Tháng 6 27, 2013
Jerry Z. Muller
Trần Ngọc Cư dịch
Gia đình và vốn con người
Trong môi trường toàn cầu hóa, tài chính
hóa, hậu công nghiệp ngày nay, vốn con người là quan trọng hơn bao giờ
hết trong việc quyết định những cơ may trong đời. Điều này khiến vai
trò của gia đình trở nên quan trọng hơn cũng bởi vì, các nguồn lực do
gia đình truyền lại cho con cái có xu thế định đoạt rất nhiều cho sự
thành công ở nhà trường và nơi làm việc, như phát hiện luôn lặp lại của
mọi thế hệ các nhà nghiên cứu xã hội và khiến họ tiu nghỉu. Như chuyên
gia kinh tế Friedrich Hayek đã vạch ra nửa thế kỷ trước trong cuốn The Constitution of Liberty
(Hiến pháp của Tự do), trở ngại chính cho sự bình đẳng về cơ hội là ta
không thể tìm được một cơ chế tốt hơn để thay thế những vị phụ huynh
thông minh hay những gia đình biết bồi dưỡng tình cảm và văn hóa cho con
cái. Theo một nghiên cứu gần đây của hai nhà kinh tế Pedro Carneiro và
James Heckman, “Những khác biệt về trình độ kỹ năng nhận thức (cognitive
skills) và các kỹ năng không thuộc phạm vi nhận thức (noncognitve
skills) xuất hiện sớm trong đời người và tồn tại mãi. Có chăng là, học
vấn chỉ đào sâu thêm những khác biệt đầu đời này mà thôi”.
Vốn di truyền nằm dưới nhiều dạng thức
khác nhau: cơ cấu gien (genetics), sự nuôi dưỡng trước và sau khi đứa
trẻ sinh ra, và các định hướng văn hóa được truyền đạt trong gia đình.
Hẳn nhiên, tiền bạc cũng quan trọng, nhưng thường không quan trọng bằng
những yếu tố gần như không liên quan đến tiền bạc này. (Sự hiện hữu nổi
bật của sách báo trong một hộ gia đình là dấu hiệu con cái đạt điểm cao ở
học đường, chứ không phải là lợi tức của gia đình đó.) Qua thời gian,
nếu xã hội được tổ chức dựa vào chế độ nhân tài, vốn di truyền gia đình
và phần thưởng thị trường sẽ có có xu thế gắn bó với nhau.
Những cha mẹ có học vấn thường có khuynh
hướng đầu tư thêm thì giờ và năng lực cho việc chăm sóc con cái, thậm
chí khi cả cha lẫn mẹ đều bận việc ở sở làm. Và những gia đình có vốn
con người phong phú có khả năng sử dụng hiệu quả hơn những phương tiện
giáo dục cải tiến mà chủ nghĩa tư bản đương đại cống hiến (chẳng hạn
tiềm năng bồi dưỡng tri thức qua Internet) đồng thời chống lại những cạm
bẫy tiềm ẩn (như xem TV và chơi các trò chơi vi tính).
Điều này ảnh hưởng đến khả năng của trẻ
em trong việc vận dụng nền giáo dục chính thức ở nhà trường, một nền
giáo dục ít ra cũng có tiềm năng ngày càng mở rộng để đón tiếp mọi
người, bất chấp địa vị kinh tế hay sắc tộc. Vào đầu thế kỷ 20, chỉ có
6,4 % trẻ em Mỹ hoàn tất bậc trung học, và chỉ một trong 400 người tiếp
tục lên đại học. Như vậy, thời bấy giờ một bộ phận dân chúng rất đông
đảo có khả năng trí óc, nhưng không có cơ hội, để theo đuổi các bằng cấp
cao. Ngày nay, tỉ lệ học sinh Mỹ hoàn tất bậc trung học là khoảng 75%
(xuống từ đỉnh cao 80% năm 1960), và khoảng 40% thanh niên đăng ký theo
học đại học.
Tờ The Economist gần đây đã
nhai lại một quan niệm lỗi thời: “Trong một xã hội có cơ hội đồng đều
rộng rãi, địa vị của cha mẹ trên thang lợi tức sẽ không mấy ảnh hưởng
đến nấc thang lợi tức của con cái họ về sau”. Nhưng sự thật là, càng có
cơ hội đồng đều do cơ chế tạo ra bao nhiêu, thì các di sản thuộc vốn con
người của gia đình lại càng quan trọng bấy nhiêu. Như nhà khoa học
chính trị Edward Banfield nhận xét một thế hệ trước đây trong cuốn The Unheavenly City Revisited [một
tác phẩm xét lại các vấn đề đô thị Mỹ, ND], “Toàn bộ nền giáo dục luôn
ưu đãi trẻ em thuộc giai cấp trung lưu hoặc thượng lưu, vì thuộc về giai
cấp trung lưu hay thượng lưu có nghĩa là hưởng được những phẩm chất tốt
đẹp giúp cho việc học tập đặc biệt dễ dàng”. Những cải tiến về phẩm
chất trường học có thể cải thiện thành quả giáo dục nói chung, nhưng
chúng có xu thế làm gia tăng, chứ không giảm bớt, khoảng cách thành đạt
giữa con em xuất thân từ những gia đình có vốn con người chênh lệch
nhau. Những nghiên cứu gần đây với mục đích chứng minh rằng tại Hoa Kỳ
ngày nay sự thăng tiến xã hội giữa các thế hệ (intergenerational
mobility) ít diễn ra hơn so với trong quá khứ (hay so với tại một số
quốc gia châu Âu), đã không thấy được rằng sự kiện này thật ra có thể là
sản phẩm trớ trêu của nỗ lực gia tăng bình đẳng về cơ hội qua nhiều thế
hệ. Và trong khía cạnh này, có thể Hoa Kỳ chỉ là nước dẫn đầu trong các
xu thế cũng hiện diện tại các nước tư bản tiên tiến khác.
Thành đạt khác nhau giữa các nhóm xã hội
Gia đình không phải là cơ chế xã hội duy
nhất có một ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển vốn con người
(human capital) và đối với sự thành công nhiên hậu trong thị trường; các
nhóm cộng đồng, như các cộng đồng tôn giáo, chủng tộc và dân tộc cũng
có một ảnh hưởng tương tự. Trong cuốn sách xuất bản năm 1905, The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism
(Luân lý Tin lành và Tinh thần Tư bản chủ nghĩa), nhà xã hội học Max
Weber nhận xét rằng trong các khu vực tôn giáo khác nhau, người Tin lành
làm kinh tế giỏi hơn người Công giáo, và người theo Giáo phái Calvin
(Calvinists) thành công hơn người theo Giáo phái Luther (Lutherans).
Weber đưa ra một một lý giải mang tính văn hóa cho sự khác biệt này, một
sự khác biệt có gốc rễ trong những khuynh hướng tâm lý do các đức tin
khác nhau này tạo ra. Vài năm sau, trong cuốn The Jews and Modern Capitalism
(Người Do Thái và Chủ nghĩa Tư bản Hiện đại), Werner Sombart, người
đồng thời với Weber, đưa ra một lý giải khác hơn cho sự thành công của
các nhóm khác nhau, bằng cách một phần dựa vào các khuynh hướng văn hóa
và một phần dựa vào các khuynh hướng chủng tộc. Và đến năm 1927,
Schumpeter, một đồng nghiệp trẻ hơn của họ đã đặt tựa đề cho một bài
tiểu luận quan trọng là “Giai cấp xã hội trong một môi trường thuần
chủng (ethnically homogeneous)”, vì ông đinh ninh rằng trong một bối
cảnh hợp chủng, các mức độ thành đạt thay đổi theo từng sắc dân, chứ
không chỉ theo giai cấp xã hội mà thôi.
Những lý giải được đưa ra cho những mô
hình nói trên là không quan trọng bằng thực tế là, mức thành đạt khác
nhau giữa các nhóm vẫn là một đặc điểm bất diệt trong lịch sử của chế độ
tư bản, và những chênh lệch này vẫn tiếp tục tồn tại ngày nay. Tại Hoa
Kỳ đương đại, chẳng hạn, người châu Á (đặc biệt khi không kể đến các sắc
dân hải đảo Thái Bình Dương) có xu thế thành đạt hơn người da trắng bản
xứ (non-Hispanic whites), người da trắng bản xứ lại thành đạt hơn người
da trắng gốc châu Mỹ La tinh (Hispanic whites), người châu Mỹ La tinh
lại thành đạt hơn người Mỹ gốc châu Phi [người da đen]. Đây là sự thật
dù ta nhìn vào sự thành đạt về học vấn, vào lợi tức, hay nhìn vào các
loại hình gia đình, như các trường hợp sinh con ngoại hôn chẳng hạn.
Những quốc gia Tây Âu (và nhất là những
quốc gia Bắc Âu), với những trình độ bình đẳng kinh tế còn cao hơn Mỹ
nhiều, thông thường là những nước có những khối dân thuần chủng hơn Mỹ.
Khi những đợt dân nhập cư gần đây làm cho nhiều nước tiên tiến hậu công
nghiệp giảm bớt tính thuần chủng so với trước, chúng cũng có vẻ phân hoá
giai cấp theo các đường ranh cộng đồng, với một số nhóm dân nhập cư
biểu hiện những mô hình thành công hơn khối dân cư hiện hữu từ trước và
một số nhóm khác lại ít thành công hơn. Tại Vương quốc Anh chẳng hạn,
con cái những người Trung Hoa và người Ấn Độ nhập cư thường thành công
hơn dân bản xứ, trong khi con cái của người da đen từ vùng Ca-ri-bê
(Caribbean blacks) và người Pakistan thường thua kém hơn. Tại Pháp, con
cái của người Việt Nam nhập cư thường thành công hơn con cái người bản
xứ, và con cái của các sắc dân Bắc Phi lại thua kém hơn. Tại Israel, con
cái của người Nga nhập cư thường thành công hơn người bản xứ, trong khi
con cái của những người nhập cư từ Ethiopia lại thua kém hơn. Tại
Canada, con cái người Trung Hoa và người Ấn Độ thường thành công hơn con
cái dân bản xứ, trong khi con cái của dân nhập cư từ vùng Ca-ri-bê và
châu Mỹ La tinh lại thua kém hơn. Phần lớn sự chênh lệnh trong mức độ
thành công này có thể được giải thích bằng thành phần giai cấp và quá
trình đào tạo khác nhau của các nhóm nhập cư ngay tại cố quốc của họ.
Nhưng vì bản thân những cộng đồng nhập cư này đã đóng vai trò là nơi cưu
mang vốn con người, những mô hình về sự thành đạt này có khả năng và
vẫn còn tồn tại qua thời gian và không gian.
Trong trường hợp Hoa Kỳ, chính sách di
trú của nước này đã đóng một một vai trò thậm chí còn lớn hơn trong việc
làm nghiêm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng, vì tính năng động kinh
tế, sự cởi mở văn hóa, và địa thế của nước Mỹ có xu thế thu hút một số
người tài giỏi và thông minh nhất thế giới lẫn một số người ít học nhất
thế giới. Sự thể này đã nâng chóp bu của thang kinh tế lên cao và hạ
phần dưới cùng xuống thấp hơn nữa.
Tại sao giáo dục không phải là một phương thuốc chữa trị mọi thứ bệnh
Sự nhìn nhận ngày càng rộng lớn về tình
trạng bất bình đẳng và phân hóa giai cấp xã hội đang gia tăng tại các
nước hậu công nghiệp đương nhiên đã đưa đến các cuộc thảo luận về những
điều có thể thực hiện để đối phó vấn đề này. Trong bối cảnh của Hoa Kỳ,
câu trả lời đến từ hầu hết mọi thành phần xã hội thật là đơn giản: giáo
dục.
Một chủ đề của lập luận này tập trung
vào giáo dục đại học. Theo đó, hiện nay có một khoảng cách đang gia tăng
về những cơ may trong đời giữa những người tốt nghiệp đại học và những
người không tốt nghiệp, và vì thế cần phải có càng nhiều người vào đại
học càng tốt. Đáng tiếc là, mặc dù một tỉ lệ người Mỹ cao hơn trước đang
theo đuổi bậc đại học, nhưng họ không nhất thiết học hỏi nhiều hơn. Một
con số ngày càng đông đảo không đủ khả năng học tập ở bậc đại học,
nhiều người phải rời ghế nhà trường trước khi hoàn tất học vị, và nhiều
người khác nhận những bằng cấp chỉ phản ánh những tiêu chuẩn thấp hơn
trình độ mà người ta thường cho là một bằng đại học phải có.
Trong khi đó, mức chênh lệch đáng kể
nhất trong sự thành tựu ở học đường diễn ra sớm hơn bậc đại học, được
biểu hiện trong tỉ lệ hoàn tất bậc trung học, và những chênh lệnh quan
trọng trong thành tích học tập (giữa các giai cấp xã hội khác nhau và
giữa các sắc tộc khác nhau) còn xuất hiện sớm hơn, ngay từ cấp tiểu học.
Do đó, một chủ đề thứ hai của cuộc tranh luận giáo dục tập trung vào
bậc tiểu học và trung học. Những phương thức chữa trị được đề xuất ở đây
gồm có: cung cấp thêm tiền cho các trường học, cho phụ huynh nhiều lựa
chọn hơn, kiểm tra bài vở của học sinh thường xuyên hơn, và cải thiện
hiệu năng của giáo viên. Thậm chí nếu một số hoặc toàn bộ các biện pháp
này là đáng mong muốn vì những lý do khác đi nữa, không một biện pháp
nào chứng tỏ đã giảm bớt khoảng cách giữa các học sinh và giữa các nhóm
xã hội – vì bản thân nền giáo dục chính thức ở nhà trường (official
schooling) đóng một vai trò tương đối nhỏ bé trong việc tạo ra hoặc duy
trì các khoảng cách thành đạt (achievement gaps).
Thật ra những khoảng cách này có nguồn
gốc trong những mức vốn con người khác nhau (different levels of human
capital) mà trẻ em thừa hưởng khi chúng bắt đầu đi học – điều này đã dẫn
đến một chủ đề thứ ba của cuộc tranh luận giáo dục, tập trung vào việc
chăm sóc tuổi thơ ấu của trẻ em sớm hơn và tích cực hơn. Những đề xuất ở
đây thường dẫn đến việc đưa trẻ em ra khỏi môi trường gia đình và đặt
chúng vào những bối cảnh mang tính cơ chế (institutional settings) càng
dài thời gian càng tốt (như chương trình Head Start, Early Head Start
/cho trẻ em đi học sớm) hay thậm chí cố gắng tái xã hội hoá toàn bộ
những khu dân sinh (như trong dự án Khu vực của Trẻ em Harlem/the Harlem
Children’s Zone project). Có một số trường hợp thành công riêng lẻ với
những chương trình này, nhưng không ai biết chắc là chúng có thể được
nhân rộng trên một qui mô lớn hơn không. Nhiều chương trình cho thấy kết
quả ngắn hạn về khả năng nhận thức, nhưng hầu hết những thành quả này
có xu thế mai một qua thời gian, và những thành quả còn sót lại thường
là không đáng kể. Có một điều khả tín hơn là, những chương trình này
giúp trẻ em trau dồi các kỹ năng không thuộc lãnh vực nhận thức
(noncognitive skills [như các đức tính]) và những đặc điểm nhân cách có
thể dẫn đến thành công kinh tế tương lai – nhưng với một cái giá và nỗ
lực đầu tư đáng kể, vì phải sử dụng các nguồn lực được rút tỉa từ những
bộ phận thành công hơn trong xã hội (và như thế làm suy yếu các nguồn
lực mà họ có thể sử dụng để đầu tư) hay các nguồn lực được chuyển từ các
dự án tiềm năng khác.
Vì tất cả những lý do trên, tình trạng
bất bình đẳng trong các xã hội tư bản tiên tiến dường như vừa gia tăng
vừa không tránh khỏi, chí ít trong giai đoạn hiện nay. Thật vậy, một
trong những khám phá chắc chắn nhất của ngành nghiên cứu khoa học xã hội
đương đại là, một khi sự cách biệt giữa các gia đình có lợi tức cao và
những gia đình có lợi tức thấp gia tăng, thì những cách biệt trong sự
thành đạt về học vấn và công ăn việc làm giữa con cái họ lại càng gia
tăng hơn nữa.
Phải làm gì?
Chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn tiếp tục
tạo ra những lợi ích ngoạn mục và những cơ hội ngày càng to lớn hơn cho
việc tự trau dồi và phát triển bản thân. Nhưng hơn bao giờ hết, những
mặt tốt của nó đang đi cùng với những mặt xấu, đặc biệt là việc gia tăng
tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế. Như Marx và Engels đã nhận
xét chính xác, điều làm cho chủ nghĩa tư bản khác với các hệ thống xã
hội và kinh tế khác là nó “thường xuyên cách mạng hóa việc sản xuất, gây
xáo trộn liên tục cho mọi tình huống xã hội, [và] mang lại tình trạng
bấp bênh và dao động triền miên”.
Vào cuối thế kỷ 18, nhà nghiên cứu và
thực hành môn kinh tế chính trị vĩ đại nhất nước Mỹ, Alexander Hamilton,
đã có một số nhận xét sâu sắc về tính hàm hồ tất yếu (inevitable
ambiguity) của chính sách công trong một thế giới đầy lực hủy diệt sáng
tạo (a world of creative destruction):
Cái thân phận mà Thượng đế đã quan
phòng vĩnh viễn cho con người là, mỗi điều tốt lành mà con người được
thụ hưởng đều bị pha trộn với nhiều điều xấu xa, mọi suối nguồn hoan lạc
là ngọn nguồn của thương đau – ngoại trừ một điều là Đức hạnh, điều tốt
lành duy nhất không bị pha chế được phép tồn tại trong Thân phận hữu
hạn của con người… Người làm chính trị đích thực… sẽ hỗ trợ những cơ chế
và kế hoạch nàocó xu thế tạo hạnh phúc cho đồng loại, phù hợp với
khuynh hướng tự nhiên của họ là gia tăng gấp bội nguồn hạnh phúc cá nhân
và gia tăng các nguồn tài nguyên và sức mạnh quốc gia – cố gắng đưa vào
mỗi trường hợp tất cả những thành tố có thể được sử dụng để vạch ra các
biện pháp ngăn ngừa và chỉnh sửa cái ác vốn luôn luôn đi đôi với những
ân sủng thế gian.
Bây giờ cũng như vào thời đó, vấn đề
trước mắt chỉ là làm thế nào để duy trì những ân sủng thế gian của chủ
nghĩa tư bản đồng thời vạch ra các biện pháp ngăn ngừa và chỉnh sửa đối
với những điều ác vốn luôn luôn đi đôi với những ân sủng ấy.
Một liều thuốc tiềm năng để chữa trị các
vấn đề bất bình đẳng và bất an kinh tế giản dị là tái phân phối lợi tức
từ chóp bu xuống tận đáy của nền kinh tế. Tuy nhiên, phương thức này có
hai khuyết điểm. Khuyết điểm thứ nhất là, qua thời gian, chính các thế
lực đã dẫn đến tình trạng bất bình đẳng nghiêm trọng sẽ xác lập lại thế
lực của mình; việc này đòi hỏi tái phân phối lợi tức thêm nữa, hay tái
phân phối mạnh mẽ hơn. Khuyết điểm thứ hai là vào một thời điểm nào đó,
việc tái phân phối lợi tức sẽ tạo ra bất mãn sâu sắc và cản trở các động
cơ tăng trưởng kinh tế. Một mức độ nào đó của việc tái phân phối lợi
tức thông qua đánh thuế, sau các kết toán thị trường, là điều có thể
thực hiện và cần thiết, nhưng mức độ lý tưởng là bao nhiêu thì đây là
vấn đề chắc chắn sẽ bị tranh cãi gay gắt, và dù con số có nhiều bao
nhiêu đi nữa, việc tái phân phối lợi tức sẽ không bao giờ giải quyết
được những vấn đề cơ bản.
Phương thuốc thứ hai, sử dụng chính sách
chính phủ để thu hẹp khoảng cách giữa các cá nhân và giữa các nhóm xã
hội bằng cách đưa chính sách ưu đãi cho những thành phần làm ăn thất
bát, có lẽ còn tồi tệ hại hơn cả chính cơn bệnh. Dù bất cứ ích lợi được
viện dẫn là gì đi nữa, những phần thưởng được ủy thác cho một số loại
công dân nhất định chắc chắn tạo ra một cảm thức bất công trong phần còn
lại của xã hội. Nghiêm trọng hơn nữa là cái giá phải trả cho những phần
thưởng này nếu xét về hiệu năng kinh tế, vì theo định nghĩa, chúng sẽ
đưa những cá nhân thiếu khả năng lên những địa vị mà họ sẽ không thể
vươn tới nếu chỉ dựa vào tài năng của mình. Tương tự như thế, những
chính sách cấm đoán việc sử dụng tiêu chuẩn tài năng (meritocratic
criteria) trong giáo dục, trong việc thu dụng nhân viên, và cung cấp tín
dụng – chỉ vì những tiêu chuẩn này có “tác động chênh lệch” lên số phận
của nhiều cộng đồng khác nhau hoặc vì chúng làm gia tăng hậu quả bất
bất bình đẳng xã hội – chắc chắn sẽ làm suy giảm phẩm chất của hệ thống
giáo dục, lực lượng lao động, và cả nền kinh tế.
Một phương án chữa trị thứ ba, khuyến
khích đổi mới kinh tế liên tục để làm lợi cho mọi người, có nhiều hứa
hẹn hơn hai phương án trên. Sự kết hợp giữa Internet và các cách mạng
điện toán hiện nay có thể được ví với việc khám phá ra điện, một khám
phá đã tạo điều kiện cho gần như vô số hoạt động khác, đã chuyển hóa xã
hội nói chung trong nhiều cung cách không ai tiên đoán được. Trong số
những thành quả khác, Internet đã cực kỳ nhanh chóng gia tăng tốc độ của
kiến thức, một yếu tố chủ yếu trong việc tăng trưởng kinh tế tư bản chủ
nghĩa chí ít kể từ thế kỷ 18. Thêm vào đó, các viễn ảnh của các ngành
khác dù còn nằm trong thời kỳ ấu trĩ, như công nghệ sinh học
(biotechnology), sinh tin học (bioinformatics), và công nghệ nanô
(nanotechnology), cũng như các viễn ảnh về tăng trưởng kinh tế tương lai
và sự cải thiện đang diễn ra của đời sống con người, đều có vẻ sáng sủa
một cách hợp lý. Tuy nhiên, thậm chí cả sự đổi mới liên tục lẫn sự phục
hồi tăng trưởng kinh tế cũng sẽ không loại bỏ hay thậm chí giảm bớt một
cách đáng kể tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế, vì sự khác
biệt giữa các cá nhân, giữa các gia đình, và giữa các tập thể sẽ vẫn cứ
ảnh hưởng đến sự phát triển vốn con người (human capital) và sự thành
đạt nghề nghiệp.
Do đó, muốn cho chủ nghĩa tư bản tiếp
tục giữ được tính chính đáng và đáp ứng được nguyện vọng của các bộ phận
dân chúng nói chung – kể cả những thành phần hạ lưu và trung lưu trên
nấc thang kinh tế xã hội, cũng như những thành phần thượng lưu gần chóp
bu, kẻ thua cũng như người thắng – các mạng lưới an toàn do chính phủ
lập ra nhằm giúp giảm bớt tình trạng bất an kinh tế, xoa dịu những nhức
nhối do thất bại trong thị trường và giúp duy trì cơ hội đồng đều cho
mọi người, cần phải được duy trì và được hồi sinh. Những chương trình
này đã hiện hữu tại hầu hết các nước trong thế giới tư bản tiên tiến, kể
cả Hoa Kỳ, và vì thế cánh Hữu cần phải chấp nhận rằng chúng đang đáp
ứng một mục đích không thể thiếu và phải được duy trì chứ không nên cắt
bỏ – rằng những chi phí của chính phủ về phúc lợi xã hội là một cách đối
phó thích hợp với một số đặc điểm có vấn đề nội tại trong chủ nghĩa tư
bản, chứ không phải là một “con quái vật” cần phải “bỏ đói”.
Tại Hoa Kỳ chẳng hạn, những biện pháp
như an sinh xã hội (Social Security), bảo hiểm thất nghiệp (unemployment
insurance), phiếu mua thực phẩm dành cho người nghèo (food stamps), tín
chỉ giảm thuế lợi tức (the Earned Income Tax Credit), chế độ y tế cho
người nghỉ hưu (Medicare), chế độ y tế cho người già hay người tàn tật
(Medicaid), và việc nới rộng bảo hiểm do Đạo luật Cải tổ Y tế (the
Affordable Care Act [hay Obamacare]) đã giúp đỡ và xoa dịu trước hết
những người kém thành công hay không thể tham dự vào nền kinh tế hiện
nay. Cắt giảm phạm vi trợ cấp của những chương trình này là một hành vi
thiếu nhân ái trong khi tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế đang
gia tăng. Và nếu không vì gì khác chăng nữa, thì chính tinh thần vị kỷ
sáng suốt (the enlightened self-interest) của những ai đã hưởng lợi
nhiều nhất trong một xã hội mang tính năng động tư bản chủ nghĩa chắc
chắn sẽ giúp họ nhận ra rằng, nếu không chịu từ bỏ một số thành quả thị
trường của mình để đạt được sự ổn định xã hội và kinh tế liên tục, thì
đó là một thái độ dại dột. Các chương trình phúc lợi của chính phủ cần
phải cải tổ cấu trúc, nhưng cánh Hữu phải chấp nhận rằng một nhà nước
phúc lợi rộng lượng hợp lý sẽ còn tồn tại mãi, và tồn tại vì những lý do
hết sức hợp lý.
Về phần mình, cánh Tả cần phải tỉnh táo
đối diện với thực tế là, những toan tính táo bạo nhằm xóa bỏ tình trạng
bất bình đẳng có thể vừa là quá tốn kém vừa là vô ích. Chính sự thành
công của những nỗ lực trong quá khứ nhằm gia tăng sự bình đẳng về cơ hội
– như mở rộng cánh cửa giáo dục và cấm hẳn mọi hình thức phân biệt đối
xử – mang ý nghĩa là, trong các xã hội tư bản tiên tiến ngày nay, những
vựa tiềm năng to lớn và riêng rẽ chưa được khai thác càng ngày càng trở
nên hiếm hoi. Vì vậy, việc đưa thêm nhiều biện pháp hơn nữa để cải thiện
sự bình đẳng có thể khó đạt được thành quả như các biện pháp đã sử dụng
trước đây, trong khi sự tốn kém lại to lớn hơn nhiều. Và nếu những biện
pháp này dẫn đến việc lấy mất nguồn lực của những thành phần xã hội có
vốn con người phong phú hơn để đưa sang những thành phần thiếu loại vốn
này, hoặc không đếm xỉa đến các tiêu chuẩn thành đạt và tài năng, thì
chúng sẽ cản trở tính năng động và đà tăng trưởng kinh tế, vốn là nền
tảng cho nhà nước phúc lợi hiện nay đứng vững.
Như vậy, thách thức đối với chính sách
của chính phủ trong thế giới tư bản tiên tiến là làm thế nào để duy trì
một mức độ năng động kinh tế nhằm cung ứng các lợi ích ngày càng to lớn
cho tất cả mọi người, đồng thời có thể chi trả những chương trình phúc
lợi xã hội cần thiết nhằm làm cho đời sống của người dân dễ thở hơn
trong tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế ngày càng gia tăng. Các
quốc gia khác nhau sẽ đối phó thách thức này bằng những đường lối khác
nhau, vì mỗi quốc gia có những ưu tiên, những truyền thống, có diện
tích, và những đặc tính dân số và kinh tế khác nhau. (Một trong những ảo
tưởng của thời đại là nghĩ rằng trong vấn đề chính sách của chính phủ,
các quốc gia có thể tùy tiện vay mượn mô hình của nhau.) Nhưng một khởi
điểm hữu ích có lẽ là, phải từ bỏ cả loại chính trị đặc quyền đặc lợi
(the politics of priviledge) lẫn loại chính trị sách động hận thù (the
politics of resentment), để chấp nhận một quan điểm rõ ràng về những gì
chủ nghĩa tư bản thực sự có liên quan, chứ không mang thái độ lý tưởng
hóa của những người sùng bái chủ nghĩa này và thái độ phỉ báng của những
người đả kích nó.
_________
Jerry Z. Muller là Giáo sư Sử học tại Catholic University of America và là tác giả cuốn The Mind and the Market: Capitalism in Western Thought (Trí tuệ và Thị trường: Chủ nghĩa Tư bản trong Tư tưởng phương Tây).
Bản tiếng Việt © 2013 Trần Ngọc Cư & pro&contra