm Quỳnh gặp lại nhà
vua và các giới chức khác trong Đại Nội từ sau khi ông từ chức cùng với
Nội Các của ông, từ ngày 19 tháng 3 và người duy nhất nói tới buổi họp
này là Phạm Khắc Hoè. Buổi họp diễn ra sau khi Phạm Khắc Hoè vào gặp
Vua Bảo Đại để báo cáo với nhà vua về “tin Nhật đã đầu hàng Đồng Minh vô
điều kiện” vào buổi chiều ngày 15 tháng 8 và kéo dài từ khoảng 3 giờ
30 đến hơn 5 giờ. Lúc đầu chỉ có nhà vua, Trần Văn Chương và Nguyễn Duy
Quang, sau đó Phạm Quỳnh mới tới do con trai ông là Phạm Bích đương
thời làm việc trong Đại Nội dưới quyền của Nguyễn Duy Quang lấy xe của
Đại Nội đón vào. Phạm Khắc Hoè không có mặt trong buổi họp này vì ông
được nhà vua nhờ sang gặp Trần Trọng Kim để hỏi xem Trần Trọng Kim “có ý
kiến chi trước tình hình mới không?” nên ta không biết nội dung là để
bàn những gì? Phạm Khắc Hoè chỉ cho ta biết là trên đường từ dinh Tổng
Trưởng Nội Các về “thì gặp trên cầu Tràng Tiền một chiếc xe ô-tô
của Đại Nội trong đó có Phạm Quỳnh và con trai của ông ta là Phạm Bích
làm việc ỏ Đại Nội dưới quyền trực tiếp của Nguyễn Duy Quang. Tôi liên
tưởng ngay đến việc gặp Trần Văn Chương vào phòng Bảo Đại lúc tôi mới ra
đi và đoán rằng, chắc trong khi tôi đi gặp Trần Trọng Kim thì ở Đại Nội
bọn Trần Văn Chương, Nguyễn Duy Quang và Phạm Quỳnh đã họp với Bảo Đại
bàn mưu tính kế trở về với chủ cũ là thực dân Pháp”. Hôm sau, ngày
16 tháng 8, Phạm Khắc Hoè lại kiểm chứng về buổi họp này bằng cách hỏi
người thị vệ thuờng trực phòng làm việc của nhà vua, thì được người này
cho biết là sau khi Trần Văn Chương vào chầu thì Phạm Bích lấy xe đi đón
Phạm Quỳnh đến và họp hơn 5 giờ mới chấm dứt.[15]
Trần Đình Nam đề nghị bắt Phạm Quỳnh vào những ngày chót nhưng không được Vua Bảo Đại chấp nhận
Ý
kiến bắt Phạm Quỳnh này được Trần Đình Nam, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong
Chính Phủ Trần Trọng Kim, chia sẻ với Phạm Khắc Hoè, Nguyễn Hữu Thí và
Trần Đình Nam vào một buổi tối, khoảng 20-7-1945, tại nhà Trần Đình Nam
khi bốn người kiểm điểm “công tác của Nội Các Trần Trọng Kim trong hai tháng vừa qua” trong đó Trần Đình Nam yêu cầu mọi người phải“cảnh
giác đối với cả bọn thân Pháp, cả bọn thân Nhật và nhất là vừa thân
Nhật, vừa thân Pháp như loại Phạm Quỳnh thì lại càng vô cùng nguy
hiểm…rồi hạ giọng nói nhỏ cho biết rằng Nam định bắt giam Phạm Quỳnh, vì
bộ Nội vụ đã có nhiều chứng cớ về tội ác của Phạm Quỳnh trong thời
thuộc Pháp, mà còn cả về âm mưu của nó hiện đang lo lót, chạy vạy với
Nhật để hòng lên nắm quyền, làm tay sai cho Nhật.”[16]
Ý kiến kiến kể trên đã được Trần Đình Nam chính thức thực hiện vào cuối tháng 7 bằng một “tờ phiến”[17]
của Bộ Nội Vụ gửi lên Vua Bảo Đại tâu xin bắt giam Phạm Quỳnh. Tờ
phiến này đã được Phạm Khắc Hoè trình lên nhà vua để xin phê chuẩn nhưng
Bảo Đại không làm theo mà bảo “hãy đợi vài hôm”, rồi ba hôm sau ra lệnh
“tạm xếp việc ấy.”[18]
Phạm Quỳnh đã thoát nạn nhưng chỉ trên dưới một tháng sau ông đã bị
Việt Minh bắt và những người dân sống bên bờ sông thuộc làng An Cựu gần
Biệt Thự Hoa Đường không bao giờ còn thấy bóng dáng quen thuộc của “Cụ
Phạm”[19] nữa.
Kết Luận
Trong
cuộc đời làm văn hóa cũng như trong cuộc đời làm chinh trị, Phạm Quỳnh
có rất nhiều kẻ thù nhưng không kẻ thù nào nguy hiểm bằng những kẻ thù
ông phải đương đầu trong thời gian từ sau Cuộc Đảo Chính 9 tháng 3 năm
1945 cho tới ngày ông và nội các từ chức, tức ngày 19 cùng tháng và luôn
cả sau này nữa. Lý do là vì đằng sau những kẻ thù này là Đảng Cộng Sản
với mục tiêu tối hậu của họ là cướp chính quyền từ tay Hoàng Đế Bảo
Đại. Chưa hết, điều nguy hiểm hơn nữa nằm ở chỗ Phạm Khắc Hoè, cảm tình
viên của họ, nằm vùng ngay trong Đại Nội và Tôn Quang Phiệt, đảng viên
của họ, đã từ lâu hoạt động ngay giửa thành phố Huế. Họ đã thành công.
Phạm Quỳnh không những chỉ bị giảm vai trò trong việc giao thiệp với
Nhật mà còn hoàn toàn bị loại trừ. Giữa lúc mọi người từ quan lại đến
quần chúng nóng lòng mong đợi phản ứng của Vua Bảo Đại và của triều đình
thì nhà vua đã phải đối phó với một khủng hoảng nội các kéo dài cho
mãi tới ngày 8 tháng 5 khi Chính Phủ Trần Trọng Kim chính thức nhận lãnh
trách nhiệm mới chấm dứt. Thời gian chuyển tiếp để nhà vua ổn định
được tình hình ở trung ương cũng như ở địa phương đã bị rút ngắn khiến
công việc thu hồi chính quyền từ trong tay người Nhật, kiện toàn nền độc
lập cũng như thu hồi Xứ Nam Kỳ và các nhượng địa khác bị chậm lại, đặc
biệt công tác cứu đói gặp trở ngại rất nhiều. Lịch sử Việt Nam cũng bị
chuyển sang một hướng khác.
Phạm Cao Dương, TS
[1] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc, Hồi Ký (in
lần thứ ba, có sửa chữa và bổ sung). Huế: Nhà Xuất Bản Thuận Hoá,
1987, tr. 16-17. Đặng Văn Nhâm, “Nhân Ngày Giỗ Thứ 54 Cố Học Giả Phạm
Quỳnh, Tìm Hiểu Cái Chết Oan Khiên, Bi Thảm Của Một Danh Tài Lỗi Lạc”,
trong Giải Oan Lập Một Đàn Tràng. Silver Spring, MD: Ủy Ban Phục Hồi Danh Dự Phạm Quỳnh, 2001, tr. 254-255.
[2] S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris: Plon, 1980, tr. 105; Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Hồi Ký Chánh Trị 1913-1987, Nguyễn Phước Tộc Xuất Bản. Los Alamitos, CA: Nhà Sách Xuân Thu phát hành, 1990, tr. 163.
[3]Nên
để ý là cho tới thời điểm này Việt Nam bị Pháp bảo hộ nên quyền ngoại
giao do người Pháp nắm giừ. Vì vậy trong tổ chức triều đình không có cơ
quan nào lo công tác này. Phạm Quỳnh được Bảơ Đại muốn bổ nhiệm bằng
một đạo dụ là vì thế.
[4] Thụy Khuê, Nói Chuyện với Hoàng Xuân Hãn…, đã dẫn, tr. 128.
[5] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc, tr. 18-19
[6]Thụy Khuê, Nói Chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp. Westminster, CA: Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2002, tr. 134-135.
[7] -nt-, tr. 20 và 24.
[8] Dụ này mang tên là Dụ Số 1, được ban hành ngày 17 tháng 3 năm 1945 nguyên văn như sau:
Dương Lịch ngày 17 tháng 3 năm 1945
Nước
Nhật muốn hoàn toàn thực hiện chương trình sây nền thịnh vượng chung ỏ
Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam ta, và Trẫm tuyên bố Việt Nam độc
lập rồi.
Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử và thần dân, nên tự cầm lấy quyền để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng dụ rằng
1) Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu “DÂN VI QUÍ’
2)
Trong chính giới sẽ chiêu tập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại
nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể
hợp tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á.
3) Trẫm sẽ tài định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân.
Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phuợng trong bài “Một Đạo Dụ, Một Chế Độ” đăng trên Tri Tân Tạp Chí ngày 20 tháng 4 năm 1945, trên trang đầu, đã viết như sau:
“Ba
điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ này, thật là trên thuận lòng
giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở sự thi hành triệt để
khác nào như đói mong ăn và khát mong uống vậy.
“Nếu
một khi nhà nước dùng được ngưòi tài, đức vẹn hai ra gánh vác, đảm
đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách thân dân, thể
tất đến dân nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục hưng.
“Được như vậy, đạo dụ ngày 17 tháng ba đáng ghi vào trang đầu lịch sử của nước Việt-Nam độc lập.”
Còn Luật Sư Bùi Tường Chiểu, trong bài “Đạo Dụ Số 1 Của Đức bảo Đại Hoàng Đế” đăng trên Thanh Nghị,
số 107, “Số Đặc-San Chính Trị”, ra ngày 5 tháng Năm 1945, cũng nhấn
mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của đạo dụ này. Ngay những dòng mở đầu
ông viết:
“Đạo
dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta sau này có một tính cách quan
trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này đã nêu lên một cách tóm
tắt những quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết chính thể nước
Việt-Nam sau này.” Rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân Vi Quý, ông phân
tích:
“Nay
đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi quí có nghĩa là đức Bảo-Đại đã
hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các nước văn minh đã cho là
không hợp thời. Đã lấy dân làm trọng. đã lấy quyền lợi dân để trên tất
cả thì vua tất chỉ là một cơ quan tối cao trong nước điều khiển những cơ
quan chính trị khác để phụng vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với
nguyện vọng của cả quốc dân mà thi hành. Như thế là trong nền chính
trị đức Bảo-Đại Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân ta đi vào một con đường
mới.”
Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới hiến pháp. Theo ông:
“Xong
chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của bản Dụ mà nói rằng đức
Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong câu cơ quan ấy sẽ
có một cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân minh các
cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo
hiến-luật để ấn định rõ ràng những quyền hành của các cơ quan chính
trị”.
[9] Phạm Khắc Hoè, đã dẫn, tr.25.
[10] Le Dragon d’Annam, tr. 105; Con Rồng Việt Nam, tr. 164.
[11] Phạm Khắc Hoè, đã dẫn, tr. 20-21.
[12]
Tôn Quang Phiệt (1900-1973), học Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương, năm thứ
hai, theo Tân Việt, bị đuổi, sang Trung Quốc cùng với Trần Phú , Vương
Thúc Oánh…, bị Pháp bắt giam ở Hà Nội, sau được thả, trở thành đảng viên
Cộng Sản và dạy ở trường Thăng Long ở Hà Nội, rồi Thuận Hóa ở Huế.
Chính trong thời gian này Phạm Khắc Hoè đã được móc nối để trở thành nằm
vùng trong Đại Nội. Nguyễn Quyết Thắng và Nguyễn Bá thế. Từ Điển Nhân vật Lịch Sử Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hóa, 1999.
[13] Về vai trò của bộ lại và các bộ trong triều đình Nhà Nguyễn, xin xem Võ Hương An, Từ Điển Nhà Nguyễn. Irvine, CA: Nam Việt Publisher, 2012, tr. 60.
Về sự quan trọng và nhu cầu cấp bách của công tác Việt hóa guồng máy hành chánh ờ thời nàỳ, xin xem Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên. Saigon: Nam Chi Tùng Thư xuấtn, Không rõ năm, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 34- 37.
[14] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế…, tr. 47.
[15] -nt-, tr. 59-61.
[16] -nt- , tr. 45.
[17] Phiến là báo cáo của của Nội Các hay các bộ gửi lên nhà vua.
[18] Phạm Khắc Hoè, tr. 46.
[19] Về danh xưng “Cụ Phạm”, xin xem: Nguyễn Phước Bửu Tập, “Chiến Sĩ Ái Quốc Phạm Quỳnh”, trong Giải Oan Lập Một Đàn Tràng, đã dẫn, tr. 223.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét