Đến khi nàng thức giấc tỉnh dậy thì biết
mình có thai.
Một hôm khác, Trưng Tại mơ mơ màng màng như
người chiêm bao, chợt thấy một Ông già đến đứng ở sân, tự xưng là Ngũ Tinh,
dắt theo một con thú giống như con trâu con mà lại có một sừng, mình có vằn.
Con thú ấy trông thấy Trưng Tại thì nằm phục xuống và nhả ra một cái ngọc
xích, trên đó có đề chữ "Con nhà Thủy Tinh, nối đời suy Châu mà làm vua
không ngôi."
Trưng Tại biết là điềm lạ, liền lấy dải lụa
buộc vào sừng con thú ấy. Khi tỉnh dậy, Trưng Tại thuật điềm chiêm bao ấy
cho chồng nghe. Thúc Lương Ngột nói:
- Con thú ấy là con kỳ lân.
Gần đến sản kỳ, Trưng Tại hỏi hang núi
Không Tang ở đâu? Thúc Lương Ngột nói:
- Núi Nam sơn có một cái hang đá, tục gọi
là hang Không Tang.
Trưng Tại liền sửa soạn đến đó ở và sanh đẻ
trong hang Không Tang đúng theo lời Thần nhân mách bảo. Đêm hôm sanh ra
Khổng Tử, có hai con rồng xanh từ trên Trời bay xuống nằm phục ở hai bên
sườn núi và có hai vị Thần Nữ đem nước hương lộ đến gội đầu cho Trưng Tại.
Gội xong thì biến đi. Khi Trưng Tại lâm sản, bỗng thấy trong hang đá có một
suối nước nóng chảy ra để Trưng Tại tắm. Tắm xong thì suối cạn ngay.
Thúc Lương Ngột nói:
- Vì ta cầu tự nơi núi Ni Sơn mà được đứa
bé nầy, nên ta đặt tên cho nó là Khâu, tự là Trọng Ni.
Trưng Tại biết đứa con nầy sẽ làm nên việc
lớn, nên hết sức nuôi nấng và chăm sóc con.
Ông Khổng Tử có tướng lạ lắm: Môi như môi
trâu, tay như tay hổ, vai như vai chim uyên, lưng rùa, miệng rộng, hầu lộ,
trán phẳng và cao, khi lớn, mình cao 9 thước 6 tấc (thước Tàu), có tánh ham
học.
Năm Khổng Tử lên 3 tuổi thì cha mất. Ngài
sống với mẹ trong cảnh nhà nghèo. Khi lớn lên, mẹ cho đi học, Ngài chơi với
trẻ hàng xóm, thích bày trò cúng tế.
Năm 15 tuổi, lập chí học tập.
Năm 19 tuổi, Ngài cưới vợ, vợ của Ngài là
con của họ Thượng Quan nước Tống.
Năm 20 tuổi, vợ Ngài sanh đặng một con
trai. Hôm đó, Lỗ Chiêu Công sai đem đến ban cho Ngài một con cá chép (Lý
ngư), nên nhân đó, Ngài đặt tên con là Lý tự là Bá Ngư, để tỏ lòng tôn trọng
vật của vua ban tặng. Về sau, Bá Ngư chết lúc 50 tuổi, chết trước Đức Khổng
Tử. Con của Bá Ngư tên là Khổng Cấp, tự là Tử Tư, sau theo học với Tăng Sâm,
rồi làm ra sách Trung Dung.
Ngài cầm quyền được 7 ngày thì tâu với vua
Lỗ xin giết gian thần Thiếu Chính Mão để chỉnh đốn quốc chính.
Đức Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão:
Thiếu Chính Mão là một nịnh thần rất nguy
hiểm dưới trào Lỗ Định Công. Bấy giờ, Đức Khổng Tử đang làm quan Tướng Quốc
nước Lỗ. Quý Tôn Tư, một vị Đại Thần quyền thế trong triều, nhưng luôn luôn
hỏi ý kiến của Đức Khổng Tử mỗi khi có một quyết định trong công việc trị
nước. Nhưng phần Thiếu Chính Mão, khi Đức Khổng Tử nói ra câu gì thì liền
gièm pha khiến người nghe phân vân và đôi khi bị mê hoặc.
Đức Khổng Tử mật tâu với Lỗ Định Công:
- Nước Lỗ không cường thịnh lên được là vì
trung nịnh không phân biệt, thưởng phạt không nghiêm minh. Thí dụ như muốn
trồng lúa tốt tất phải trừ bỏ cỏ xấu. Xin Chúa công cho đem các đồ phủ việt
(dùng vào việc hình) trong nhà Thái miếu bày ra ở dưới Lưỡng quán để dùng
vào việc hình.
Lỗ Định Công thuận cho.
Sáng hôm sau, Lỗ Định Công truyền cho các
quan triều đình hội nghị để bàn việc phá thành ấp xem lợi hại thế nào. Các
quan người nói nên phá, người nói không nên phá.
Thiếu Chính Mão đón ý Đức Khổng Tử, nói
rằng:
- Phá thành có 6 điều tiện:
-
Để tôn trọng quyền vua không ai
bằng.
-
Để tôn trọng cái quyền thế Đô thành.
-
Để ức quyền tư môn.
-
Để khiến cho kẻ gia thần lộng quyền
không chỗ nương cậy.
-
Để yên lòng ba nhà: Mạnh, Thúc, Quý.
-
Để khiến cho các nước nghe việc nước
Lỗ ta làm mà phải kính phục.
Đức Khổng Tử tâu với Lỗ Định Công:
- Thành ấp nay đã thế cô còn làm gì được,
huống chi Công Liễm Dương vẫn có lòng trung với vua, sao dám bảo là lộng
quyền. Thiếu Chính Mão dùng lời nói khéo để làm loạn chánh trị, khiến vua
tôi ly gián, cứ theo phép thì nên giết.
Các quan trong triều tâu:
- Thiếu Chính Mão là người danh giá ở nước
Lỗ ta, dầu có nói lầm đi nữa cũng chưa đến tội chết.
Đức Khổng Tử lại tâu với Lỗ Định Công:
- Thiếu Chính Mão là người dối trá mà lại
biện bác, làm người ta mê hoặc. Nếu không giết đi thì việc chánh trị không
thi hành nổi. Xin Chúa Công cho đem phủ việt ra để trị tội.
Đức Khổng Tử truyền cho lực sĩ trói Thiếu
Chính Mão đem đến Lưỡng quán mà giết đi.
Các quan trong triều đều sợ hãi, xám xanh
cả mặt. Ba nhà: Mạnh, Thúc Quý, trông thấy cũng đều kinh sợ.
Từ khi giết xong Thiếu Chính Mão, Lỗ Định
Công và ba nhà Mạnh, Thúc, Quý mới một lòng nghe theo lời của Đức Khổng Tử.
Nhờ vậy, Đức Khổng Tử chỉnh đốn kỷ cương trong nước, dạy dân những điều lễ,
nghĩa, liêm, sĩ, nên dân không còn nhiễu loạn mà chánh trị mỗi ngày một hay.
Ba tháng sau, phong tục biến cải cả: Các
nhà buôn gà và heo không dám nhồi cám để dối người mua, trong khi ra đường,
trai gái đi phân biệt nhau, không hỗn loạn, thấy của rơi ngoài đường thì
không ai lượm, người nước khác du lịch đến nước Lỗ được tiếp đãi tử tế,
không để cho thiếu thốn.
Dân nước Lỗ có làm một bài ca để tán tụng
công đức của Khổng Tử. Bài ca ấy được truyền tụng sang nước Tề.
Tề Cảnh Công lo ngại nói rằng:
- Nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu ắt nên
nghiệp Bá, tất họa đến nước Tề, ta biết làm thế nào?
Quan Đại Phu Lê Di tâu rằng:
- Chúa Công lo nước Lỗ biết dùng Khổng
Khâu, sao không lập cách ngăn đi.
Tề Cảnh Công nói:
- Nước Lỗ giao quyền chánh trị cho Khổng
Khâu, ta dùng cách gì mà ngăn trở được?
Lê Di tâu:
- Tính con người ta, hễ được cường thịnh
tất sanh lòng kiêu mạn. Xin Chúa Công lập một Bộ Nữ Nhạc mà đem dâng vua Lỗ.
Vua Lỗ mà nhận Bộ Nữ Nhạc tất sanh lười biếng mà chán Khổng Khâu. Bấy giờ
tất Khổng Khâu phải bỏ nước Lỗ mà đi, Chúa Công mới có thể ngồi yên được.
Quả vậy, Lỗ Định Công, không nghe lời can
gián của Đức Khổng Tử, nhận Bộ Nữ Nhạc thì mê say theo, bỏ bê việc triều
chánh, có khi luôn 3 ngày không ra coi triều, mọi việc đều giao cả cho Họ
Quí. Đức Khổng Tử can gián vua Lỗ nhiều lần nhưng không được, lại có thể bị
hại vì lời gièm siễm của bọn gian thần.
Do đó, trong ngày Lễ Tế Giao, vua Lỗ không
nhìn đến, cũng không đem phần thịt tế biếu cho các quan Đại Phu. Đức Khổng
Tử nhân việc lỗi nhỏ của vua Lỗ mà xin từ chức, bỏ nước Lỗ đi chu du các
nước chư hầu.
Đức Khổng Tử cùng các học trò đi qua các
nước: Vệ, Khuông, Trần, Tống, Thái, Sở, để mong thuyết phục các vua chư Hầu
chịu đem cái Đạo của Ngài ra ứng dụng để đem lại thái bình thạnh trị cho dân
chúng. Nhưng cái Đạo của Ngài là Vương Đạo nên đi ngược ý đồ Bá Đạo của các
vua chư Hầu và quyền lợi của các quan Đại phu nên các vua chư Hầu đều không
dám dùng Ngài.
Rốt cuộc, sau 14 năm đi chu du các nước
không thành công, Ngài phải trở về nước Lỗ, có quan Đại Phu Quý Khang Tử sai
Công Hoa ra đón Ngài.
Phu nhân của Đức Khổng Tử là bà Thượng Quan
đã mất trước đó một năm, nhằm năm Lỗ Ai Công thứ 10.
Đức Khổng Tử cùng một số học trò, trên
đường qua nước Trần, gặp một đám trẻ nhỏ chơi đùa giữa đường. Ngài ngồi trên
xe nhìn đám trẻ, thấy một cậu bé cặm cụi lấy cát đắp một cái thành nhỏ mà
không đùa giỡn. Ngài hỏi cậu bé:
- Sao cậu không chơi đùa với mấy đứa trẻ
kia?
Cậu bé đáp: - Đùa giỡn thì vô ích, vì có
thể bị rách áo quần, nhọc công mẹ vá, lại buồn lòng cha, nên tôi không giỡn.
Nói xong, cậu tiếp tục lo đắp thành. Đức
Khổng lại hỏi:
- Cậu không tránh cho xe của tôi đi sao?
Cậu bé thản nhiên đáp: - Từ xưa đến giờ, xe
phải tránh thành, chớ có bao giờ thành tránh xe.
Đức Khổng Tử nghe cậu bé trả lời một câu
bất ngờ và hay quá, liền xuống xe lại gần cậu hỏi nhiều điều khó khăn, được
cậu trả lời thông suốt, sau đó cậu hỏi lại Đức Khổng Tử mấy câu mà Ngài
không trả lời được, khiến Ngài rất phục cậu bé, tôn cậu bé làm thầy. Cậu bé
ấy là Thần đồng Hạng Thác.
"Lúc Khổng Tử dạy về Nhơn đạo thời chưa
thông Thiên đạo, còn dùng tửu nhục. Đến khi ngộ đạo cùng Hạng Thác thì trì
trai thủ giới, nên mới có câu: Thiên sanh Khổng Tử chơn kỳ trí, tánh mạng
công phu thỉ bất minh, vãng Trần lộ ngộ Hạng Thác vi sư, lão tác đồ ty thiếu
vi tôn, cùng câu: Trai minh thạnh phục, yết dục dưỡng tinh.
Sau ngươi Châu Tử chẳng thông thời vụ,
học Trung Dung chưa rồi mà luận đến Thiên đạo, lại chê Khổng Tử, Lão Tử rằng
luận thuyết hư vô tịch diệt là dị đoan. Có phải ấy là ếch nằm đáy giếng xem
trời nhỏ chăng?" (Đại Thừa Chơn Giáo)
Đức Khổng Tử ở Nhơn đạo, nhờ Thần đồng Hạng
Thác mà Ngài giác ngộ, tu theo Thiên đạo nên trường trai, tuyệt dục, dưỡng
Tinh luyện đạo, đắc phẩm Chí Thánh.
Khi trở về nước Lỗ, Đức Khổng Tử đã 68
tuổi. Ngài trở lại quê nhà để mở mang việc dạy học và soạn sách.
Tổng số môn đệ của Đức Khổng Tử có lúc lên
tới 3000 người (Tam thiên đồ đệ), trong đó có 72 người được liệt vào hạng
tài giỏi, nên gọi là Thất thập nhị Hiền.
Đức Khổng Tử san định lại các kinh sách của
Thánh Hiền đời trước như: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch.
Ngài ghi chú các lời nói của Thánh Hiền đời
trước, xếp đặt lại cho có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu, nhất là với
Kinh Dịch, Ngài chú giải rất kỹ.
Sau đó, Đức Khổng Tử viết ra sách Xuân Thu,
chép những việc của nước Lỗ và của nhà Châu (Chu) liên hệ với các nước chư
Hầu từ đời Lỗ Ẩn Công nguyên niên (721 trước Tây lịch) đến đời Lỗ Ai Công
thứ 14 (481 trước Tây lịch), tổng cộng là 242 năm. (Xem
chi tiết nơi phần sau: Khổng Tử tác Xuân Thu)
Đức Khổng Tử là bậc Chí Nhân Chí Thánh,
nhưng Ngài vẫn khiêm tốn không dám nhận mình là Thánh nhân.
Đối với các môn đệ, Ngài rất dễ dãi. Hễ ai
theo đúng lễ đến xin học thì Ngài không bao giờ từ chối. Ngài thâu nhận học
trò, không kể giàu nghèo, con quan hay con dân. Ngài mở ra một nền giáo dục
bình dân đại chúng, đào tạo được một lớp người trí thức mới, tài giỏi và có
đức hạnh trong giới bình dân.
Sự giáo hóa của Ngài chủ yếu là làm sao cho
sáng tỏ cái đức sáng của người, chớ không gom vào trong sự truyền thụ kiến
thức. Đây là một phương pháp giáo dục rất hay để khai mở cái Tâm của con
người vậy.
Mùa Xuân năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 trước
Tây lịch), người nước Lỗ đi săn bắt được một con kỳ lân què chân trái phía
trước. Đức Khổng Tử đến xem rồi bưng mặt khóc. Khi trở về, Ngài than rằng:
Ngô đạo cùng hỹ! (Đạo của ta đến lúc cùng)
Sách Xuân Thu chép đến chuyện nầy thì hết,
nên đời sau còn gọi sách Xuân Thu là Lân Kinh.
Năm Nhâm Tuất đời Lỗ Ai Công thứ 17 (479
trước Tây lịch), một hôm Đức Khổng Tử chống gậy đi tản bộ trước nhà, vừa đi
vừa hát: Thái sơn kỳ đồi hồ! Lương mộc kỳ hoại hồ! Triết nhân kỳ nuy hồ!
(Núi Thái sơn đổ ư! Cây gỗ tốt hư hoại ư! Triết nhân mòn mỏi ư!)
Học trò của Ngài là Tử Cống liền đến hỏi
thăm Ngài. Ngài nói: Ta biết mình sắp chết.
Đến ngày Kỷ Sửu, tức là ngày 18 tháng 2 năm
Nhâm Tuất, Đức Khổng Tử tạ thế, hưởng thọ 73 tuổi. Mộ của Ngài ở bên bờ sông
Tứ Thủy, phía Bắc thành nước Lỗ, nay gọi là Khổng Lâm, thuộc huyện Khúc Phụ,
tỉnh Sơn Đông.
Ba ngàn đồ đệ của Ngài đều thương tiếc và
than khóc, nguyện để tang Thầy 3 năm. Có hơn 100 môn đệ làm nhà chung quanh
phần mộ để lo phụng tự trong 3 năm, riêng Tử Cống ở đó hết 6 năm mới thôi.
Chu vi đất quanh mộ của Đức Khổng Tử rộng
chừng 100 mẫu mà không hề có cây gai và cỏ may mọc. Học trò bảo nhau đi tìm
các thứ hoa thơm cỏ lạ ở các nơi đem về trồng khắp chung quanh.
- Năm 739, vua Đường Huyền Tôn phong tặng
Đức Khổng Tử là Văn Tuyên Vương, mặc phẩm phục Hoàng đế, tặng cho các
đệ tử các tước: Công, Hầu, Bá.
- Năm 1008, vua Tống Chân Tông phong Ngài
là: Đại Thánh Văn Tuyên Vương, phong cho thân phụ Ngài là Lỗ Công,
thân mẫu Ngài là Lỗ Phu Nhân, vợ là Bà Thượng Quan Thị làm Vân Phu Nhân, và
ra lịnh cho các tỉnh lập miếu thờ Ngài.
- Năm 1306, vua Minh Thế Tông phong tặng
Ngài là Chí Thánh Tiên Sư.
- Năm 1645, vua Thanh Thế Tổ phong Ngài là
Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Thánh Sư Khổng Phu Tử.
Văn miếu hay Văn Thánh miếu là tòa nhà dựng
lên để làm Đền thờ Đức Khổng Tử và các môn đệ của Ngài cùng với các Tiên
hiền, Tiên nho qua các thời đại gồm:
a. Tứ Phối: Bốn vị Thánh cùng được
phối hưởng cúng tế với Đức Khổng Tử. Tứ Phối gồm:
-
Phục Thánh Nhan Tử (Nhan Hồi)
-
Tông Thánh Tăng Tử (Tăng Sâm)
-
Thuật Thánh Tử Tư (Khổng Cấp)
-
Á Thánh Mạnh Tử (Mạnh Kha)
b. Thập Triết: Mười vị Hiền triết,
học trò tài giỏi nhứt của Đức Khổng Tử. Thập Triết gồm:
c. Thất thập nhị Hiền: 72 vị học trò
giỏi của Đức Khổng Tử, nhưng ở dưới Thập Triết một bực.
Nói là Thất thập nhị Hiền, chớ thật ra chỉ
có 62 vị, vì trong Thất thập nhị Hiền có Thập Triết, nên phải trừ ra 10 vị.
d. Tiên Hiền, Tiên Nho: gồm 120 vị,
qua các triều đại từ xưa đến nay.
Đức Khổng Tử là một Đấng Giáo chủ trong Tam
giáo thuộc thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Nhờ Đức Khổng Tử mà Nho giáo mới được hưng
hạnh, và trở thành một học thuyết triết học nhân sinh có hệ thống chặt chẽ
và hoàn hảo, chủ yếu dạy về Nhơn Đạo (Đạo làm Người). Không có một giáo
thuyết nào dạy Nhơn Đạo hoàn hảo bằng Nho giáo.
Trong Kinh Cúng Tứ Thời của Đạo Cao Đài có
bài Kinh Nho giáo để xưng tụng công đức của Đức Khổng Tử.
Ngày Đại Lễ Vía Đức Khổng Tử được chọn là
ngày giáng sanh của Đức Khổng Tử, đó là ngày 27 tháng 8 âm lịch. Hằng năm,
khi đến ngày nầy, tại Toà Thánh và các Thánh Thất địa phương đều có thiết lễ
Đại Đàn cúng Vía Đức Khổng Tử, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại Tiểu sử của
Ngài, và nói về sự ích lợi của Nho giáo đối với sự ổn định trật tự trong gia
đình và ngoài xã hội.
Do đó, Đức Chí Tôn mới có chủ trương NHO
TÔNG CHUYỂN THẾ, tức là dùng tinh hoa của Giáo lý Nho giáo để dạy dỗ
người đời, tái lập trật tự và đạo đức trong xã hội.
Trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, Đức Khổng Tử
có giáng cơ dạy Đạo.
Sau đây, xin chép lại bài Thánh giáo nầy
của Ngài:
Ngày 17 tháng Giêng năm Nhâm Thân
(1932).
THI:
NGÃ dĩ từ chương giáo nghĩa phương,
KHỔNG văn hoằng hóa sự luân thường.
PHU thê, phụ tử, quân thần đạo,
TỬ đệ phùng thời độ thiện lương.
DIỄN DỤ:
Các sĩ cùng chư khanh nghe rõ: việc Tam giáo hiệp nhứt.
Từ mới mở mang Trời Đất đã có Đại Đạo. Tam giáo vốn một
nhà, đời sau chia làm ba, chớ kỳ trung một bổn, kẻ thế không thông hiểu nên
tranh luận giành điều chơn giả với nhau hoài. Những người xưng mình là Minh
Sư, thọ truyền cho đồ đệ, thì mỗi người cũng muốn khoe tài mình mà truyền
khẩu với chúng sanh rằng, đạo mình chánh, đạo khác thì tà: Té ra, mình là
manh sư gạt chúng.
Nếu Đạo Tiên, Đạo Phật mà không dùng văn chương thì lấy
chi mà tả kinh diễn kệ. Còn học Nho mà không học Đạo thì ra người cuồng sĩ
kiêu căng.
Vậy khuyên mấy sĩ Ba Đạo cũng đồng tìm kiếm gốc cho minh
chơn lý, đặng trước độ mình, sau độ chúng. Vậy mới gọi là Chánh kỷ hóa nhơn.
Thi rằng:
Tam giáo từ xưa vốn một nhà,
Người sau lầm tưởng, vọng chia ba.
Minh tâm may hiểu đường chơn giả,
Mẫn tánh mới thông nẻo chánh tà.
Thích, Đạo tỷ như hành bộ khách,
Nền Nho ví tợ chiếc đò qua.
Muôn ngàn kinh kệ do nơi chữ,
Tam giáo từ xưa vốn một nhà.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét