1) Tính bình đẳng của các loại lao động của con người mang hình thái giá trị của những sản phẩm lao động: Hình thái tự nhiên của lao động của con người biểu hiện ra ở những chi phí khác nhau về sức lao động trong các loại lao động khác nhau – trong xã hội hàng hoá tất cả đã được quy về một bản thể chung, một thứ lao động đồng nhất, trừu tượng, biểu hiện thành hình thái giá trị. Vì trừu tượng, giá trị không thể trông thấy được nhưng đã quy định mọi lưu thông vận động của hàng hoá.2) Thước đo những lao động cá thể bằng thời gian mang hình thái đại lượng giá trị những sản phẩm lao động: Các hình thái lao động khác nhau về chất có thể đo bằng thời gian lao động cụ thể, tức là độ dài riêng biệt của sự chi phí sức lao động làm cho những sản phẩm khác nhau về chất thì trong xã hội hàng hoá, thước đo ấy đã biểu hiện thành một hình thái đại lượng giá trị, tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết (trung bình, tuỳ theo sức sản xuất…) để tạo ra sản phẩm trao đổi.
Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015
Về điều bí ẩn trong “thế giới hàng hoá” của Marx
19:50
Hoàng Phong Nhã
No comments
Lữ Phương
Bộ Tư bản của Karl Marx[*]
mở đầu bằng câu: “Trong những xã hội do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
chi phối thì của cải biểu hiện ra là một “đống hàng hoá khổng lồ”, còn từng hàng
hoá một thì biểu hiện ra là hình thái nguyên tố của của cải ấy. Vì vậy, công
cuộc của chúng ta bắt đầu bằng việc phân tích hàng hoá” (TBI/1 tr. 51). Một câu
khởi đầu đơn giản, tưởng không có gì quan trọng, nhưng ai đã đọc Marx nhiều lần
đều nhận thấy tiềm ẩn ở đây một bản nội dung rút gọn của lý luận mácxít về
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cùng với số phận lịch sử của nó.
Nhân cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu lần này, khi
đọc lại Marx, tôi muốn dừng lại câu dẫn trên đây để tìm hiểu rõ hơn thực chất
của cái vật thể được ông gọi là “hình thái nguyên tố của của cải” tạo
dựng nên xã hội tư bản, qua đó tập trung làm sáng tỏ vấn nạn cần được nêu ra
ngay từ đầu để mọi thảo luận về học thuyết Marx có thể đi xa hơn: trong một thế
giới tràn ngập hàng hoá, với mọi người, hàng hóa chỉ là những vật thể hữu dụng
“tự nhiên” trong đời sống hàng ngày, nhưng qua phân tích và sự diễn tả của Marx,
tại sao cái vật thể tầm thường ấy lại hiện ra với rất nhiều điều “khó hiểu”, “kỳ
quái”, đến độ có thể gọi là “bí ẩn”, “siêu hình”?
Câu hỏi này không thể không dẫn đến một câu hỏi
khác: trong lý giải của Marx, đâu là nguồn gốc sâu xa gây ra sự “khó hiểu” của
vật thể được gọi là “hình thái nguyên tố” làm nên sự giàu có về mặt vật chất cho
xã hội tư bản? Khai triển ý nghĩa của vấn nạn ấy người ta phải hiểu như thế nào
về cái gọi là tính đặc trưng mácxít của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa với tư cách là một hình thái lịch sử đặc thù? Và qua vấn nạn mácxít về sự
bí ẩn của hàng hoá trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đó, chúng ta có
thể hiểu thêm được gì về những “bí ẩn” nằm ngay trong chính bản thân sự suy
tưởng của Marx về lịch sử, về bản chất xã hội của con người, những điều mà Marx
đã gợi ra cách đây hơn cả một thể kỷ rưỡi, nay vẫn còn gây ra tranh cãi?
Giá trị, đại lượng giá trị, thời gian lao động xã hội cần thiết,
sức sản xuất
Để bắt đầu tìm hiểu những vấn đề phức tạp nói trên, chúng ta hãy cùng với Marx
hình dung trước mặt mình có hai món hàng do hai người làm ra và dự định đem trao
đổi với nhau. Trước khi trao đổi chúng ta được cho biết rằng theo quan điểm kinh
tế cổ điển của Adam Smith, hàng hoá là do lao động khổ nhọc tạo ra, và ở
Marx thì điều này hàm nghĩa đó là một hình thái lao động sản xuất trực tiếp, thứ
lao động tạo ra những sản phẩm vật chất có thể cảm nhận bằng giác quan, đối
tượng nghiên cứu của kinh tế học. Trừ những trường hợp riêng biệt, nguyên tắc
của trao đổi là ngang giá, hai bên đều có lợi, mình cần cái mình không có mà
không bị thiệt thòi. Muốn như vậy thì phải tìm ra một chuẩn mực chung giữa hai
hàng hoá để làm cơ sở cho cuộc trao đổi đó.
Chuẩn mực chung đó là gì? Trong trao đổi đơn giản, Marx cho rằng nếu đó là sự
chi phí sức lao động tính bằng độ lâu (durée) về thời gian của các loại lao động
riêng biệt thì trong xã hội mà sự trao đổi hàng hoá đã trở thành hiện tượng “chi
phối”, phổ biến, sự chi phí về sức lao động đó đã biểu hiện như một hình thái
đồng nhất, trừu tượng mang ý nghĩa của một bản thể xã hội gọi là giá trị.
Không có cái bản thể chung quy định cho hình thái giá trị này làm cơ sở thì việc
trao đổi hàng hoá sẽ trở nên tuỳ tiện, không thể bảo đảm được nguyên tắc ngang
giá, có lợi cho các đối tác trên phạm vi toàn xã hội.
Trong một xã hội của sản xuất và trao đổi hàng hoá, giá trị có thể xem như là
một thứ linh hồn, vô hình, không ai thấy được, nhưng lại có khả năng điều khiển
mọi chuyển động của cái hình thái xã hội ấy. Từ cách nhìn sự vật ở những dáng vẻ
bên ngoài của nó, người ta cho rằng khái niệm giá trị là viễn vông, không giúp
gì cho việc tính toán sản xuất (vì trong thực tế chỉ có giá cả), nhưng
với Marx điều đó không đúng: không ai có thể thấy linh hồn của người bên cạnh
mình, nhưng người ta vẫn có thể thông qua những biểu hiện hành vi, ứng xử để lần
dò. Marx cho đó chính mới là công việc của những người làm khoa học: từ những
biểu hiện của sự vật, người ta có thể tìm ra yếu tính của nó (đi từ
giá cả để hiểu giá trị).
Vấn đề đặt ra ở đây là hãy xét xem thực thể của giá trị là gì? Với Marx khái
niệm đó không phải là cái ý nghĩa tâm lý mưu cầu lợi ích của từng cá nhân (trong
sản xuất lẫn tiêu thụ) mà, từ sự cấu tạo của nó, nó là một bản thể xã hội, là
một hình thái lao động trừu tượng đã chưng cất lên từ tất cả các loại lao
động dị biệt, dù khéo léo hay đơn giản, được tổng hợp, trung bình hoá thành một
hình thái đồng nhất, hình thành
“trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã
hội, với một trình độ thành thạo trung bình, một cường độ lao động trung bình”
(TBI/1, tr. 56), kết tinh lại trong hàng hoá dưới hình thái “lượng thời gian lao
động” và được gọi là “thời gian lao động xã hội cần thiết”.
Một tính chất khác cũng đã được Marx nhấn mạnh để
làm rõ hơn nội dung của cái có thể gọi là “sức lao động xã hội” này: nó hoàn
toàn tuỳ thuộc vào sức sản xuất của mỗi xã hội cụ thể, diễn ra trong các
điều kiện về phát triển nhất định nào đó của sự phát triển về sản xuất xã hội
(ta có thể hiểu đó là trình độ khoa học, kỹ thuật, quản lý, sáng tạo, phát minh,
tổ chức điều hành…) mà mang chất lượng khác nhau. Qua sự trình bày của Marx thì
sức sản xuất của lao động của một xã hội càng lớn thì thời gian lao động cần
thiết để sản xuất ra một vật phẩm nào đó sẽ càng nhỏ, sức lao động bỏ ra càng
ít, trái lại nếu sức sản xuất của xã hội đó càng yếu, thì khối lượng lao động
kết tinh trong vật phẩm càng lớn, giá trị của nó càng lớn, sức lao động bỏ ra
càng nhiều.
Giá trị là một khái niệm nền móng trong học thuyết Marx về sự vận
động của lao động trong xã hội tư bản,
không khởi đầu từ thực thể này, thì không thể lĩnh hội được bản chất của chế độ
tư bản thông qua những phạm trù kinh tế học thường nghiệm của nó.
Giá trị và giá trị sử dụng trong hàng hoá
Ai có chú ý đến vấn đề giá trị lao động trong
lý luận của Adam Smith đều biết tuy có nhắc đến khái niệm giá trị sử dụng,
nhưng khái niệm này đã bị bỏ qua để chỉ nhấn mạnh khái niệm giá trị trao đổi
trong quan hệ hàng hoá. Marx cũng tập trung tìm hiểu khái niệm đó (và cho đó là
hình thái biểu hiện của giá trị) nhưng lại cho rằng người ta không thể hiểu được
thực chất của giá trị nếu tách rời khỏi khái niệm đi chung với nó là giá trị sử
dụng, cả hai cùng tồn tại và cần được phân tích để bổ sung cho nhau: trong khi
hình thái giá trị trong hàng hoá được xem là trừu tượng, phi tự nhiên thì giá
trị sử dụng lại chính là hình thái tự nhiên, cụ thể của nó, là mục đích cuối
cùng trong chu kỳ lưu chuyển của hàng hoá.
Trong phân tích của Marx, hai hình thái gíá trị nói
trên cùng tồn tại trong hàng hoá nhưng trong quá trình trao đổi, hình thái giá
trị sử dụng đã bị tạm thời gạt hẳn sang một bên để giá trị trồi lên làm tròn
chức năng trao đổi ngang giá của nó với những món hàng khác, và trong khi tập
trung làm tròn chức năng này, theo cách nói của Marx, hàng hoá đã không còn giữ
được “một nguyên tử nào về giá trị sử dụng” cả (TBI/1, tr.55). Giá trị bây giờ
đã trở thành một thực thể hoàn toàn trừu tượng trong vận động, một hình thái phi
vật thể, không bị ràng buộc gì với cái gánh nặng vật chất của giá trị sử dụng đã
kéo trì nó xuống mặt đất. Nó tự tạo ra một con đường đi độc lập cho nó.
Nhưng cũng chính từ sự thoát ly của giá trị trong
trao đổi mà Marx ghi nhận tính chất mâu thuẫn nội tại trong bản thân sự tồn tại
của hàng hoá: sự mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị (biểu hiện thành giá
trị trao đổi). Sự mâu thuẫn này chính là sự mâu thuẫn giữa tính chất trừu tượng,
đồng nhất, phi tự nhiên của giá trị trong trao đổi hàng hoá với tính chất tự
nhiên, cụ thể, muôn màu muôn vẻ của giá trị sử dụng chứa đựng trong bản thân nó.
Người ta đổi hàng hoá để khai thác giá trị sử dụng có ích của nó, nhưng người ta
không thể nào có được giá trị sử dụng ấy nếu không thông qua giá trị. (Không có
mua qua bán lại thì không có hàng để tiêu dùng).
Hình thái ngang giá
trong trao đổi giữa các hàng hoá như vậy đã tạo ra một sự đối lập
từ nguồn gốc: giá trị sử dụng đã trở thành hình thái biểu hiện của cái
đối lập với nó là giá trị. Ngoài ra còn là một hình thái đối lập thống nhất khác
nữa: lao động cụ thể (hình thành trên giá trị sử dụng) đã biểu hiện trong
cái đối lập với nó là lao động trừu tượng (kết tinh trong giá trị). Cần phải lưu
ý đặc biệt những mâu thuẫn nội tại nói trên trong hàng hoá, những mâu thuẫn này
đã bị những nhà kinh tế cổ điển bỏ qua, không đếm xỉa gì tới thì đối với Marx đã
được khai thác triệt để trong phân tích làm tiền đề giải thích toàn bộ những mâu
thuẫn đối kháng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong Tư bản, những mâu thuẫn đó đã được Marx
ghi nhận tiên khởi như “tính chất hai mặt của hàng hoá”, từ đó sau khi phân tích
đã dẫn đến một nhận xét rất đáng lưu ý sau đây: đó là tính chất mà ông gọi là
“tính chất bí ẩn của hình thái ngang giá” khi các hàng hoá được trao đổi với
nhau – nhận xét này sẽ giúp chúng ta hiểu hiện tượng mà Marx sẽ gọi là “tính bái
vật giáo của hàng hoá”. Hàng hoá là một vật, bản thân của nó là một giá trị, giá
trị này chỉ có được trong trao đổi với một hàng hoá khác, nhưng một cách biểu
kiến người ta không thấy được đó là kết quả do mối quan hệ trao đổi tạo ra mà
chỉ thấy giá trị ấy tự bộc lộ trong mối quan hệ đó nên tưởng rằng cái hàng hoá
được trao đổi đó tự nhiên có được một hình thái ngang giá, có thể trao đổi trực
tiếp được.
Nói một cách khác, người ta không thấy được cái
bản thể chung về lao động xã hội, trừu tượng của hàng hoá, căn cứ vào đó để
trao đổi mà lại chỉ dựa vào hàng hoá với tư cách là một vật thể biểu hiện
để cho rằng bản thân vật thể ấy tự nhiên có được cái thuộc tính có thể trao đổi
trực tiếp. Marx cho rằng trầm trọng hơn khi cái bí mật của hình thái ngang giá
này đã bị coi như không còn được chú ý nữa khi giá trị của hàng hoá đã xuất hiện
ra dưới hình thái hoàn chỉnh của nó là tiền – hình thái ngang giá phổ
biến của hàng hoá đã đạt đến cấp độ trừu tượng mang tính chất thuần ý niệm, có
thể tự thân vận động độc lập với sản xuất trong lưu thông.
Lao động tư nhân và quan hệ sản xuất
Qua hình thái giá trị nội tại trong hàng hoá, với tư
cách là một hình thái vật thể hoá giá trị, một câu hỏi đặt ra: tại sao các vật
phẩm tiêu dùng bao hàm giá trị sử dụng lại trở thành hàng hoá? Câu trả lời của
Marx là: “chỉ vì chúng là sản phẩm của những lao động tư nhân được tiến hành một
cách độc lập với nhau” (TBI/1, tr. 98). Như vậy xét về mặt quan hệ xã hội giữa
những người sản xuất ra hàng hoá thì một xã hội bao gồm những tư nhân độc lập
với nhau đã là điều kiện tiên quyết để hình thành xã
hội hàng hoá.
Trong xã hội trao đổi hàng hoá phổ biến, những tư
nhân này đã không còn là những người đem hàng hoá dư thừa của mình trao đổi lấy
hàng hoá khác để tiêu dùng mà đã trở thành những nhà chuyên làm hàng hoá để trao
đổi, cũng vì đó tính chất giá trị của hàng hoá đã được coi là mục đích ngay từ
đầu. Tính có ích của hàng hoá vẫn tồn tại nhưng đã trở thành sự có ích cho
người khác, chứ không phải cho người sản xuất ra sản phẩm. Tính có ích cụ
thể này cũng bị gạt hẳn sang bên trong quá trình trao đổi cho nên hình thái giá
trị trừu tượng trong hàng hoá đã có thể vận động theo một đường đi phi vật thể,
chuyển vận khắp nơi theo cái sức đẩy tự thân của nó.
Tách rời khỏi sự ràng buộc của giá trị sử dụng, tách
rời khỏi những giao tiếp cụ thể của những người làm ra sản phẩm để tiêu dùng,
hàng hoá vật thể hoá của giá trị đã trở thành đại diện cho những người sản xuất,
và những người sản xuất bấy giờ chỉ cần quan hệ với nhau thông qua những hàng
hoá-vật thể ấy như những đại biểu cho mình. Khái niệm “quan hệ xã hội về sản
xuất” trong kho từ vị của Marx đã xuất hiện theo một ý nghĩa rất đặc biệt trong
xã hội hàng hoá: nó chỉ mối quan hệ của những tư nhân sản xuất độc lập với nhau
và chỉ quan hệ với nhau dưới hình thái của một “quan hệ xã hội của những sản
phẩm lao động”. Trong xã hội hàng hoá đó
“Tính bình đẳng của các loại lao động của con người
mang hình thái giá trị của những sản phẩm lao động; thước đo những lao
động cá thể bằng thời gian mang hình thái đại lượng giá trị những sản
phẩm lao động; cuối cùng những quan hệ của các người sản xuất, ở đó những tính
cách xã hội của lao động của họ tự bộc lộ, mang hình thái một quan hệ xã
hội của những sản phẩm của lao động” (TBI/1, tr. 97).
Ý nghĩa câu dẫn trên là gì?
“Những quan hệ của những người sản xuất ở đó tính chất xã hội của
lao động của họ tự bộc lộ”: ở đây là quan hệ giữa những người sản xuất trong
hình thái xã hội mà ta có thể hiểu theo lôgích ngược lại, một hình thái xã hội
phi hàng hoá, trong hình thái này tính chất xã hội của họ bộc lộ ra một
cách tự nhiên; điều đó có nghĩa bất cứ lao động nào cũng mang tính chất xã hội,
tính chất xã hội này đã biểu hiện một cách trực tiếp nơi những chủ thể sản xuất.
Ý nghĩa: yếu tính lao động xã hội biểu hiện trực tiếp
nơi những chủ thể lao động cá biệt.
Những quan hệ sản xuất nói trên, trong xã hội
hàng hoá đã “mang hình thái một quan hệ xã hội của những sản phẩm của lao
động”. Nếu trong xã hội phi hàng hoá, sản phẩm phụ thuộc vào con người để
khi giao tiếp đối mặt trực tiếp với nhau thì trong xã hội hàng hoá, sản phẩm đã
trở thành một vật thể trung gian qua đó con người quan hệ với nhau không cần
biết nhau là ai. Mối quan hệ sản xuất cụ thể giữa người và người trước đó nay đã
thay bằng mối quan hệ gián tiếp của những sản phẩm. Ý nghĩa: yếu tính lao
động xã hội biểu hiện thông qua những vật thể trung gian
giữa những nguời sản xuất cá biệt.
Tính chất đặc biệt của mối quan hệ sản xuất này có
được vì được đặt trên hai điều kiện:
Những quy định xã hội khác nhau
Qua những gì đã phân tích, chúng ta thấy những mâu
thuẫn trong hàng hoá chính là mâu thuẫn giữa hình thái tự nhiên và cụ thể (trong
giá trị sử dụng) với cái hình thái phi tự nhiên và trừu tuợng của nó biểu hiện
trong giá trị (dưới hình thái giá trị trao đổi). Những mâu thuẫn ấy quy cho cùng
có thể hiểu chính là sự mâu thuẫn giữa xã hội hàng hoá mang tính đặc thù,
lịch sử với cái hình thái xã hội phi hàng hoá mang tính tự nhiên của loài
người. Nội dung nhu cầu căn bản của sự sống con người, một trao đổi về
chất của con người với tự nhiên, một thứ lao động có ích, căn bản cho sự tồn tại
của con người đã được Marx nhắc đi nhắc lại nhiều lần ngay trong Tư bản:
“Ở đâu mà nhu cầu buộc người ta phải có quần áo thì
ở đấy người ta đã may quần áo trong suốt mấy nghìn năm trước khi có người trở
thành thợ may. Nhưng dù đó là áo hay vải, hay nói chung bất cứ một thứ yếu tố
nào của cái vật chất không có sẵn trong thiên nhiên, thì bao giờ nó cũng do một
thứ sản xuất đặc biệt, có mục đich tạo nên bằng cách làm cho những vật chất khác
nhau trong thiên nhiên thích ứng với những nhu cầu nhất định của con người. Do
đó, với tư cách là kẻ sáng tạo ra giá trị sử dụng, là lao động có ích, thì lao
động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ thuộc vào bất kỳ hình
thái xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên vĩnh cửu làm môi giới cho
sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên, tức là cho bản thân sự sống của con
người” (TBI/1, tr.61)
Tính chất phổ quát của lao động mang tính nhân loại
ấy đã được Marx mô tả rõ hơn về mặt nội dung:
“Đầu tiên, dù các loại lao động có ích có khác nhau
như thế nào, đó là một hiện tượng sinh lý nghĩa là chúng là chức năng của
cơ thể con người, mỗi chức năng dù bản chất và hình thái thế nào, chủ yếu là sự
tiêu phí về não, thần kinh, cơ bắp…Thứ hai, đối với cái tạo ra cơ sở cho sự quy
định có tính định lượng về giá trị, tức là sự kéo dài của sự chi phí đó,
hoặc đại lượng của lao động thì đã có sự khác biệt rõ ràng giữa đại lượng và
chất lượng của nó. Trong mọi trạng thái xã hội, thời gian lao động chi phí để
sản xuất ra các phương tiện sinh sống tất yếu buộc phải là một vật thể có ích
cho con người dù không có ý nghĩa như nhau trong các quá trình phát triển khác
nhau. Và cuối cùng, từ lúc con người lao động qua lại với nhau thì lao động của
họ đã đảm nhận một hình thái xã hội.” (TBI/1, tr. 97)
Rõ ràng là trong quy định xã hội cần thiết “cho bản
thân sự sống của con người”, “không phụ thuộc vào bất kỳ hình thái xã hội nào”,
con người chỉ sản xuất ra những sản phẩm tiêu dùng trực tiếp cho nhau chứ không
sản xuất ra hàng hoá như một vật thể chỉ với mục đích trao đổi bởi vì những giá
trị sử dụng không thể đối diện với nhau như hàng hoá. Trong sự quy định xã hội
ấy vẫn có phân công lao động nhưng, như trong xã hội thời cổ, sản phẩm không trở
thành hàng hoá. Chỉ trong xã hội hàng hoá có sự khác nhau về chất giữa các lao
động độc lập với nhau, giữa những chủ thể sản xuất độc lập với nhau mới phát
triển thành một hệ thống phân công lao động xã hội nhiều ngành ở đó những
sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập với nhau và không phụ thuộc vào nhau
mới đối diện với nhau như những hàng hoá (TBI/1, tr.61).
Xét về mặt lập luận của Marx, chúng ta cần ghi nhận
điều sau đây: tất cả những thuộc tính phổ quát về lao động nói trên đều có thể
tìm thấy trong hình thái sản xuất hàng hoá như một hình thái biểu hiện đặc thù,
nhưng do hình thái sản xuất này là một hình thái đặc thù cho nên tính chất phổ
quát ấy cũng đã biểu hiện ở đó dưới một hình thái đặc thù – cái biểu hiện bên
ngoài đã trở thành đối lập với cái yếu tính bên trong của nó. Cũng chính vì
vậy mà Marx đã phát hiện ra hình thái mâu thuẫn khác tiềm ẩn trong trao đổi hàng
hoá: “lao động của những tư nhân mang hình thái của cái đối lập với nó là
lao động mang hình thái xã hội trực tiếp”. Nói cách khác mối quan hệ giữa
những tư nhân độc lập trong xã hội hàng hoá thực chất cũng là mối quan hệ xã hội
do cái xã hội hàng hoá ấy quy định: hình thái biểu hiện tư nhân trong lao động ở
đây vẫn mang nội dung xã hội của lao động nhưng dưới hình thái đối lập.
Quy luật giá trị, tiền và tư bản
Tất cả những tính chất trừu tuợng và mâu thuẫn chứa
đựng trong sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá trong xã hội hàng hoá, khi
đi vào chu kỳ lưu thông trên thị trường tư bản chủ nghĩa đã được Marx cô đọng
lại trong một quy luật nền móng và gọi là “quy luật giá trị”: từ hình
thái trừu tượng trong trao đổi, lưu thông, giá trị khi biểu hiện thành hình thái
cụ thể của nó là đại lượng giá trị thì chính đại lượng giá trị ấy sẽ điều
tiết quan hệ trao đổi hàng hoá đó, chứ không phải là ngược lại (TbI/1, tr. 87).
Tính chất trừu tượng, tự động của giá trị dưới hình thái đại lượng giá trị đã
giữ vai trò chi phối thị trường.
Điều này bộc lộ khá rõ rệt khi giá trị biểu hiện
thành hình thái tiền tệ. Theo sự phân tích của Marx, từ hình thái giá trị kết
tinh của lao động trong trao đổi đơn giản, bước sang những hình thái trao đổi mở
rộng, một hàng hoá nào đó có thể xuất hiện đại diện cho một hình thái ngang giá
chung, hình thái này từ chỗ tìm được một chất liệu thích hợp quý hiếm để đại
diện (vàng, bạc…) về sau có thể vượt lên trên mọi vật thể cụ thể để trở thành
hình thái tiền trên danh nghĩa, tiền trên ý niệm (tiền giấy, tín dụng…).
Dưới hình thái thuần tuý ý niệm này, trong lưu
thông, tiền với tư cách là đại diện cho giá trị, đã có điều kiện để tách khỏi
mọi ràng buộc với những quy trình sản xuất để chuyển từ hình thái này sang hình
thái khác “nhưng không bao giờ mất đi trong cuộc vận động ấy, và như vậy là nó
biến thành một chủ thể tự động.” [TBI/1, tr. 201]. Tự động, đó
cũng là một khái niệm mà Marx đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần để chỉ định tính
chất tự bành trướng, tự vận động, thoát khỏi mọi toan tính chủ quan của con
người, nhất là khi tiền đã được tập trung vào tay những chủ thể tư nhân để biến
thành tư bản, sử dụng trong việc đầu tư để sản xuất và tái sản xuất.
Trong trường hợp này với tư cách là tư bản, tiền đã
lưu thông như một mục đích “tự nó” trong cuộc vận động không ngừng để làm tăng
thêm giá trị cho tư bản và như vậy đã làm cho sự vận động của tư bản trở thành
sự vận động “không giới hạn” (TBI/1, tr. 199). Đoạn văn sau đây của Trần Hải Hạc
đã mô tả tính chất tự thân vận động của tiền như sau:
“Với sự phát triển của tư bản cổ phần hoá và sự hình
thành của thị trường chứng khoán, tư bản tách đôi và tồn tại dưới hai mặt: một
mặt là “tư bản thật” là tư bản đầu tư trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hoá ; mặt kia là “tư bản giả” là tư bản biểu hiện trong chứng khoán có giá, tức
cổ phiếu và trái phiếu. Về danh nghĩa, tư bản giả là “bản sao” của tư bản thật,
song giá trị của tư bản giả không tuỳ thuộc vào giá danh nghĩa của chứng khoán,
mà vào giá mua bán của nó trên thị trường. Thị trường chứng khoán này mang tính
chất đầu cơ theo nghĩa nó phản ánh những dự đoán về biến đổi lên xuống của tỷ
suất lợi tức và mức cổ tức có thể thu được trong tương lai : thị giá chứng khoán
hình thành từ hoạt động mua bán của những người tìm kiếm chênh lệch thị giá. Cho
nên tổng số tư bản giả có thể lớn hơn hay thấp hơn nhiều lần tổng số tư bản
thật. Tư bản giả có tuần hoàn riêng, không phụ thuộc vào tuần hoàn của tư bản
thật, và hình như có thuộc tính tự nhiên tăng giá trị một cách độc lập với quá
trình thật tạo ra giá trị thặng dư. Từ đó mà chủ nghĩa tư bản hình thành một nền
kinh tế ảo tách rời hoàn toàn nền kinh tế thực, và – ngoài những thời điểm “bong
bóng xà phòng” vỡ tung – tư bản chứng khoán trở nên vật thần bí được xã hội sùng
bái nhất [Trần Hải Hạc: “Học
thuyết Marx, Đảng Cộng sản Việt Nam và vấn đề bóc lột””, Thời Đại Mới số
8, 2003
].
Phải nói về khái niệm giá trị thặng dư rất
quan trọng được nhắc đến, bởi vì thực chất đó chỉ là sự phát triển lôgích của
khái niệm “giá trị” hàng hoá đã phân tích ở trên khi từ những quy định xã hội
của hình thái sản xuất vật phẩm tiêu dùng chuyển sang hình thái sản xuất hàng
hoá để trao đổi. Trong những hình thái xã hội trước tư bản chủ nghĩa vẫn có tình
trạng bóc lột lao động thặng dư của một lớp người này với những lớp người khác,
nhưng sự bóc lột ấy đã diễn ra theo phương thức tước đoạt sản phẩm cụ thể hoặc
thời gian tiêu phí sức lao động cụ thể chứ không diễn ra dưới hình thái giá trị
trừu tượng như trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong xã hội này, sức lao động của con người
đã trở thành một thứ hàng hoá có thể mua được trên thị trường (gọi là thị trường
lao động) mà những đơn vị tư nhân sản xuất (cá thể hoặc tập đoàn) kết hợp với tư
bản (biểu hiện ở đây là tư liệu sản xuất) để tạo ra lao động thặng dư dưới
hình thái giá trị. Ở đây không phải chỗ để chúng ta đi sâu vào những phương
thức khai thác lao động thặng dư (tuyệt đối và tương đối) mà chỉ muốn nhấn mạnh
đến tính chất tước đoạt dưới hình thái trừu tượng đã phân tích: đó là sự bòn rút
sức lao động mà những chủ thể sản xuất đã mua và sử dụng như một sức chi
phí đồng nhất, để làm tăng lên một cách “tự động” và “không giới hạn” đại lượng
giá trị đã vật thể hoá trong tư bản. Và đó chính là phương thức bóc lột lao động
theo “quy luật giá trị” riêng biệt của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Những tính chất cốt tử của chủ nghĩa tư bản
Những tính chất ấy bây giờ đã có thể bộc lộ tổng hợp
qua những gì Marx đã trình bày về khái niệm “quan hệ xã hội”, thể hiện trong cơ
chế sản xuất đặc thù về hàng hoá và mối quan hệ của cơ chế ấy với những chủ thể
sản xuất gắn liền với nó.
Có thể khẳng định cơ chế sản xuất ấy chính là sự
mô tả đảo ngược lại về mặt ý nghĩa cái ẩn dụ bàn tay vô hình mà những nhà
kinh tế cổ điển đã coi là hiệu nghiệm để tăng của cải tổng thể hàng năm
cho một dân tộc. Cơ chế đó đã vận hành theo những quy luật của riêng nó, tự động
tạo ra động lực, tự động tăng trưởng không cần đến sự can thiệp bằng ý chí chủ
quan của con người. Marx đã khai triển tính chất đặc biệt đó của cơ chế thị
trường để nhắc đi nhắc lại không ngớt những hành vi “không ý thức” của những chủ
thể sản xuất suốt trong quy trình sản xuất hàng hoá.
Điều này biểu hiện ngay trong công việc trao đổi
giản đơn khi những người sản xuất tư nhân không hề nhận thức được – nhưng
trong thực tế thì vẫn hành động như vậy – rằng “những sản phẩm của họ là
ngang hàng với nhau với tư cách là những giá trị, nên họ coi những lao
động khác nhau của họ là ngang hàng với nhau với tư cách là lao động của
con người” (TBI/1, tr.100). Giá trị ở đây như vậy đã được thừa nhận một cách vô
ý thức để làm cơ sở cho hành động trao đổi. Ngay cả khi tính chất giá trị của
sản phẩm được khẳng định qua những đại lượng giá trị, những đại lượng này thay
đổi không ngừng cũng đưa đến hậu quả tương tự: không tuỳ thuộc vào nguyện vọng,
dự kiến và hoạt động của những người trao đổi sản phẩm, điều đó đã khiến họ xem
những “
hành vi xã hội của bản thân họ mang hình thái hành vi của những vật thể,
chúng điều khiển họ thay vì bị họ điều khiển”
(TBI/1, tr. 101).
Những chủ thể sản xuất với tư cách là những con
người xã hội, bằng lao động, khách thể hoá sức sáng tạo của bản thân, tự biểu
hiện trong những sản phẩm do mình làm ra, những con người đó trong cơ chế hàng
hoá đã trở thành những đinh ốc của một guồng máy không những không cần con người
điều khiển mà còn điều khiển lại con người. Sự cân bằng tự động của thị
trường mà những nhà kinh tế cổ điển coi như một tiền đề mang đến hiệu quả
không cần đến mọi hình thức can thiệp bên ngoài, đối với Marx thực tế chỉ là tác
dụng của những cuộc cạnh tranh thông qua sự cọ xát nội tại của quy luật giá trị,
kết quả đưa đến sự cân bằng xảy ra với những người đảm nhiệm sản xuất “như một
thứ quy luật tự nhiên mù quáng”, tự nó tìm được cách triệt tiêu những sai lệch
và đi xuyên qua những biến động ngẫu nhiên của nền sản xuất vô chính phủ
(TBIII/2, tr. 512).
Quyền lực của nhà tư bản trong cơ chế đó không phải
là quyền lực của con người mà là quyền lực của một hiện thân nhân cách
(personnification) của tư bản. Là sản phẩm của quan hệ hàng hoá tư bản chủ
nghĩa, họ đã bị cơ chế sản xuất ấy tước hết nhân cách để trở thành một hình thái
vật thể mang dáng vẻ nhân cách. Họ đã mất đi hoàn toàn những hào quang trước đây
của những người chủ xã hội mang mặt nạ những lãnh chúa chính trị và thần quyền
thời tiền tư bản chủ nghĩa để trở thành những đại biểu vật thể hoá cho một hình
thái xã hội vô danh, mù quáng chạy theo giá trị trừu tượng, tự thân (tiền) để
định nghĩa vị trí thống trị của mình.
Vấn đề vai trò của những cá nhân với tư cách là con
người đã mang ý nghĩa của những sinh thể lệ thuộc vào những quy định xã hội
một cách hoàn toàn vô ý thức. Trong xã hội phi hàng hoá, cá nhân là biểu hiện
của xã hội một cách trực tiếp, nên không tách rời cái cuống rún xã hội của nó.
Trong xã hội tư sản cá nhân bị tách khỏi cộng đồng, trở thành những cá nhân biệt
lập, tự trị, sản xuất ra hàng hoá, qua trao đổi hàng hoá xác lập mối quan hệ
xã hội với nhau. Hàng hoá cùng với cái định chế sản xuất hàng hoá đã trở
thành một thứ trung gian ngăn cản mối quan hệ trực tiếp giữa những cá
nhân. Tính chủ thể của những tư nhân độc lập, có ý thức và tự do để chọn lựa ý
nghĩa cho hành động của mình, trong cơ chế ấy chỉ là ảo tưởng.
Những mâu thuẫn sinh tử trong chế độ tư bản
Những mâu thuẫn trong phương thức sản xuất hàng hoá
đã chứa đựng trong chính cái tế bào tạo nên xã hội hàng hoá. Bản thân hàng hoá
đã là biểu tượng của một hình thái xã hội lịch sử đặc thù. Tính chất bình đẳng
về lao động chứa đựng trong nó chính là dấu tích của một thời kỳ mà khái niệm
bình đẳng giữa người và người đã trở thành bình thường “đối với định kiến của
nhân dân”. Nó ra đời trong thời kỳ quan hệ trao đổi của con người đã mở rộng
khỏi những khu biệt của các địa phương tự trị. Nó cũng chứa đựng tiềm năng của
một sức sản xuất (bao hàm trình độ khoa học, phát minh) đã bước qua các phương
thức thủ công để trở nên một nền sản xuất cơ giới hùng mạnh, có điều kiện thuận
lợi tích tụ vốn liếng để đưa sản xuất lên mức phát triển phổ biến.
Nhưng cũng trong hình thái đặc biệt đó, hàng hoá đã
chứa đựng những mặt đối lập tiềm tàng để dẫn tới những cơn co giật, khủng hoảng
định kỳ. Ngoài những so le về thời gian giữa mua và bán, sự thiếu đồng bộ, cân
đối giữa sản xuất và tiêu thụ (đưa tới sản xuất thừa), ngoài sự thoát ly khỏi
thực tế dưới hình thái “tiền tệ-ý niệm” để giá trị bay vào những cuộc đầu tư hư
ảo (kinh tế “bong bóng”), Marx đã khai thác một cách triệt để cái mâu thuẫn đối
lập giữa giá trị sử dụng với giá trị, biểu hiện cho sự mâu thuẫn
đối lập giữa lao động cụ thể với lao động trừu tượng, để phát
triển thành sự mâu thuẫn giữa lao động với điều kiện lao động,
trong đó con người chỉ đóng vai trò những đại biểu nhân cách cho những mâu thuẫn
đối lập của lao động với tư bản.
Xét trên tổng thể của cơ chế hàng hoá thì sự đối lập
này mới đóng vai trò quyết định đối với sự tồn vong của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa vì nó đụng chạm trực tiếp đến sự tồn tại của đời sống con người.
Từ sự trao đổi giản đơn dẫn đến sự hình thành nên cái cơ chế sản xuất hàng hoá
trừu tượng, tự động bành trướng xảy ra bên ngoài ý thức con người, biểu hiện
trong mối quan hệ xã hội tư bản chủ nghĩa, với Marx, là sự phát triển của cái cơ
chế sản xuất đi ngược lại tất cả những tiền đề về bản chất con người với tư cách
là những chủ thể của những sản phẩm tự mình sáng tạo ra, sự mâu thuẫn trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chính là sự mâu thuẫn giữa cụ thể và trừu
tượng, giữa cá nhân và xã hội, giữa máy và người, giữa cái biểu hiện hư ảo và
cái yếu tính đích thực. Đó chính là mối quan tâm xuyên suốt quá trình suy tưởng
của Marx về lịch sử của con người.
Trong cái cơ chế sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa
ấy, không có ai còn được là người vì tất cả đều đã trở thành những cái máy cục
bộ phục vụ cho một cái máy tổng thể. Nhưng dù sao thì trong guồng máy ấy, những
nhà tư sản với tư cách là hiện thân của tư bản, tuy chỉ là những cá nhân độc lập
hư ảo, tồn tại bấp bênh trong cạnh tranh (có thể phá sản), họ vẫn đứng về phía
hưởng lợi vì giữ được vị trí ông chủ của toàn bộ quy trình sản xuất. Trái hẳn
với những công nhân đảm nhiệm công việc sản xuất trực tiếp: trong guồng máy sản
xuất đó, sức lao động thặng dư của họ đã bị khai thác dưới hình thái giá trị
trừu tượng, làm phình ra một cách “vô giới hạn” cho tư bản vốn cũng là thành quả
lao động của bản thân họ, cho nên trong cơ chế sản xuất đó, tính chất người của
họ đã bị triệt tiêu, dù mức sống của họ có được nâng cao đến thế nào đi nữa –
trong bất cứ tình trạng sức sản xuất nào, bất cứ sự
thắng lợi nào trong đấu tranh mà họ đã giành được từ chủ tư bản.
Với lý luận về giá trị thặng dư của Marx, công nhân
là đại biểu nhân cách cho lao động làm ra tất cả của cải cho chế độ tư bản,
nhưng vai trò của họ trong guồng máy sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bị hạ xuống
những nô lệ mới cho một hình thái bóc lột của thời đại cơ giới, một thời đại bị
bao phủ khắp nơi bởi tính chất lạnh lùng phi nhân tính của nó. Công nhân được
nuôi sống chỉ để duy trì sự tồn tại của mình giống như việc nhà tư bản cho cỗ
máy của họ ăn dầu, ăn mỡ để có thể vận hành. Cùng một ý đó, Marx diễn tả bằng
một hình ảnh khác cũng gây ấn tượng như vậy:
“Bằng việc mua sức lao động, nhà tư bản đã kết
hợp bản thân lao động với tư cách là một chất men sống vào những yếu tố chết cấu
thành sản phẩm, cũng thuộc về hắn ta. Theo quan điểm của hắn, quá trình lao
động chỉ là việc tiêu dùng thứ hàng hoá mà hắn đã mua, tức là sức lao động,
nhưng hắn chỉ có thể tiêu dùng được sức lao động đó với điều kiện là đem các thứ
tư liệu sản xuất kết hợp với sức lao động ấy. Quá trình lao động là một quá
trình diễn ra giữa những vật mà nhà tư bản đã mua, giữa những vật thuộc về
hắn. Vì vậy, sản phẩm của quá trình đó thuộc về hắn, hoàn toàn cũng giống như
sản phẩm của quá trình lên men trong hầm rượu nho của hắn” (TBI/1, tr. 240).
Trong xã hội hàng hoá tư bản chủ nghĩa, bản thể giá
trị trong hàng hoá như vậy đã bao hàm những mâu thuẫn gay gắt giữa lao động và
tư bản. Tất cả những biện luận của Marx về chủ nghĩa tư bản tổng thể đều xoay
quanh mối quan hệ giữa C ( tư bản) và v (sức lao động) – dù cho mối quan hệ ấy
diễn ra là C=c+v (Tư bản ban đầu=tư liệu sản xuất+chi phí cho sức lao động) hoặc
hoặc C’=c+v+m (Tư bản sau khi lưu thông=tư liệu sản xuất+chi phí cho sức lao
động+giá trị thặng dư). Có thể cho rằng tất cả cuộc vận động của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa là sự vận động đối nghịch, thống nhất giữa C và
v. Chính từ mối quan hệ C và v ấy Marx đã đưa ra rất nhiều
biện luận về những chuyển hoá, những biểu hiện khác nhau trong quá trình vận
động của tư bản (giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận…), từ đó giả định
hàng loạt những bất ổn dẫn đến chỗ tự huỷ (thí dụ như quy luật gọi là “tỷ suất
lợi nhuận có xu hướng giảm xuống”).
Nhưng cũng chính vì vậy mà tất cả đều dồn hết vào
cái mâu thuẫn căn bản mà chúng ta đã biết là mâu thuẫn về mặt con người trong
một cơ chế sản xuất máy móc, phi nhân tính: con người cụ thể trong lao động cụ
thể, lao động sáng tạo những sản phẩm có ích cho bản thân đời sống, hiện thân
nơi những công nhân với tư cách là con người, sẽ vùng lên đòi lại những gì mà
phương thức sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa đã lấy mất của mình, sau đó sẽ
thừa kế tất cả những thành tựu của phương thức sản xuất ấy để tạo ra một hình
thái xã hội mới, ở đó sẽ không còn có sự đối lập giữa tư bản và lao động, những
quy định xã hội không còn sản sinh ra cơ chế hàng hoá cản trở mối quan hệ trực
tiếp giữa những con người với tư cách là những chủ thể sản xuất nữa. Cái chìa
khoá lịch sử trong lập luận của Marx vì thế cũng chính là cái khả năng chuyển
hoá của xã hội hàng hoá với tư cách là một hình thái lịch sử.
Một hình thái xã hội sinh thành sau đó có mang tính
hiện thực hay không, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có sụp đổ từ những
nền móng của nó hay không, giai cấp xã hội hiện thân cho lao động có tập hợp lại
giải thoát những điều kiện lao động phi nhân tính hay không, ở đây không phải
chỗ để chúng ta bàn luận mà qua đó chỉ muốn làm hiển lộ cái lôgích mà Marx đã sử
dụng để đi tới những giả định về sự giải phóng chung cuộc của lao động đối với
sự thống trị của tư bản: tất cả đã bắt đầu trong sự mâu thuẫn giữa giá trị sử
dụng và giá trị, nội tại trong bản thân hàng hoá, mâu thuẫn ấy cũng chính là mâu
thuẫn giữa các quy định xã hội khác nhau về lao động: lao động với tư cách là
thuộc tính của con người chủ thể của sản phẩm mình làm ra đối lập với
hình thái lao động biểu hiện cho sự đánh mất tính chủ thể của con người đối với
sản phẩm trong điều kiện phương thức sản xuất hàng hoá đã giữ vai trò “chi phối”
quá trình phát triển của lịch sử.
Bái vật giáo hàng hoá
Sự mô tả cái lôgích của xã hội hàng hoá tư bản chủ
nghĩa theo quan điểm của Marx cũng bao hàm ý nghĩa là sự phê phán của ông từ nền
móng đối với sự tồn tại của những quy định xã hội đã nâng đỡ cho xã hội hàng
hoá, và sự phê phán ấy cũng đương nhiên nhắm vào những thứ lý luận tư sản biện
hộ cho hình thái xã hội hàng hoá đó.
Đối với những ý kiến về giá trị lao động của những
nhà kinh tế cổ điển Marx xem đó là “khoa học”, vì họ đã nhìn ra được rằng “quy
định đại lượng giá trị bằng thời gian lao động là sự vận động ẩn dấu sau
sự vận động biểu kiến của giá trị tương đối của các hàng hoá”. Marx cho
rằng đó là một bước tiến về lý luận nhưng đẩy vấn đề đi tới nữa là không dễ dàng
vì theo ông, trong khi lưu thông, hàng hoá đã tạo ra tính chất vững chắc mang
hình thái tự nhiên, bất di bất dịch của nó. Muốn phân tích khoa học thì phải đi
từ hiện tượng biểu hiện truy ra yếu tính. Nghĩa là phải từ phân tích giá cả
hàng hoá dẫn đến xác định đại lượng của giá trị, từ biểu hiện chung bằng
tiền của hàng hoá dẫn đến chỗ cố định được tính chất giá trị của
hàng hoá.
Nhưng cũng chính từ những khó khăn đó, Marx đã nêu
ra tính chất nửa vời trong phát kiến nói trên của những nhà kinh tế cổ điển: do
“tuyệt nhiên không phá tan được cái vỏ vật thể bên ngoài của tính vật
chất xã hội của lao động” ( TBI/1, tr. 100), nên những nhà kinh tế cổ điển đã
không thể nào vượt qua khỏi những khó khăn khi đối diện với cái hình thái hoàn
chỉnh của thế giới hàng hoá biểu hiện thành tiền, nó đã “ che giấu tính chất
xã hội của các lao động tư nhân vào đằng sau lưng các vật, và do đó
che giấu cả những quan hệ xã hội của những người lao động tư nhân” trong
khi đó thì đáng lẽ ra cần “phải bóc trần những quan hệ ấy” (TBI/1, tr.102).
Điều bí mật mà Marx gợi ra ở đây và cho rằng kinh tế
cổ điển không khám phá được chính là “cái tính chất xã hội đặc thù của lao
động xuất hiện như là tính chất vật thể của bản thân các sản phẩm” mà
nội dung không có gì khác hơn là “mối quan hệ xã hội của các lao động tư nhân
tiến hành một cách độc lập” đàng sau giá trị của hàng hoá. Nhưng dù bị giới hạn
kinh tế cổ điển vẫn mang ý nghĩa một tiến bộ về nhận thức, điều đó không giống
với tình hình của đông đảo những người đảm nhiệm sản xuất trong xã hội hàng hoá,
trong xã hội này, mối quan hệ xã hội tư nhân mà ta đang nói tới là do chính họ
làm ra, nhưng lại xuất hiện trong ý thức của họ như “một hình thái kỳ ảo của
các vật”, tức là hình thái của những cái ảo mà sự múa may tự động của
chúng đã làm cho người ta tưởng là thực.
Marx đã nói đến “tính chất bái vật giáo của hàng
hoá” để chỉ tình trạng ấy và chúng ta thấy ông đã sử dụng hàng loạt những thuộc
tính đi kèm lặp đi lặp lại nhiều lần như: thần bí, kỳ lạ, siêu hình, bóng ma,
kỳ quái, đám mây mù v.v… đầy ấn tượng để diễn tả. Ý nghĩa của những khái
niệm ấy là gì trong lập luận của Marx về xã hội hàng hoá? Để làm sáng tỏ điều
này Marx viết:
“Muốn tìm được một sự tương đồng, chúng ta buộc phải
nhờ đến những vùng sương phủ của thế giới tôn giáo. Trong cái thế giới này,
những sản phẩm của bộ óc con người xuất hiện như những thực thể được ban cho sự
sống, chúng thiết lập quan hệ giữa chúng với nhau lẫn với loài người. Cũng giống
như vậy trong thế giới của hàng hoá với những sản phẩm do bàn tay con người tạo
ra. Tôi gọi đó là tính chất bái vật giáo nó gắn kết bản thân nó với sản phẩm của
lao động, ngay khi những sản phẩm này được sản xuất ra như những hàng hoá và như
vậy là không tách rời khỏi sự sản xuất ra hàng hoá” (TBI/1, tr. 98).
Qua sự so sánh trên đây, chúng ta có thể hình dung
cái vật thể vật chất hoá cho mối quan hệ xã hội sản xuất hàng hoá chính là một
vật thể không có sinh mệnh tự thân mà chỉ là sự hiện thể hư ảo của một thực thể
khác, tuy không thấy được nhưng lại mang ý nghĩa một bản thể mà chúng ta đã
biết: đó chính là cái quan hệ xã hội có nội dung đặc biệt là “mối quan hệ xã hội
của các lao động tư nhân tiến hành một cách độc lập đàng sau giá trị của hàng
hoá”. Những nguời sản xuất trong xã hội hàng hoá, bằng gíác quan của mình, chỉ
thấy được hình thái hàng hoá tự trị vận động như một thực thể tự nhiên đại biểu
cho toàn bộ thế giới hàng hoá, không cần biết (vì không thấy được) cái đàng sau,
cái yếu tính của nó là gì.
Với hình ảnh cái màn sương phủ trong tôn giáo diễn
đạt tính chất bái vật giáo của hàng hoá, Marx đã nêu lên tính chất nghịch lý hàm
chứa trong cái bí ẩn, siêu hình của hàng hoá: là một vật thể cụ thể, lĩnh hội
được bằng giác quan nhưng thực tế đó chỉ là sự biểu hiện huyễn hoặc của
một thực thể trừu tượng không thấy được nhưng mang tính bản chất là mối quan hệ
xã hội tư nhân trong sản xuất và trao đổi: tính chất cụ thể có thể thấy được của
hàng hoá vì vậy chỉ là sự cụ thể hư ảo vì đã bị trừu tượng hoá khỏi cái
yếu tính có ý nghĩa tổng thể về xã hội dựa trên đó nó mới biểu hiện được như một
cụ thể đích thực. Chúng ta hiểu tại sao trong điều kiện bị tuyệt đối hoá
đó, hàng hoá đã trở thành một bái vật, có sức mạnh ma thuật tác động và sai
khiến lại con người.
Làm sao để giải thoát ra khỏi cái “đám mây mù” che
phủ lên cái bái vật ấy khiến cho nó phải bộc lộ bản chất đích thực trước ý thức
của chúng ta ? Để làm được công việc giải hoặc này, Marx đề nghị chúng ta rời
khỏi mảnh đất xã hội hàng hoá để chuyển sang một số hình thái sản xuất khác
trong đó có hai hình thái đã xuất hiện trong quá khứ có thể quan sát được:
Một là hình thái xã hội thời trung cổ ở đó lao
động là diêu dịch (corvée, compulsory labor). Trong xã hội này “mối quan hệ
lệ thuộc cá nhân cấu thành cơ sở xã hội, nên lao động và sản phẩm không phải
mang một hình thái hư ảo khác với sự tồn tại hiện thực của chúng” (TBI/1, tr.
104). “Ở đây hình thái xã hội trực tiếp của lao động chính là hình
tháí tự nhiên của nó, là tính đặc trưng của nó, chứ không phải là tính phổ
biến của nó như trong một xã hội dựa trên cơ sở sản xuất hàng hoá” (TBI/1, tr.
104). Thời gian lao động sản xuất ra sản phẩm là sự chi phí một lượng lao động
nhất định sức lao động của cá nhân. “Dù cho những cái mặt nạ đặc trưng mà con
người thời trung cổ đã mang trong khi quan hệ với nhau được đánh giá như thế
nào, các quan hệ xã hội giữa người và người trong trong lao động vẫn cứ
biểu hiện ra ở đây như là những quan hệ cá nhân của bản thân họ, chứ
không phải nguỵ trang thành những quan hệ xã hội của các vật của các sản phẩm
lao động” (TBI/1, tr. 104).
Một hình thái sản xuất khác là nền sản xuất gia
trưởng nông thôn. Ở đây, những sản phẩm khác nhau là kết quả của lao động
gia đình chứ không phải hàng hoá. Có sự phân công tự phát để thực hiện
những công việc tự nhiên và sự tiêu phí lao động cá nhân ở đây được đo bằng thời
gian thể hiện tính quy định xã hội của các công việc: lao động cá nhân được
quan niệm như những khí quan của một sức lao động chung trong một hình thái lao
động được xã hội hoá một cách trực tiếp (TBI/1, tr.105). Trong những hình
thái sản xuất này, cá nhân vẫn là những đơn vị đặc thù nhưng là những cá nhân
mang tính xã hội, một thành phần của một tổng thể xã hội chứ không phải là những
cá nhân độc lập không có thực chất, quan hệ với nhau qua các vật thể trung gian
để thể hiện tính xã hội của mình.
Ngoài một số hình thái thuộc về quá khứ, Marx cũng
hình dung ra một hình thái sản xuất giả định và gọi đó là “liên minh những
người tự do”, ở đây những cá nhân mang tính cộng đồng, từ đầu góp phần lao
động riêng vào một sức lao động xã hội duy nhất, qua hoạt động đó khẳng định vị
trí cá nhân của mình.
Trong hình thái xã hội này, tư liệu sản xuất là của
chung, những cá nhân tiêu phí sức lao động cá nhân một cách tự giác, coi đó là
một sức lao động xã hội duy nhất. Lao động cá nhân diễn ra theo tính quy
định trên quy mô xã hội chứ không phải quy mô cá nhân.Tất cả những gì của cá
nhân đều thuộc cá nhân, được quyền tiêu dùng trực tiếp những sản phẩm làm ra.
Nhưng do toàn bộ các sản phẩm cá nhân làm ra từ bản chất là sản phẩm xã hội, cho
nên ngoài phần trích ra làm tư liệu sản xuất, phần còn lại sẽ chia cho
cộng đồng như tư liệu sinh hoạt. Sự phân chia này thay đổi tuỳ theo cơ
cấu sản xuất xã hội, tuỳ theo trình độ phát triển, nhưng theo nguyên tắc lấy
thời gian lao động làm tiêu chuẩn. Việc phân phối thời gian này sẽ theo một
kế hoạch xã hội “quy định một cách đúng đắn giữa các chức năng lao động khác
nhau và các nhu cầu khác nhau”. Mặt khác, thời gian lao động sẽ là chuẩn mực để
đo phần tham gia của cá nhân vào lao động chung, căn cứ vào đó thu nhận sản phẩm
tiêu dùng (TBI/1, tr. 106).
Tính chất trực tiếp của mối quan hệ giữa người sản
xuất trong những hình thái xã hội kể trên đã biểu hiện thật rõ ràng và tất cả
đều có thể xem như những xã hội phi hàng hoá – không thể nào hiểu nào
khác đi về mặt lôgích của văn bản –, trong những hình thái xã hội này, quan hệ
lao động nào cũng mang tính xã hội, nhưng quan hệ lao động trong xã hội phi hàng
hoá là quan hệ xã hội trực tiếp giữa bản thân họ chứ không phải nguỵ trang qua
những quan hệ xã hội của các vật do họ làm ra. Tính chất độc lập của những cá
nhân ở đây chính là sự biểu hiện trực tiếp cho yếu tính xã hội vì đó cũng
đã mang ý nghĩa của cái đặc thù biểu hiện trực tiếp cái phổ quát, không
phải thông qua những hình thái biểu hiện bị trừu tượng hoá làm thành một hình
thái trung gian che dấu ý nghĩa đích thực và cụ thể về tính chất độc lập của
những cá nhân ấy.
Khoa học hay triết học?
Chủ nghĩa Marx có phải là một khoa học? Qua những gì
mà chúng ta đã phân tích thì khó có thể coi chủ nghĩa Marx là một khoa học hiểu
theo nghĩa là kết quả nghiên cứu về mối liên hệ thực nghiệm của những hiện
tượng, ở đây là những hiện tượng xã hội, trong đó những sự kiện kinh tế đã được
đưa lên hàng chính diện như Marx đã thể hiện trong Tư bản: việc phê phán
lý luận kinh tế chính trị (cổ điển và tầm thường) và phê phán xã hội hàng hoá tư
sản đã bao hàm mục đích lật ngược lại cái lôgích về sự tự thân vận động và phát
triển của nó từ đó suy ra một số luận điểm định hướng khả dĩ thay thế nó một
cách triệt để về mặt lịch sử.
Xét về mặt phương pháp, thực chất của cái định hướng
thay thế ấy hoàn toàn chỉ là những suy lý lôgích về những tiềm thể có thể trở
thành hiện thực, không tự thân tồn tại mà đòi hỏi hàng loạt những điều
kiện giả định về vận động và thời gian. Nếu chủ nghĩa tư bản cứ lầm lũi dấn
mình vào cái quy luật giá trị mang tính chất cơ giới như đã giả định thì tất yếu
cái đà dẫn tới chung cuộc như Marx đã vạch ra cho nó là không tránh khỏi. Nếu
việc khai thác lao động thặng dư của công nhân cứ diễn ra như cách những ông chủ
hiện thân của tư bản đã tiến hành theo kiểu vắt cạn sức lao động của công nhân
vô độ như đối với những robot thì tất yếu điều đó sẽ làm trỗi dậy ý thức về nhân
phẩm trong bản thân công nhân với tư cách là con người để họ vùng dậy phá tan bộ
máy xã hội hàng hoá tư bản chủ nghĩa đã biến họ thành máy như có thời họ đã từng
phá những cỗ máy mà các ông chủ tư bản đã giao cho họ vận hành.
Có thể nói cái cách đề cập, phê phán, dự báo của
Marx về những hiện tượng kinh tế, xã hội, chính trị trong xã hội hàng hoá tư sản
đã vượt khỏi ngưỡng cửa của những hiện tượng thường nghiệm để đi vào những cái
vĩ mô và ở đây chính là những hình thái kinh tế-xã hội (đã và sẽ) thay
thế nhau diễn ra trong lịch sử. Về mặt này người ta có thể tìm thấy ở Marx nhiều
điểm tương đồng với công việc của những nhà thiên văn khi thiết lập những mô
hình vũ trụ: dù mô hình nào thì tất cả đều khởi đầu từ một số hiện tượng quan
sát được để giả lập ra những hình thái chuyển hoá hoặc vận động (thí dụ như mối
liên hệ giữa hiệu ứng Doppler với lý thuyết Big Bang nguyên sơ…) nhưng không hề
mang nội dung tất định hoặc được xem đã thành chân lý.
Thật ra sự so sánh ấy có phần không thích hợp lắm vì
phương pháp tư duy của Marx rất khác xa với phương pháp của những nhà thiên văn
học: ông cố tìm một nguyên lý trừu tượng nào đó xuyên qua những sự kiện quan
sát hơn là từ những sự kiện đưa ra những giả thuyết. Đối tượng quan sát của
ông lại là thế giới con người, là cái thế giới ông sống với nó, thấm đẫm những
yêu ghét, phẫn nộ, bất bình, hy vọng… Trong từng dòng chữ của ông, chỗ nào cũng
toát ra những điều cần phải có cho xã hội con người, để con người được sinh tồn
trong một thế giới mang tính nhân văn. Những gì mà ông phản bác lại cái thế giới
hiện tồn không phải cái gì khác là sự lật ngược để đi tìm một thế giới bên kia
hàng hoá, một xã hội hậu kì của thời “tiền sử”, nơi đó con người có điều
kiện để trở về được với bản chất của mình, khẳng định mình như chủ thể của những
vật thể mình sáng tạo ra.
Sự suy tưởng về một hình thái xã hội cần có cho con
người đó đã bộc lộ thật rõ khi Marx phê phán lý luận của kinh tế tư bản chủ
nghĩa trong hai chương cuối cùng của bộ Tư bản của ông. Trong những
chương sách này, ông đã tập trung vào việc phê phán lý luận kinh tế tư sản gọi
là “những yếu tố sản xuất” (tư bản–lợi tức, ruộng đất–địa tô, lao động–tiền
công) để khẳng định một lần nữa thật minh bạch quan điểm của ông về lao động tạo
ra thế giới con người.
Marx cho rằng “tư bản” không phải là một vật mà là
một quan hệ xã hội được biểu hiện trong một vật và đem lại cho vật đó một
tính chất xã hội đặc thù. Đó là những tư liệu lao động đã chuyển hoá thành tư
bản, những sản phẩm kết quả của hình thái khai thác lao động thặng dư bị độc
chiếm. Tư bản là một hình thái xã hội nhất định bị thần bí hoá. “Đất” là
giới “tự nhiên vô cơ”, không thể tạo ra giá trị thặng dư mà chỉ tạo ra giá trị
sử dụng. Cũng như lao động, đất nằm trong quá trình lao động chung đối với mọi
phương thức sản xuất và là yếu tố vật chất của mọi quá trình sản xuất
không có liên quan gì với hình thái xã hội của mọi quá trình sản xuất.
Đất trở thành tư hữu cũng chỉ là kết quả của độc chiếm mang tính chính trị,
quyền lực.
Còn “lao động”, điểm then chốt trong lý luận của Marx đã được lập
lại và nói rõ là “sự hoạt động sản xuất của con người nói chung, nhờ nó mà con
người thực hiện sự trao đổi chất với giới tự nhiên; sự hoạt động đó không những
không mang một hình thái xã hội nào và bất cứ một tính quy định nào, mà đơn
thuần thể hiện ra trong sự tồn tại tự nhiên của nó, độc lập với xã hội, đứng
ngoài xã hội; và với tư cách là biểu hiện của sự sống và khẳng định của sự
sống, nó là chung với cả con người, chưa phải là con người xã hội, lẫn
con người đã có được một tính quy định xã hội nào đó” (TBIII/2, tr. 432, Chương
XLVIII, “Công thức tam vị nhất thể ”). Quan niệm lao động “biểu hiện sự sống”
này, Marx nhắc đi nhắc lại nhiều lần, và cũng căn cứ vào đó nhiều lần để phê
phán xã hội hàng hoá phi tự nhiên biến sức lao động thành công cụ cơ giới là hết
sức rõ ràng.
Tha hoá hay không tha hoá?
Với sự tổng kết trên đây thì câu hỏi chủ nghĩa Marx có phải là
một triết học về lao động hay không có lẽ cũng đã có cơ sở để trả lời. Qua
chính những gì Marx đã trình bày. Lao động là bản chất của con người, con người
định nghĩa mình bằng lao động, lao động tạo ra xã hội, điều đó con người có được
từ buổi sơ khai, khi thoát khỏi thế giới tự nhiên để hình thành nên thế giới văn
hoá. Trong xã hội hàng hoá tư bản chủ nghĩa, lao động cũng tiếp tục công việc
vĩnh cửu đó nhưng lại diễn ra trong những điều kiện lao động đặc thù ở đó
lao động bị biến thành một thứ nô lệ của thời đại cơ giới, bị khai thác như một
công cụ phát triển vũ bão về lực lượng sản xuất nhưng lại biến cả xã hội thành
một guồng máy, ở đó con người và quan hệ giữa những con người đã bị hạ trật
xuống hàng vật thể.
Có thể gọi đó là một thế giới mà lao động của con người đã bị
“tha hoá” kéo theo sự “tha hoá” của bản thân con người hay không? Câu hỏi này đã
được giới nghiên cứu về Marx, bao gồm các quan điểm khác nhau (marxien,
marxiste, marxisant, marxologue … đủ loại) tranh luận từ bao lâu rồi đến nay vẫn
chưa ngã ngũ, xoay quanh tiêu điểm nêu ra là: mối quan hệ giữa Marx “trẻ” với
Marx “già” là thế nào, liệu có thể lấy những gì trong Marx trẻ để làm nên cái
cốt tuỷ cho chủ nghĩa Marx hay là tạo ra một thứ lý luận gọi là đoạn tuyệt
hoàn toàn giữa Marx trẻ với Marx già và coi Marx già mới thật sự là Marx, một
thứ Marx đã trưởng thành, chín chắn, hoàn toàn cắt đứt với quá khứ duy tâm để
trở thành thật sự “duy vật” và “khoa học” v.v… ?
Về mặt học thuật, vấn đề cực kỳ phức tạp, tôi không có ý gợi ra
để bàn luận mà chỉ nhân đó đưa ra những gì đã suy nghĩ được trong tìm hiểu để
trả lời cho những câu hỏi đã nêu ở trên. Tôi cho rằng dù Tư bản tiêu biểu
cho sự phát triển chín muồi của Marx về chủ đề phê phán chế độ tư bản, với những
khái niệm mới, những cách diễn đạt mới, nhưng không hề có sự “đoạn tuyệt mang
tính khoa học luận” với những gì Marx đã suy nghĩ từ thời còn trẻ vào những năm
1843-1844 (đặc biệt với Bản thảo kinh tế chính trị 1844): trước sau giữa
hai thời kỳ suy tưởng vẫn có một sự tiếp nối liên tục về nguồn cảm hứng lẫn dự
phóng căn bản. Rõ rệt là trong Tư bản vào năm 1867 và sau đó, Marx đã
loại trừ hầu hết cái cách lập luận tư biện cũ, không trực tiếp sử dụng khái niệm
“tha hoá” để diễn giải sự kiện công nhân bị vật thể hoá trong cơ chế sản xuất
hàng hoá, nhưng điều đó cũng hoàn toàn không có nghĩa là nội dung của khái niệm
“tha hoá” không còn chi phối một cách quyết định những sự kiện kinh tế mà Marx
đã tập trung mô tả và diễn giải ý nghĩa của chúng.
Ý nghĩa ấy đã bộc lộ trong cái cách thức Marx phê phán những phạm
trù kinh tế tư bản chủ nghĩa, quanh co nhưng theo dấu vết của nó chúng ta vẫn có
thể nhận ra những cơ sở tiềm ẩn, dàn trải khắp nơi, khởi nguồn từ cái biện chứng
tinh thần mà Marx đã thừa kế của Hegel và đã bị dựng đứng lại (TBI/1, tr. 28)
theo hướng thực tiễn để giải thích tình trạng lao động bị vong thân thành máy,
thành vật trong hình thái sản xuất hàng hoá vận hành theo quy luật giá trị. Để
hiểu được điều này, cần phải nhớ rằng Marx đã nhiều lần minh định: chỉ có từ một
hình thái xã hội khác, đối lập với xã hội hàng hoá chúng ta mới giải mã được cái
“chữ tượng hình” của vật thể bị sùng bái, để sau đó mới có thể nhận ra được tình
trạng lao động bị điều kiện lao động “chống lại” như thế nào (TBIII/2,
tr. 513)
và trong điều kiện lao động ấy, dưới con mắt của những cá nhân
độc lập hư ảo, mọi thứ mới có thể trở thành “tự nhiên” như thế nào.
Chính cái biện chứng tinh thần của Hegel đã giúp
Marx tìm ra một điểm tựa nguồn cội mang tính “vĩnh cửu” tự thân của con người
[in
itself / An-sich]
để lao động có ý thức, khi đi ra khỏi bản thân
tự thể hiện
[out of itself / Anderssein], gặp điều kiện biến lao động thành hàng hoá, thì mới có thể
thức tỉnh ra tình trạng bị tha hoá, để từ đó có thể hồi tưởng lại cái tiềm thể
nội tại của mình, theo đó lần ra được dấu vết của quê hương cũ để trở về [in
and for itself / An-und-für-sich]:
nếu
không có một tiêu điểm, một cái nôi xuất phát quy chiếu cố định mang tính bản
chất để làm nền, ở đây là một hình thái xã hội chưa thành hàng hoá, phi hàng hoá
thể hiện trong một quy định xã hội chưa làm con người tha hoá thì cuộc dấn thân
của lao động vào thế giới hàng hoá sẽ là vong thân vĩnh viễn, con người sẽ đánh
mất bản chất của mình vĩnh viễn.
Ngay trong cái xã hội tha hoá này, mối quan hệ giữa yếu tính
(hoặc bản chất/essence) và biểu hiện (hoặc hiện tượng/apparence) trong
biện chứng của Hegel đã giúp Marx thăm dò đến tận được chiều sâu của mối tương
quan quy định giữa giá trị và những biểu hiện của nó: giá trị được xem là yếu
tính của quan hệ trao đổi, yếu tính đó sẽ biểu hiện ra những hình thái khác nhau
tuỳ theo những bước đi trong diễn trình vận động của nó (giá trị trao đổi, đại
lượng giá trị, giá cả, tiền, giá trị thặng dư…). Cái phương pháp truy tìm yếu
tính (bản chất) qua những biểu hiện để lý giải ý nghĩa rốt ráo về yếu tính của
hiện tượng, Marx nói rõ là ông đã lấy lại của người thầy của ông là Hegel
(TBI/1, tr. 28), hoàn toàn ngược lại với cách tiếp cận mô tả và tìm ra những mối
quan hệ thường hằng giữa các hiện tượng trong các khoa học hiện tượng và thực
chứng.
Tuy vậy cái biện chứng của Hegel đã bộc lộ rõ hơn
hết trong cách đặt và lý giải của ông về lý do xuất hiện của xã hội hàng hoá
trong quá trình “trở thành” của lịch sử: từ sự tự do đơn giản ở
thời bán khai, kinh qua tình trạng nô lệ thời chuyên chế,
văn minh, cuối cùng trở về thời kỳ khởi thuỷ với nội dung của một nền tự
do đích thực, hoàn thiện, nâng cao hơn.
Hiển nhiên với Marx, đó không phải là cái biện chứng của Tinh
thần tuyệt đối tự phóng thể ra thế giới hiện thực như một cuộc phiêu lưu để rồi
sau đó sẽ thu về trong tình trạng viên mãn, trưởng thành. Marx tuyên bố ông đã
thanh toán cái lương tri triết học của mình với Hegel, nhưng đó không phải là sự
phủ nhận hư vô mà chỉ là sự đảo ngược lại để mang cho biện chứng ấy một
nội dung thực tiễn, biểu hiện trong lao động của con người với những cuộc đi ra
khỏi bản thân mà chúng ta đã biết: con người định nghĩa mình bằng lao động,
nhưng trong sự phóng thể, làm ra sản phẩm trong cơ chế hàng hoá, sản phẩm của
lao động đã trở nên xa lạ và thống trị lại con người, làm cho con người trở
thành đồ vật – và trước tình trạng ấy muốn thu hồi lại bản chất của mình,
con người không thể trông cậy vào sự tự giác của Tinh thần mà
phải tiến hành một cuộc cách mạng tiêu diệt cái điều kiện lao động đã làm cho
lao động trở thành nô lệ.
Rõ ràng với Marx bây giờ, Hegel không còn là ảnh hưởng của thời
1843-1844, nhưng cái cảm hứng về một thứ bản thể nguồn cội tự trở về với mình
sau một cuộc hành trình đi ra thế giới hiện thực, vẫn còn là của Hegel, chứ
không phải ở đâu khác. Không thể diễn giải cách nào khác đi những điều rất hiển
nhiên Marx đã trình bày ngay trong Tư bản của ông.
Số phận thăng trầm
Đọc lại Marx lần này, tập trung vào việc phân tích cái tế bào
hàng hoá cấu tạo nên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, qua những khái niệm,
những phạm trù biện luận của ông, tôi vẫn thấy không có sai biệt nhiều so với
những gì tôi đã suy nghĩ cách đây hơn 15 năm.
Những gì Marx mô tả trong những tác phẩm của ông về đối tượng mà
ông nghiên cứu vẫn là những biểu hiện cố hữu của chủ nghĩa tư bản từ lúc phát
sinh cho đến ngày nay: sự phát triển vũ bão của lực lượng sản xuất, của cải vật
chất dồi dào, khoa học kỹ thuật đột phá vượt bậc, các quy trình liên lạc, thông
tin mở rộng, nhất thể hoá mối quan hệ giữa các địa phương, dân tộc, sự hình
thành những đô thị lớn cắt đứt với xã hội cổ truyền, cơ chế thị trường tự động
vận hành đi chung với quyền tư hữu tài sản, sự cạnh tranh sinh tồn cực kỳ gay
gắt, triết lý đồng tiền chi phối đời sống, chủ nghĩa vật chất thực dụng, quyền
lực và tài sản tập trung vào một thiểu số những cá nhân hoặc tập đoàn chóp bu
giàu xụ chi phối xã hội, thao túng nhà nước, bên dưới là đông đảo những người
làm công, những từng lớp lao động không có tư liệu sản xuất, cuộc sống tuỳ
thuộc, bấp bênh, bất an… tất cả hợp lại là một thứ chủ nghĩa tư bản vận động qua
những chu kỳ xen nhau giữa phát triển và suy thoái, khủng hoảng.
Một thứ chủ nghĩa tư bản với tính chất như vậy không
thể không cần được cải tiến, thay đổi, nhất là đối với những từng lớp lao động
phải chịu thiệt thòi nhiều nhất.
Không phải bằng những khẩu hiệu ảo tưởng về “đạo đức” mà là một
cấu trúc mới cho nó về mặt hình thái.
Nhưng qua những biểu hiện hiện thực gay gắt trên trên đây, Marx
đã thổi vào một biện chứng vận động mới làm cho thứ chủ nghĩa tư bản đó mang một
sinh mệnh được quy định theo cái viễn cảnh triết học tổng hợp của ông: một
phương thức nô lệ hoá lao động dưới hình thái trừu tượng, vận hành như một cỗ
máy vô tri giác, thu hút lao động con người như thu gom vật liệu, chạy theo sự
tăng trưởng của cải vật chất một cách vô độ, mù quáng. Phương thức sản xuất đó
chứa đựng tất cả những thuộc tính của chủ nghĩa tư bản, nhưng là một thứ chủ
nghĩa tư bản đã được cấu trúc lại xung quanh khái niệm giá trị, tượng hình thành
vật thể hàng hoá, biểu tượng của lao động bị tha hoá thông qua hình thái giá
trị thặng dư bị tước đoạt một cách “tự động” và “không giới hạn”.
Trong phân tích của Marx, hàng hoá do đó đã hàm chứa tất cả yếu
tính huyễn hoặc và trừu tượng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Một mặt
là kết quả của lao động phổ biến của con người, hàng hoá mang lại những tiện
ích, sự giàu sang cho xã hội nhưng mặt khác là kết quả của lao động bị tha hoá,
nó là hiện thân cho một guồng máy xã hội trong đó những người sản xuất trực tiếp
đã trở thành những nô lệ của thời hiện đại. Vì thế có thể hình dung sự vận động
của cái đống hàng hoá tràn ngập xã hội tư bản như là biểu hiện vật thể sự vận
động của lao động bị tha hoá: sự dồi dào về của cải trong xã hội chỉ mang ý
nghĩa của một thứ chủ nghĩa vật chất trống rỗng về nhân tính. Đó là tính đặc
trưng nhưng cũng lại là tính lịch sử của hình thái xã hội hàng hoá tư
bản chủ nghĩa: sự phát triển tột bậc về vật chất của nó cũng chính là sự đối lập
tột bậc của nó với tính chủ thể xã hội của con người.
Viễn cảnh giải phóng những người lao động từ đó tất yếu cũng bao
hàm nội dung giải phóng toàn nhân loại mà sinh mệnh đã bị cột chặt vào một quy
trình sản xuất biến mọi quan hệ xã hội thành những quan hệ vật thể. Và đó cũng
là triết học của Marx về tính lịch sử của xã hội hàng hoá tư bản chủ nghĩa, giả
định sự phát triển của xã hội hàng hoá đã đạt tới đỉnh điểm tất yếu phải chuyển
hoá về chất. Trước sự khai thác lao động tàn khốc vào giai đoạn ban đầu của chủ
nghĩa tư bản, do tin tưởng vào dự đoán của Marx về sự diệt vong cận kề của hình
thái kinh tế xã hội này, và cũng do những bức xúc về lý luận cần thiết cho các
cuộc đấu tranh thực tiễn, trong phong trào chống tư bản đã xuất hiện những thể
nghiệm đem tư tưởng của Marx vào thực hành, nhầm lẫn những giả định lôgích trong
hệ thống của ông với những định luật tự nhiên, có thể dàn ra thành một cương
lĩnh phát triển, coi đó như “cẩm nang” hành động, cố làm cho được bất chấp sự mù
mịt của thời gian, những hy sinh vì ảo tưởng, cuối cùng không dẫn đến đâu ngoài
sự sụp đổ như một ngôi nhà cao tầng không có chân móng.
Trước tình thế ấy, chủ nghĩa Marx đã bị đưa ra trước toà án tư
tưởng và bị coi là tội phạm gây ra mọi sai lầm, đặc biệt là về chính sách bạo
lực chuyên chính do chế độ toàn trị nhân danh Marx thực hiện. Với những nạn nhân
trực tiếp của chế độ đó thì nội dung của sự phản ứng là tiếng nói “không” khẩn
thiết với đói nghèo và thiếu tự do, vì vậy trước mắt họ con đuờng duy nhất cần
chọn lựa chỉ có thể là cái ngược lại với những gì mà chế độ toàn trị đã nhân
danh Marx để thực hiện, và điều đó cũng có nghĩa là khi phủ nhận Marx thì đương
nhiên phải trở về với chủ nghĩa tư bản, bất kể thứ chủ nghĩa tư bản nào. Hoàn
toàn không khó giải thích khi trong thực tế đã nẩy sinh xu hướng vồ vập, săn đón
vô điều kiện các thứ chủ nghĩa tự do cực đoan, xưa nay quyết liệt chống Marx
bằng cách dựa vào những thứ lý lẽ thời Chiến tranh Lạnh, đồng hoá Marx với các
chế độ gọi là “xã hội chủ nghĩa hiện thực” nhân danh Marx nói trên.
Với xu hướng thực dụng này, nội dung thực sự trong học thuyết
Marx không được đặt ra để phê phán nghiêm chỉnh về mặt văn bản, phương pháp tư
duy, những luận điểm dự báo giả định về sự vận động của lịch sử, những ý hướng
tich cực và hợp lý còn có thể giữ lại… vì vậy những bài học về sự tiếp thu ý
thức hệ vội vã và giáo điều trong quá khứ với những hậu quả tai hại của nó đã
không được quan tâm và bị bỏ qua thật dễ dàng, từ đó mở đường cho việc lặp lại
những sai lầm cũ về mặt chọn lựa tư tưởng hệ theo chiều đảo ngược cũng khá dễ
dàng: một thứ chủ nghĩa tự do cực đoan được giới thiệu ồn ào, cổ vũ cho sự ra
đời một mô hình thị trường rừng rú, biện minh cho một cung cách làm ăn chụp
giật, vô trách nhiệm… tràn lan vào tất cả mọi lĩnh vực của đời sống…
Về phần những người theo chủ nghĩa tự do cực đoan thì sau một
thoáng hả hê vì loại bỏ được kẻ thù không mấy khó khăn, sau đó là một thoáng lo
ngại về nguy cơ có thể rơi vào tình thế một con chó lười biếng nằm phơi nắng ở
một vĩa hè nào đó do không còn đối tượng chiến đấu, họ liền nhanh chóng nắm lấy
thời cơ, mở một cuộc phản công chiến lược, giành quyền thống trị về mặt nhà nước
qua đó thao túng tư tưởng và xã hội, thực hiện một đường lối phiêu lưu theo hình
mẫu bá quyền cũ bằng chiến tranh và bạo lực, theo đuổi chính sách bong bóng tiền
tệ buông thả, bất chấp những thành quả mà những chủ trương kềm chế thị trường,
những chính sách xã hội đã đạt được suốt một thời kỳ dài đã qua...
Nhưng tình hình không diễn ra theo mong mỏi: chỉ một thời gian
không lâu, nó đã đưa nền kinh tế toàn cầu rơi lại vào một cơn khủng hoảng tổng
thể, quy mô và cường độ không kém những năm 30 của thế kỷ trước.
Marx có thể giúp gì cho chúng ta hôm nay?
Sau nhiều lần bị xua đuổi, trừ tà, bóng ma của Marx bỗng được
triệu hồi, bộ Tư bản được tái bản ở nhiều nước, những trang sách của ông
lại được mở ra, dò tìm một số câu chữ nào đó có thể phụ giúp chủ nghĩa tư bản
vượt qua những cơn co giật. Thật sự thì xu hướng khai thác Marx một cách thực
dụng này không phải là mới mẻ lắm. Trước đây một số tác giả không theo Marx
nhưng vẫn nhìn ra được trong trước tác của ông những phê phán mang tính xã hội
học, dựa vào đó chủ nghĩa tư bản có thể nhận thức lại bản thân. Chúng ta hẳn còn
nhớ một số khái niệm xuất hiện một thời, ảnh hưởng một cách nào đó từ Marx, gián
tiếp hay trực tiếp, nhưng gần đây đã bị sự tấn công của các xu hướng tân bảo thủ
lùa vào một góc nào đó của ký ức, như thị trường-xã hội, chủ nghĩa tư bản-nhà
nước, chủ nghĩa tư bản-tham gia, chủ nghĩa tư bản-nhân dân, nhà nước phúc lợi,
dân chủ xã hội, chủ nghĩa xã hội dân chủ v.v…
Tuy thế khi nhìn vấn đề từ điểm phát sinh, nội dung của những
khái niệm nói trên không hẳn đều ảnh hưởng từ Marx; ít nhiều chúng đã bao hàm
ngay trong tư duy của những người khai sinh ra lý luận cho chủ nghĩa tư bản hiện
đại từ những ngày khởi đầu: không thể để cho bàn tay vô hình lộng hành như một
cỗ máy vô chủ thể, chỉ có thể coi thị trường như thị trường về mặt kinh tế
chứ không cho phép mở rộng thị trường thành thị trường về mặt xã hội,
có nghĩa là không thể biến thị trường thành một cơ chế văn hoá khiến con người
trở thành những hiện thân nhân cách cho cỗ máy làm tiền mù quáng – điều mà Marx
đã chứng minh bằng cách đẩy đến tận cùng hậu quả nhân sinh theo quan điểm riêng
biệt của ông. Xét về mặt này, người ta vẫn có thể rút ra từ hệ thống phản biện
của ông nhiều gợi mở điều chỉnh quan trọng.
Việc khai thác Marx theo chiều hướng trái ngược cũng đã diễn ra.
Ở đây không cần nói đến hiện tượng một số chính quyền độc tài từng mạo danh Marx
nay cũng nhân cơ hội này lợi dụng Marx một lần nữa để theo đuổi con đường gọi là
“tiến lên” của họ. Điều đáng quan tâm hơn chính là thái độ của những nạn nhân
của cơn khủng hoảng lần này: họ muốn tìm đến những trang sách của Marx, nhờ giải
thích hộ những điều “khó hiểu” mà họ vẫn phải chịu đựng hết thế hệ này đến thế
hệ khác. Những lớp trí thức thiên tả nay lại có cơ hội tính đến việc phục hồi
một phong trào chống tư bản rộng rãi – như một khẩu hiệu được dương lên:
Capitalism
Doesn’t Work! ;
những mộng tưởng về một xã hội phi hàng hoá, đưa con người ra
khỏi tình trạng vong thân, đây đó cũng được khơi lại không kém phần hào hứng.
Những hiện tượng nói trên là dễ hiểu: nội dung gây tranh cãi trong sách vở của
Marx không quan trọng bằng việc Marx mở ra cho mọi người hy vọng về một “thế
giới khác” vượt qua được những khắc nghiệt trong sự kiếm sống hàng ngày.
Điều đó không thể không dẫn chúng ta đến câu hỏi rốt ráo sau đây:
xét về phương diện thực tiễn, học thuyết Marx có thể làm gì trước khát vọng thay
đổi của thời đại ngày nay? Nếu gạt sang một bên những cách khai thác thực dụng
hoặc cảm tính để đi sâu vào cơ sở lý luận của Marx về mặt triết học, không ai có
thể trông chờ vào bất cứ một sự dễ dàng, đơn giản nào như trước đây cho những
câu trả lời có thể có. Nếu chỉ căn cứ vào những nhận xét đây đó của Marx trong
Tư bản về việc tập hợp những người công nhân tiến hành những cuộc “đấu
tranh giai cấp” đòi giảm giờ làm việc, cải thiện đời sống thì việc đó không cần
đến học thuyết của ông. Còn nếu mục đích của sự tập hợp ấy được xem là phương
tiện để hình thành một giai cấp hiện thân cho lao động chống lại tư bản, tạo
dựng nên một “tương lai hợp nhất con người” thì đó vẫn chỉ là suy lý lôgích. Đẩy
vấn đề đi đến cùng thì những luận giải của Marx về cái gọi “bí ẩn”, “siêu hình”
ẩn chứa trong hình thái vật thể hoá cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
không xé toang được màn sương phủ lên cái xã hội hàng hoá mà chỉ làm cho nó trở
nên dày đặc hơn vì những tư biện về bản chất con người và lịch sử của ông.
Trong khi đó thì cái phương thức sản xuất tạo ra của cải xã hội
mà ông phê phán vẫn đang tồn tại một cách “tự nhiên” với những bất toàn cố hữu
của nó. Lý luận của Marx đã tô thật đậm nhu cầu phải thay đổi chủ nghĩa tư bản
về mặt hình thái, nhưng cái vương quốc của lao động đặc trưng nhân loại mà ông
cho là có thể phục hồi để thay thế thế giới hàng hoá, ở đó sẽ có sự hoà giải
vĩnh viễn cho cá nhân và xã hội, không còn sự phân liệt giữa thực tại và lý
tưởng, giữa biểu hiện và yếu tính, xét từ cái gốc tư duy hình thành nên nó, thực
sự chỉ là một giấc mơ triết học đơn thuần. Trong cuộc đấu tranh gian nan của
những người lao động để khẳng định quyền sống của mình, tích cực nhất thiết
tưởng chỉ nên coi những suy tưởng mácxít đó như một ý hướng nhân bản để vươn tới
nhiều hơn là những nguyên lý căn cứ vào đó phấn đấu thực hiện như một cương lĩnh
kinh tế chính trị cụ thể. Điều có thể chắt lọc lại được trong hệ thống tư tưởng
của Marx sau hơn một thế kỷ thử thách với thực tiễn có lẽ chính là ở đó.
Tháng 5-2009
L.P
Chú thích
[*]
Bộ Tư bản sử dụng trong bài viết này là bản tiếng
Việt, được cho biết đã chuyển từ bản tiếng Đức (Berlin,
1962), gồm 3 tập, do Nhà xuất bản Tiến bộ (Matxcơva) và nhà
Nhà xuất bản Sự thật (Hà nội) ấn hành. Tập thứ nhất,
gồm 2 phần (1 và 2), xuất bản năm 1984, dẫn trong bài sẽ
được ghi chú trong ngoặc đơn: (TB I/1 hoặc 2, tr…). Tập
thứ hai, xuất bản 1985. Tập thứ ba, gồm 2 phần (1
và 2), xuất bản năm 1986, 1987, dẫn trong bài sẽ được chú
trong ngoặc đơn: (TB III/1 hoặc 2, tr…). Những trích dẫn từ
bộ Tư bản nói trên, đã được tác giả bài viết
này đối chiếu với một số bản tiếng Anh và tiếng Pháp trên
mạng (như Library Economics Liberty, Marxits.org…), khi gặp
một số chữ hoặc câu không rõ nghĩa hoặc bị nghi ngờ không
chính xác, đã được sửa chữa hoặc dịch lại. Một số khái niệm
hoặc thành phần câu được viện dẫn cũng đã được tác giả nhấn
mạnh (bằng chữ in nghiêng không có trong nguyên bản) mục
đích chỉ để lưu ý tầm quan trọng của chúng với người đọc.
Một số tài liệu tham khảo cập nhật chọn lọc
Martin Albrow &
Colin Bradford,
“The crisis is more than economics”,
http://www.laviedesidees.fr/The-crisis-is-more-than-economics.html
Raymond Aron: Le marxisme de Marx [những
bài giảng của Aron về chủ nghĩa Marx, chủ yếu ở Đại học
Sorbonne vào năm 1962, do Jean-Claude Casanova và Christian
Bachelier tập hợp, chú thích], Editions De Fallois, Paris,
2002
Ian Bremmer: “State Capitalism Comes of Age, The End of the Free
Market?”, Foreign Affairs May/June 2009
http://www.viet-studies.info/kinhte/state_capitalism_comes_of_age.htm
Congrès Marx International: Cent ans de
marxisme – Bilan critique et prospectives, Presses
Universitaires de France, Paris, 1996
Trần Hữu Dũng:
“Thử đoán chính sách kinh tế của Barack Obama”, Diễn Đàn 5-1-2009,
http://www.viet-studies.info/THDung/THDung_ThuTuMy_ChinhSachObama.htm
Francis Fukuyama: La fin de l'histoire et le
dernier homme, Paris, Flammarion, 1992, (nguyên bản
The End of History and the Last Man,
The Free Press, New York, 1992)
Francis Fukuyama: “Thinking about the Future of American
Capitalism”, American Interest
13 March 2009
http://www.viet-studies.info/kinhte/thinking_about_the_future_of_capitalism.htm
Alex Grant: “ Why Capitalism Does Not Work”, Youth for
International Socialism, December 30, 2001,
http://www.newyouth.com/archives/editorials/capitalism_doesnt_work.asp
Bernard Guerrien: Dictionnaire d’Analyse
Economique – microéconomie, macroéconomie, théorie des jeux,
etc, La Découverte, 2002, Nguyễn Đôn Phước dịch: Từ
điển Phân tích Kinh tế, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội,
2007
Tran Hai Hac: Relire “le Capital”,
Editions Page deux, Tome I &Tome II, 2003
Trần Hải Hạc: “Học thuyết Marx, Đảng Cộng sản
Việt Nam và vấn đề bóc lột”, Thời Đại Mới số 8, 2003
http://www.tapchithoidai.org/TD8_THHac.pdf
F. A. Hayek: The Road to Serfdom (1944);
Phạm Nguyên Trường dịch: Đường về nô lệ, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội,
2008; Đinh Tuấn Minh hiệu đính và giới thiệu; Lữ Phương viết thay lời bạt: “Vấn
đề tri thức trong ‘trật tự tự phát’ của Hayek”, sửa chữa và bổ sung bài đã đăng
trên tạp chí Thời Đại Mới số 14, tháng 7 năm 2008
(http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai14/200814_LuPhuong.htm)
G.W.F. Hegel: Bách khoa thư các khoa học
triết học I – Khoa học lôgíc (tiếng Đức 1830), Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú
giải, Nxb Tri thức, Hà nội, 2008
Karen Horn: “Why Adam Smith Still Matters”,
Standpoint.online, April 2009.
http://www.standpointmag.co.uk/node/1069/full
Michel Husson : “Pourquoi une théorie de la valeur?”, Cahiers
de critique communiste, 2004,
Hussian/ Bajani : “Marx's Theory of Value – Two Rival
Interpretations”, http://www.arasite.org/mxval.htm
Tamela Ice : “Alienation and Estrangement in Hegel’s”,
http://journal.ilovephilosophy.com
Leszek Kolakowski: Histoire du marxisme,
Tome I, [Olivier Masson dịch từ tiếng Đức], Fayard, 1987
Leszek Kolakowski: “Althusser’s Marx”,
http://thesocialistregister.com/index.php/srv/article/view/5334
Geoff Mulgan: “After
Capitalism”, Prospect April 2009,
http://www.viet-studies.info/kinhte/after_capitalism.htm
Leo Panitch: “ Thoroughly
Modern Marx”, Foreign policy, May /June 2009,
http://www.foreignpolicy.com/story/cms.php?story_id=4856
Hendrik Patroons: “Aliénation, chosification et fétichisme”,
http://www.lcrlagauche.be/cm/index.php?com_sectionnav&view=article&Itemid=53&id=490
Pierre Salama – Tran Hai Hac: Introduction à
l’économie de Marx, La Découverte, Paris, 1992
Robert J. Samuelson: “ American Capitalism Besieged”,
Washingtonpost.com, Monday,
March 23, 2009,
http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2009/03/22/AR2009032201507.html
Lucien Sève: “Marx contre-attaque”, Le monde diplomatique,
Décembre 2008,
http://www.monde-diplomatique.fr/2008/12/SEVE/16612
Wikipedia: “Labor Theory of Value”,
http://en.wikipedia.org/wiki/Labour_theory_of_value
Wikipedia: “Hegelianism”,
http://en.wikipedia.org/wiki/Hegelianism
:
“Obama vs. Marx”, The
New Republic, April 01,
2009,
http://www.tnr.com/politics/story.html?id=e050da85-7d49-46da-80fc-d9168c0faec7
Matt Yglesias: “When it comes to Marx, there’s no time like the
present”,
http://books.foreignpolicy.com/posts/2009/05/04/when_it_comes_to_marx_theres_no_time_like_the_present
© Thời Đại Mới
0 nhận xét:
Đăng nhận xét