[2] Bạch thư của nhà nước CHXHCNVN “Sự thật về quan hệ Việt Nam Trung Quốc 30 năm qua. Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất bản ở Bắc Kinh năm 1954).
Thứ Sáu, 4 tháng 9, 2015
Sự Thật Lịch Sử Của Cái Gọi Là “Cách Mạng Tháng Tám” Và Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
07:52
Hoàng Phong Nhã
No comments
Lịch
sử Việt Nam đầu thế kỷ 20 vẫn còn nhiều bí ẩn do sự bưng bít, tuyên
truyền một chiều, thần thánh hóa sự kiện để tô hồng chuốt lục đánh bóng
công trạng của đảng Cộng sản Việt Nam. Cả một guồng máy
tuyên truyền đồng loạt nhai đi nhai lại để nhồi nhét vào tâm thức người
dân để họ tin rằng đó là sự thật về cuộc cách mạng mùa Thu 19-8-1945.
“Nào là cuộc ‘tổng khởi nghĩa giành chính quyền’ được ‘chuẩn bị công
phu’, ‘diễn ra nhịp nhàng trên cả nước’ và đã ‘thành công rực rỡ’, đưa
Việt Nam ‘bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ
nghĩa xã hội’. Nào là “cuộc cách mạng Mùa Thu ‘là thắng lợi của chủ
nghĩa Mác – Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử
cụ thể của cách mạng Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối cách mạng đúng đắn và đầy sáng tạo’ của Đảng Cộng sản Việt
Nam”.
Để phục hồi sự thật lịch sử, trả lại những gì của lịch sử cho lịch sử,
chúng ta phải tìm hiểu những sự kiện lịch sử đã xảy ra trong bối cảnh
lịch sử Việt Nam vào thời điểm đó. Cuối thế kỷ thứ 19, thực dân Pháp xâm
chiếm Việt Nam và chính thức thống trị dân tộc Việt ngày ký kết hiệp
ước Patenôtre 6-6-1884 nhưng đến đầu thế kỷ 20, thế giới mới biết đến
Việt Nam nhiều hơn với “Tiếng Bom Sa Điện” của anh hùng Phạm Hồng Thái
ném bom toan giết viên Toàn Quyền Pháp Merlin tại khu Tô giới Liệt Cường
Sa Điện bên bờ sông Châu Giang ở Trung Quốc tối 20-6-1924. Cảnh sát Tô
Giới đuổi theo gấp nên Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông Châu Giang tự vận
và được nhân dân vùng này vớt lên và chôn cất trong nghĩa trang Hoàng
Hoa Cương nơi chôn cất 72 Liệt sĩ hy sinh trong cuộc cách mạng dân chủ
do Tôn Dật Tiên lãnh đạo.
Sau tiếng bom Sa Điện, tháng 7 năm 1925, nhà cách mạng Phan Bội Châu bị
thực dân Pháp bắt tại Trung Quốc. Ngày 23-11-1925, tòa án thực dân Pháp
kết án nhà cách mạng Phan Bội Châu chung thân khổ sai khiến cả nước xôn
xao bàn tán[1]. Một phong trào rầm rộ trên toàn quốc và cả chính giới
tại nước Pháp cũng đòi ân xá ngay cho nhà cách mạng. Do áp lực mạnh mẽ
của công luận, Toàn Quyền Pháp phải ký giấy ân xá và trả tự do cho nhà
cách mạng ngày 24-12-1925 và đưa về quản thúc tại Bến Ngự Huế. Ngọn lửa
cách mạng chống Pháp lại bùng lên với cuộc Tổng khởi nghĩa Yên Bái với
13 anh hùng Quốc Dân Đảng bước lên ‘Đoạn Đầu Đài’. Ngày 10-5-1941, đảng
Cộng sản Đông Dương thành lập tổ chức Việt Nam Đồng Minh Hội để cán bộ
CS núp dưới danh nghĩa này hoạt động lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân
Việt Nam kháng chiến chống Pháp để bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản ở
Đông Dương. Tháng 9 năm 1940, Phục Quốc Quân thuộc tổ chức Việt Nam Phục
Quốc Đồng minh Hội do Trần Trung Lập, Đoàn Kiểm Điểm lãnh đạo khởi
nghĩa tại Lạng Sơn. Đoàn Kiểm Điểm tử trận, Trần Trung Lập bị bắt và bị
thực dân Pháp xử tử hình. Thực dân Pháp vừa đàn áp xong cuộc khởi nghĩa
của Phục Quốc Quân thuộc Việt Nam Quang Phục Hội tháng 9 năm 1940 ở Lạng
Sơn thì tháng 9 năm 1941, quân Nhật vượt biên giới vào Đông Dương. Tình
hình Việt Nam bước qua một khúc quanh lịch sử khi quân Nhật có mặt ở
Đông Dương.
Tháng 10 năm 1944, Miền Bắc vỡ đê, vụ lúa tháng 10 bị ngập lụt gây
thiệt hại lớn cho nông dân. Chính quyền bảo hộ Pháp áp dụng chính sách
thu mua bóc lột sức lao động của nông dân với giá rẻ mạt, giá 25 đồng 1
tấn so với giá thị trường 200 đồng để nộp cho quân phiệt Nhật. Tại một
số nơi, quân phiệt Nhật bắt nông dân nhổ lúa để trồng cây đay (bố) để
cung cấp cho nhu cầu chiến tranh của chúng, trong khi đó Việt Minh lại
phát động phong trào đồng loạt cướp kho lúa khắp nơi đem cất giấu… Tất
cả đã đưa tới một hậu quả nặng nề là nạn đói kinh hoàng ngày 1-3-1945
năm Ất Dậu khiến gần 2 triệu người bị chết đói trên 10 triệu dân miền
Bắc, chiếm gần 1/5 dân số Bắc Việt Nam.
Thế kỷ XIX, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thúc đẩy các cường quốc
phương Tây phải đua nhau đem quân đi xâm chiếm thuộc địa để cung cấp tài
nguyên phục vụ cho mẫu quốc. Chế độ thực dân với những hình thức bóc
lột tài nguyên của các nước thuộc địa đem về làm giàu cho mẫu quốc đã
tạo ra những chế độ thống trị dã man các nước nhược tiểu. Chính những
bóc lột thậm tệ của giai cấp tư bản với những bất công xã hội nên trào
lưu xã hội chủ nghĩa nở rộ như một sự cứu rỗi nhân loại. Trong tình
huống đó, chủ nghĩa Cộng sản của karl Marx và Engel được đón nhận nồng
nhiệt tại các nước đang phát triển nơi mà giới công nhân đang bị giới tư
bản bóc lộ đã nung nấu tinh thần đấu tranh “Giai cấp” tạo điều kiện
thuận lợi để chủ nghĩa Cộng sản phát triển khắp nơi như một loài cỏ dại.
Với sức mạnh quân sự áp đảo, Thực dân Pháp đã buộc triều đình nhà
Nguyễn phải ký kết hiệp ước Patenôtre 1884 chính thức đặt Việt Nam dưới
sự thống trị của nước Pháp. Sau cuộc thế chiến lần thứ nhất 1914-1918,
thế giới mới biết đến Việt Nam nhiều hơn với “Tiếng Bom Sa Điện” của anh
hùng Phạm Hồng Thái ném bom toan giết viên Toàn Quyền Pháp Merlin tại
khu Tô giới Liệt Cường Sa Điện bên bờ sông Châu Giang ở Trung Quốc tối
20-6-1924. Cảnh sát Tô Giới đuổi theo gấp nên Phạm Hồng Thái nhảy xuống
sông Châu Giang tự vận và được nhân dân vùng này vớt lên và chôn cất
trong nghĩa trang Hoàng Hoa Cương nơi chôn cất 72 Liệt sĩ hy sinh trong
cuộc cách mạng dân chủ do Tôn Dật Tiên lãnh đạo.
Sau tiếng bom Sa Điện, tháng 7 năm 1925, nhà cách mạng Phan Bội Châu bị
thực dân Pháp bắt tại Trung Quốc. Ngày 23-11-1925, tòa án thực dân Pháp
kết án nhà cách mạng Phan Bội Châu chung thân khổ sai khiến cả nước xôn
xao bàn tán. Một phong trào rầm rộ trên toàn quốc và cả chính giới tại
nước Pháp cũng đòi ân xá ngay cho nhà cách mạng. Do áp lực mạnh mẽ của
công luận, Toàn Quyền Pháp phải ký giấy ân xá và trả tự do cho nhà cách
mạng ngày 24-12-1925 và đưa về quản thúc tại Bến Ngự Huế.
Ngọn lửa cách mạng chống Pháp lại bùng lên với cuộc Tổng khởi nghĩa Yên
Bái với 13 anh hùng Quốc Dân Đảng bước lên ‘Đoạn Đầu Đài’. Cuộc khởi
nghĩa tuy thất bại nhưng tạo ra một âm vang lớn phấn kích lòng yêu nước
của đồng bào Việt Nam khắp nơi. Trong thời điểm đó, đảng cộng sản Đông
Dương đã ra đời với chiêu bài yêu nước, giải phóng dân tộc kết hợp với
giải phóng thân phận nghèo khó của công nhân và nông dân nên đã gây dựng
phong trào tại một số nơi… Nhân ngày quốc tế lao động 1 tháng 5 năm
1930, đảng bộ Cộng Sản Nghệ An phát động công nhân biểu tình tại nhà máy
diêm quẹt Bến Thủy. Cuộc biểu tình đầu tiên được công nhân thợ thuyền
tích cực hưởng ứng vì cán bộ CS tuyên truyền là: “chống lại giai cấp chủ
nhân bóc lột, chống lại chủ đất, lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”
nên cộng sản tổ chức liên tiếp 4 cuộc biểu tình cướp chính quyền địa
phương lập ra các “Sô Viết” để điều hành, phát động cuộc tranh đấu với
địa chủ để phân chia ruộng đất, phân chia thóc lúa. Cuộc biểu tình ngày
12-9-1930 với hàng ngàn người tham dự, thực dân Pháp đã đem máy bay đến
ném bom và cho lệnh lính Lê Dương xảsúng bắn vào đoàn người biểu tình.
Cuộc đàn áp khốc liệt khiến phong trào “Sô Viết Nghệ Tĩnh” tan rã, Cộng
sản phải rút vào hoạt động bí mật.
Thời kỳ này, thế giới lại bước vào cuộc Thế chiến lần thứ hai với sự
tham dự của quân phiệt Nhật tại châu Á. Khi thực dân Pháp vừa đàn áp
xong cuộc khởi nghĩa của Phục Quốc Quân thuộc Việt Nam Quang Phục Hội
tháng 9 năm 1940 ở Lạng Sơn thì tháng 9 năm 1941, quân Nhật vượt biên
giới vào Đông Dương. Tình hình Việt Nam bước qua một khúc quanh lịch sử
khi quân Nhật có mặt ở Đông Dương.
Tháng 10 năm 1944, Miền Bắc vỡ đê, vụ lúa tháng 10 bị ngập lụt gây
thiệt hại lớn cho nông dân. Trong khi đó, chính quyền bảo hộ Pháp áp
dụng chính sách thu mua bóc lột sức lao động của nông dân với giá rẻ
mạt, giá 25 đồng 1 tấn so với giá thị trường 200 đồng để nộp cho quân
phiệt Nhật. Tại một số nơi, quân phiệt Nhật lại bắt nông dân nhổ lúa để
trồng cây đay (bố) để cung cấp cho nhu cầu chiến tranh của chúng, ngoài
ra Việt Minh lại phát động phong trào đồng loạt cướp kho lúa khắp nơi
đem cất giấu… Tất cả đã đưa tới một hậu quả nặng nề là nạn đói kinh
hoàng ngày 1-3-1945 năm Ất Dậu khiến gần 2 triệu người bị chết đói trên
10 triệu dân miền Bắc, chiếm gần 1/5 dân số Bắc Việt Nam.
Lúc 18 giờ ngày 9-3-1945, Đại sứ Nhật Matsumoto gửi tối hậu thư cho
Decoux, toàn quyền Pháp ở Đông Dương (Việt, Miên, Lào) phải giao nộp
chính quyền, đặt tất cả quân đội và công sở Pháp dưới quyền Tổng Tư Lệnh
quân đội Nhật. Pháp từ chối. Đúng 20 giờ, quân Nhật nổ súng tại Hà Nội,
Sài Gòn và khắp Đông Dương. Chỉ trong 1 đêm, quân Nhật làm chủ tình
thế. Toàn quyền Decoux và các quan chức cao cấp của Pháp đều bị Nhật bắt
giữ.
Ngày 11-3-1945, Hoàng Đế Bảo Đại triệu tập Cơ Mật Viện triều Nguyễn họp
khẩn cấp và ra tuyên bố “Huỷ bỏ Hiệp ước 1884 và Khôi phục chủ quyền
cuả Việt Nam”. Ngày 12-3-1945, Cao Miên tuyên bố độc lập và ngày
15-4-1945, Lào tuyên bố độc lập.
Ngày 17-4-1945, Vua Bảo Đại cử Trần Trọng Kim thành lập chính phủ và cử
Phan Kế Toại làm Khâm Sai Bắc bộ, Nguyễn văn Sâm làm Khâm Sai Nam bộ và
Trần văn Lai làm Đốc Lý Hà Nội. Ngày 8-5-1945, Chính phủ Trần Trọng Kim
tuyên bố chương trình Hưng Quốc, lá cờ “Quẻ Ly” được chọn làm quốc kỳ
và bài “Đăng Đàn” của triều đình nhà Nguyễn được chọn làm quốc ca.
“Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong những điều kiện khó khăn về chính
trị, an ninh và kinh tế như vậy. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn đói ở miền Bắc đã làm
ngót hai triệu người thiệt mạng, chính phủ Trần Trọng Kim đã ấn định một
chương trình sáu điểm:
1. Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chính cho các viên chức Việt Nam.
2. Thâu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp.
3. Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.
4. Cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
5. Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo.
6.
Thiết lập các Ủy ban tư vấn quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên
cứu cải tổ chính trị, hành chính và giáo dục. Chỉ trong thời gian bốn
tháng (từ 17 – 4 đến 16 – 8), chính phủ Kim đã thực hiện được gần hết
chương trình Cứu đói: Bộ Tiếp tế do bác sĩ Nguyễn Hữu Thi cầm đầu nỗ lực
điều động việc vận tải thóc từ Nam ra Bắc. Lúc này, Pháp đã mất khả
năng ngăn cấm việc tiếp tế gạo và, nhờ sự can thiệp của chính phủ Kim,
giới quân phiệt Nhật cũng không còn thi hành chính sách độc đoán về sản
xuất nông phẩm… Khoảng tháng 6-1945, khi Thủ tướng Kim gặp Tổng tư lệnh
Tsuchihashi để yêu cầu Nhật dứt khoát trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng,
Đà Nẵng và toàn bộ đất Nam Kỳ cho Việt Nam.
Ngày 6-8-1945, Hoa Kỳ thả trái bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima
và ngày 9-8-1945, trái bom nguyên tử thứ hai thả xuống thành phố
Nagasaki. Ngày 10-8-1945, Nhật Hoàng họp nội các và tuyên bố đầu hàng vô
điều kiện. Ngày 13-8-1945, được quốc tế Cộng Sản thông báo, đảng Cộng
Sản Đông Dương họp khẩn tại Tuyên Quang quyết định tổng khởi nghĩa, cướp
khí giới quân Nhật, chiếm chính quyền trước khi quân đồng minh tới.
Nhân cơ hội, Tổng hội Giáo giới tổ chức biểu tình ủng hộ chính phủ Trần
Trọng Kim và nền độc lập của Việt Nam ngày 17-8-1945 với cờ quốc gia
thì một số cán bộ Việt Minh bất ngờ trương cờ đỏ sao vàng và tuyên bố
“Chính quyền đã về tay nhân dân” rồi hô khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh”.
Đám đông quần chúng từ lâu mong mỏi nền độc lập nên say sưa nhiệt tình
ủng hộ cuộc “Cướp Chính Quyền” của một chính quyền đã từ chức. Diễn tiến
cuộc cướp diễn đàn, tung cờ, hô khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh hết sức bất
ngờ, chớp nhoáng nên đám đông như một phản ứng tự nhiên hô khẩu hiệu mà
chẳng biết Việt Minh là cái gì, chỉ nghĩ rằng là một phong trào yêu
nước. Sách sử báo chí của đảng CS ca tụng cuộc “Cướp Chính quyền” nhu
một cuộc cách mạng gọi là Cách Mạng Mùa Thu. Cả một guồng máy tuyên
truyền đồng loạt nhai đi nhai lại để nhồi nhét vào tâm thức người dân để
họ tin rằng đó là sự thật về cuộc cách mạng mùa Thu 19-8-1945.”.
Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn Độc Lập khai sinh nhà nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đứng trên phương diện Quốc Tế Công Pháp thì
Việt Nam đã chính thức độc lập khi Hoàng Đế Bảo Đại triệu tập Cơ Mật
Viện Triều Nguyễn và công bố hủy bỏ hiệp ước Patenôtre 1884 và tuyên bố
nền Độc lập của Việt Nam của một chính quyền hợp pháp kế thừa chính
thống của một quốc gia Việt Nam. Điều đáng tiếc là tuyên bố Độc Lập và
khai sinh chính quyền quốc gia Việt Nam với chính phủ Trần Trọng Kim bị
ảnh hưởng ít nhiều là ảnh hưởng của chế độ Quân Phiệt Nhật nên không
được quốc tế ủng hộ. Trong khi đó, bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí
Minh dù có viện dẫn phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và
một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp
chỉ để mong Hoa Kỳ công nhận trước khi quân đồng minh vào Việt Nam.
Chính vì vậy, khác với các bản tuyên ngôn độc lập của các quốc gia tuyên
xưng nhân quyền, dân quyền thì bản tuyên ngôn 2-9-1945 không phải là
một tuyên ngôn nhân quyền mà chỉ nhằm mục đích cướp thời cơ, khai sinh
nước VNDCCH đặt quốc tế trước sự kiện đã rồi để mong Hoa Kỳ và các nước
công nhận… Thế nhưng không một nước nào công nhận cái gọi là Nhà Nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Năm 1949, Sau khi Mao Trạch Đông chiếm được toàn bộ lãnh thổ TQ đến
ngày 18-1-1950, nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa công nhận Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa và ngày 31-1-1950, Liên Bang Sô Viết công nhận nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa là nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trước hiểm họa làn sóng đỏ sẽ tràn xuống Đông Nam Á,ngày 7-2-1950, Hoa
Kỳ, Anh và các nước công nhận chính phủ Quốc Gia Bảo Đại để “Be Bờ”,
ngăn chặn làn sóng đỏ xuống phương Nam. Cuộc chiến Việt Nam đã trở thành
cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa một bên là chủ nghĩa CS xâm lược và một
bên là thế giới tự do ngăn chặn làn sóng đỏ của chủ nghĩa CS. Hoa Kỳ đã
liên tục làm áp lực buộc chính phủ Pháp phải trao trả độc lập cho quốc
gia Việt Nam
Lịch sử đã chứng minh rằng, Cộng sản Việt Nam đã núp dưới danh nghĩa
kháng chiến, lợi dụng lòng yêu nước của người dân Việt Nam để nhuộm đỏ
cả Đông Dương, bành trướng chủ nghĩa Cộng sản mở đường xuống Đông Nam Á.
Chính Hồ Chí Minh đã không giấu giếm sự thật khi gặp Salisbury tai Hà
Nội năm 1965: “Những ngày tuyệt diệu rồi đây sẽ đến khi tất cả các đồng
chí đã đến bên nhau. Tất cả mọi người đang nỗ lực tranh đấu để đem đến
sự thành công của Miền Bắc Việt Nam, đó chính là sự thành công của những
người Nga, những người Tàu, và những chế độ tại Đông Âu. Tất cả đều
muốn làm cho Miền Bắc Việt Nam trở thành một mẫu mực, một nơi triển lãm
thu hút muôn người, và một mẫu mực lý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản có
thể đưa đến cho các dân tộc tại Á Châu và đặc biệt nhất là vùng Đông Nam
Á”. Đây là bằng chứng quá rõ ràng cho mọi người thấy Hồ Chí Minh đã
không bao giờ thực tâm tranh đấu vì Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc cho dân
tộc Việt Nam mà sử dụng cả dân tộc Việt Nam như một công cụ để phục vụ
tham vọng bành trướng của Đế Quốc Cộng Sản Nga Sô. Sau khi chiếm được cả
miền Nam, chính Lê Duẫn, tổng bí thư của đảng CSVN đã xác nhận một lần
nữa: “Chúng ta đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” là đánh cho Liên Sô, đánh cho
Trung Quốc và ngày nay, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”. Bộ mặt thật
của CS đã phơi bầy trước lịch sử. Cuộc kháng chiến của dân tộc đã bị lợi
dụng, Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã hy sinh hàng triệu người
VN vô tội để bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ cả Đông Dương.
Sự thật lịch sử đã được phục hồi sau mấy thập niên bị Cộng sản bưng
bít. Trước đây, chúng ta bị bộ máy tuyên truyền của Cộng sản lừa dối
rằng lực lượng đồng minh Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân,
Thái Lan và Đại Hàn đến Việt Nam để“Xâm lược” một nước nhỏ bé là Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nhân dân miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, sau hơn
30 năm, chúng ta mới biết cả Liên Sô, Trung Cộng lẫn Bắc Triều Tiên đều
tham chiến ở Việt Nam. Việt Nam trở thành chiến trường giữa 2 khối Cộng
Sản và thế giới tự do. Sự thật lịch sử này được một phát ngôn viên Bộ
Ngoại giao Trung Quốc phát biểu như sau:“Trong giai đoạn giúp Việt Nam
chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc đã vì Việt Nam mà đóng góp không biết bao
nhiêu tài lực, nhân lực, vật lực, pháo binh, công binh, nhân viên đường
sắt, nhân viên thư tín, hải quân, không quân, hậu cần vận tải … 16 sư
đoàn, hơn 300.000 lính Hồng quân Trung Quốc ở Việt Nam trong hơn 3 năm 9
tháng đấu tranh. Tác chiến đối không 2153 lần, bắn rơi 1707 máy bay Mỹ,
bắt sống 42 phi công Mỹ, viện trợ Việt Nam xây dựng Hải Phòng, Hòn Gai,
các thành phố duyên hải và xây dựng hệ thống phòng ngự ở tam giác châu
thổ sông Hồng, tu sửa và xây dựng các tuyến đường huyết mạch, sân bay,
tuyến đường sắt đông tây, mở đường trên biển chuyên chở vũ khí vào miền
Nam và chi viện cho đường mòn Hồ Chí Minh. Từ năm 1950 đến năm 1978,
Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam hơn 200 tỷ mỹ kim, trong đó 93% là
viện trợ không hoàn lại, đó là chưa kể xương máu mà 1446 chiến sỹ đã hy
sinh, 4200 người trọng thương… những hy sinh đó tuyệt đối không thể tính
được bằng tiền”. Đây chính là lý do tại sao tập đoàn Việt gian CS phải
dâng đất-nhường biển, bán nước từng phần cho đế quốc mới Trung Cộng.
Gần đây, chúng ta mới biết được là các đơn vị phòng không Liên Sô và
phi công Bắc Hàn cũng tham dự cuộc chiến tranh Việt Nam. Cựu Trung Tướng
Yevgeni Antonov, nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự của Liên Sô tại Việt
Nam tiết lộ rằng Liên Bang Sô Viết đã gởi một trung đoàn phòng không
với đầy đủ vũ khí và trang bị sang Việt Nam tham chiến và 13 người lính
phòng không Liên Xô đã chết trên chiến trường miền Bắc. Trung đoàn phòng
không Liên Sô đã bắn rơi những chiếc máy bay Mỹ đầu tiên trên bầu trời
Hà Nội, kể cả chiếc chiến đấu cơ A-4 Skyhawk của Thượng Nghị Sĩ John
McCain. Theo tiết lộ của cựu Trung tướng Liên Sô Yevgeni Antonov, chỉ
huy lực lượng phòng không Liên Sô tại Việt Nam từ 1969 đến 1970 thì Việt
Nam là một phòng thí nghiệm cho vũ khí Liên Sô để chuẩn bị cho việc máy
bay Mỹ và NATO oanh tạc vào nội địa Liên Sô trong trường hợp có chiến
tranh giữa hai khối sau này.
Sự thật lịch sử đã chứng minh rằng chính Hồ Chí Minh, cán bộ của Cộng
sản Quốc tế đã đưa dân tộc vào cuộc chiến tranh ý hệ, hy sinh xương máu
của hàng triệu người dân lành vô tội để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản
xuống toàn cõi Đông Dương.
Sinh lực của dân tộc bị tiêu hao trầm trọng, hàng triệu người dân vô
tội hy sinh, đất nước nghèo nàn tan hoang đổ nát, lòng người ly tán. Cái
gọi là thống nhất đất nước chỉ là sự xâm lăng của bạo lực và hận thù
khiến dân tộc Việt Nam ly tán, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm
tự do.
Cộng sản Việt Nam đã phơi bầy bản chất độc tài dã man trả thù, hành hạ
đày đọa quân dân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tù gọi là
“Cải tạo” cùng với biện pháp đổi tiền, đánh tư bản mại sản, bắt đi kinh
tế mới để tước đoạt tài sản của nhân dân… Cộng sản Việt Nam tuyên truyền
rằng đã “Thống nhất được đất nước” nhưng thực tế đã chứng minh rằng cái
gọi là giải phóng miền Nam đã để lại trong lòng dân tộc một sự phân ly
ngăn cách không gì có thể hàn gắn được.
Từ tháng 8-1945 đến 1-1946, Hồ Chí Minh đã gửi 8 bức thư cho TT Harry S
Truman và bộ Ngoại giao Hoa Kỳ kêu gọi Hoa Kỳ công nhận và giúp ngăn
quân đội Pháp trở lại Đông Dương. Thế nhưng, toán OSS cơ quan tình báo
chiến lược của Hoa Kỳ ở Đông Dương do Thiếu tá Thomas More và Đại úy
Patty sống cùng với Hồ Chí Minh trong hang Pắc Pó đã báo cáo sự thật về
con người Hồ Chí Minh về Hoa Thịnh Đốn. Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn
Ái Quốc, cán bộ của Đệ tam quốc tế CS nên vẫn sinh hoạt đảng, hát quốc
tế ca, học tập chủ nghĩa Mác Lê cho các đảng viên Cộng Sản. Chính vì
vậy, Hoa Kỳ đã không công nhận chính phủ Việt Nam dân Chủ Cộng Hòa của
Hồ Chí Minh. Nếu là bất cứ người Việt Nam nào thì vận mệnh đất nước Việt
Nam đã thay đổi ngay từ lúc đó, nếu không độc lập ngay thì cũng hưởng
qui chế chế độ Ủy trị của Liên Hiệp Quốc. Sau thế chiến lần thứ hai, với
sự ra đời của Liên Hiệp Quốc và nhất là chủ trương giải thực của Tổng
Thống Hoa Kỳ Roosevelt đã mở đầu cho phong trào dân tộc tự quyết của các
quốc gia Đông Nam Á. Indonesia tuyên bố độc lập ngày 17 tháng 8 năm
1945, Hoa Kỳ trao trả độc lập cho Philippines năm 1946, Burma giành lại
độc lập từ tay người Anh năm 1948 và Pháp chính thức rút khỏi Đông Dương
sau hiệp định Genève 20-7-1954. Người Anh đã trao lại độc lập cho
Malaya năm 1957 và sau đó là Singapore, Sabbah và Sarawak năm 1963 trong
khuôn khổ Liên bang Malaysia.
Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký kết hiệp ước sơ bộ với Pháp cho phép quân
Pháp đổ bộ vào Bắc bộ thay thế quân đội Trung Hoa Dân Quốc. Thủ đoạn
nham hiểm của họ Hồ nhằm loại bỏ Quốc Dân Đảng Trung Hoa hậu thuẫn cho
Việt Nam Quốc Dân Đảng từ trước đến nay. Ngày 6-7-1946, khai mạc hội
nghị giữa Pháp và VN tại Fontainbleau. Phái đoàn VN do Phạm văn Đồng cầm
đầu. Sau 2 tháng, hội nghị bế tắc chỉ đưa ra một “Thỏa Ước Tạm Thời”
không bao giờ được thi hành nên chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh bùng
nổ từ Hà Nội ngày 19-12-1946.
Ngày 8-3-1949: Bảo Đại ký hiệp định Élysées với Tổng Thống Pháp Vincent
Auriol trong đó, tuyên bố thành lập quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm
Quốc Trưởng. Quốc gia Việt Nam là một quốc gia thành viên trong Liên
Hiệp Pháp. Ngày 24-4-1949, Quốc Trưởng Bảo Đại về nước. Ngày 1-7-1949,
thành lập chính phủ Bảo Đại. Các chính phủ kế tiếp do Thủ tướng chính
phủ Nguyễn Phan Long (21-1-1950), chính phủ Trần văn Hữu (6-5-1950),
chính phủ Nguyễn văn Tâm (6-6-1952), chính phủ Bửu Lộc (11-1-1954) và
chính phủ Ngô Đình Diệm (7-7-1954).
Ngày 1-10-1949, sau khi chiếm Bắc Kinh và phần lớn lục địa Trung Quốc,
Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nhà nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc.
Ngày 2-10-1949, Liên Sô công nhân Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ngay
sau khi Mao Trạch Đông chiếm được Trung Hoa lục địa năm 1949 đã công
khai tuyên bố: “Tất cả các lãnh thổ và hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng
của Trung Quốc đã bị phe Đế Quốc chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau
Cách Mạng 1911, như Ngoại Mông, Triều Tiên, An Nam (Việt Nam), Hồng
Kông, Macao cùng những đảo tại Thái Bình Dương như Sakhalin, Đài Loan,
Bành Hồ sẽ phải được giao hoàn cho Trung Quốc”. Tháng 8 năm 1965, Mao
Trạch Đông tuyên bố trắng trợn ý đồ xâm chiếm Việt Nam như sau:“Chúng ta
phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam,
Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore. Việt Nam là bàn đạp tiến
xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được …”. [2]
Ngày 18-1-1950, nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc chính thức thừa
nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ngày
31-1-1950, Liên bang Sô Viết thừa nhận Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã chính thức
đứng vào hàng ngũ các nước cộng sản nên Trung Quốc bắt đầu công khai
viện trợ vũ khí tối tân cho Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Hồi ký của La Quý
Ba nguyên cố vấn và Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam từ 1945-1954 đã
viết: “Tháng 1, 1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu
Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp. Trung
ương đảng ta theo yêu cầu của Hồ chí Minh và Trung ương Đảng Đông
Dương, đã báo cáo và được Mao Chủ Tịch đồng ý, quyết định cử tôi bí mật
sang Việt Nam, làm đại diện liên lạc giữa Trung ương đảng Cộng Sản Trung
Quốc và Trung Ương Đảng Cộng sản Đông Dương…”.
Ngày 7-2-1950, Hoa Kỳ, Anh quốc thừa nhận quốc gia Việt Nam do Quốc
Trưởng Bảo Đại lãnh đạo để ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng
Sản xuống Đông Nam Á. Kể từ thời điểm này, cuộc chiến Việt Nam không còn
là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mà đã trở thành cuộc chiến tranh
ý thức hệ giữa 2 hệ thống tư tưởng: Chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Tư
Bản của thế giới tự do.
Nhìn lại lịch sử chúng ta thấy rằng cái gọi là “Tuyên Ngôn Độc Lập
2-9-1945” và khai sinh cái gọi là “Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”,
trên thực tế chỉ là một cuộc “Cướp Chính Quyền” đúng nghĩa của nó. Luận
điệu tuyên truyền cho rằng “là cuộc cách mạng Mùa Thu ‘là thắng lợi của
chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh
và đường lối cách mạng đúng đắn và đầy sáng tạo’ của Đảng Cộng sản Việt
Nam” là hoàn toàn láo khoét. Cái gọi là “Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc” chỉ
là bánh vẽ, là chiêu bài mê hoặc quần chúng. Thực tế lịch sử đã chứng
minh rằng đảng Cộng sản Việt Nam không hề được quần chúng ủng hộ vì nếu
được nhân dân ủng hộ thì tại sao đảng ngày 16-3-1951, đảng CSVN phải đổi
tên là Đảng lao Động Việt Nam, tổ chức trá hình của đảng Cộng Sản Đông
Dương do Trường Chinh làm Tổng Bí Thư để kêu gọi công nhân và nhân dân
chống Pháp. Sau khi xâm chiếm miền Nam, ngày 25-4-1976 Cộng hòa Lâm Thời
Miền Nam Việt Nam tổ chức bầu cử quốc hội. Ngày 2-7-1976, Quốc hội
tuyên bố thống nhất Việt Nam, đặt tên nước là Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam, cờ và Hiến pháp là cờ và Hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Cái gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng” và “Chính quyền Lâm thời
Miền Nam Việt Nam” bị giải tán. Ngày 14 đến 20-12-1976, Đại hội Đảng Lao
Động họp lần đầu quyết định lấy lại tên là đảng Cộng sản Việt Nam, Lê
Duẫn dược bầu là Tổng Bí Thư. Bộ mặt thật của cộng sản đã phơi bầy trước
lịch sử sau hơn 25 năm núp dưới danh nghĩa đảng Lao Động, lợi dụng lòng
yêu nước của toàn dân để bành trướng chủ nghĩa cộng sản xâm chiến miền
Nam, nhuộm đỏ cả Việt, Miên, Lào.
Sự thật lịch sử chứng minh rằng, tập đoàn Việt gian CS đã cướp công
kháng chiến biến kháng chiến thành thỏa hiệp với thực dân Pháp để chia
đôi đất nước, cướp công giải phóng của cái gọi là MTDTGPMN để nhuộm đỏ
toàn cõi VN, mở đường xuống Đông Nam Á cho đế quốc mới Trung Cộng. Lời
tuyên bố của Lê Duẫn “Chúng ta đánh đế quốc Mỹ là đánh cho Liên Sô, đánh
cho Trung Quốc” và mới đây, lời phát biểu của Nguyễn Phú Trọng, TBT
đảng CS Việt Nam tại Trung tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc tế HK rằng
“Cuộc chiến Việt Nam không phải là để chống lại đất nước Hoa Kỳ, lại
càng không phải là chống lại nhân dân Hoa Kỳ”. Tất cả đã phơi bầy một sự
thật phũ phàng là tập đoàn Việt gian CS đã lợi dụng lòng yêu nước của
toàn dân để phục vụ cho phong trào CS quốc tế để nhuộm đỏ Việt Miên Lào
và đau đớn tủi nhục vô cùng khi tập đoàn Việt gian CS bất nhân hại dân
bán nước đã hy sinh hàng chục triệu người Việt Nam vô tội, thi hành lệnh
của quan thày Trung Quốc tiêu hao sinh lực dân tộc Việt để ngày nay đế
quốc mới Trung Cộng dễ dàng thao túng thống trị dân tộc Việt. Chính vì
thế, tập đoàn Việt gian CS chính là “Tội Đồ của Dân Tộc”: Trời không
dung, Đất chẳng tha. Thần Người đều căm hận. Chắc chắn tập đoàn Việt
gian CS bất nhân hại dân bán nước sẽ phải cúi đầu chịu tội trước Phiên
Tòa Lịch Sử trong “Ngày Toàn Dân Phán Xét” nay mai.
Phạm Trần Anh
[1]
Các tài liệu cũng như chứng cứ sau này cho biết chính Lý Thụy tức Hồ
Chí Minh và Lâm Đức Thụ chủ mưu việc này để mưu dùng bàn tay của thực
dân Pháp giết chết một lãnh tụ quốc gia đối thủ của cộng sản, đồng thời
nhận được một món tiền lớn để cả 2 cùng cưới 2 chị em người Tàu. Sau
ngày “Cách mạng tháng Tám”, Lâm Đức Thụ về Việt Nam bị Hồ Chí Minh chỉ
thị mật cho Việt Minh giết chết để bịt miệng tại Thái Bình.
[2] Bạch thư của nhà nước CHXHCNVN “Sự thật về quan hệ Việt Nam Trung Quốc 30 năm qua. Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất bản ở Bắc Kinh năm 1954).
[2] Bạch thư của nhà nước CHXHCNVN “Sự thật về quan hệ Việt Nam Trung Quốc 30 năm qua. Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất bản ở Bắc Kinh năm 1954).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét