Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

Quan niệm của triết học Kant về hạnh phúc

Triết học Kant về hạnh phúc

Hạnh phúc (Hy Lạp: eudaimonia, Ý: felicitas, Đức: Gluckseligkeit, Anh: Hapiness) xem thêm TỰ TRỊ (TÍNH, SỰ) TỰ DO, THIỆN (CÁI, SỰ), THIỆN TỐI CAO (CÁI, SỰ), HY VỌNG, VUI SƯỚNG (SỰ)


Trong tác phẩm Nicomachean Ethics, Aristotle khám phá rằng “sự thiện chủ yếu” hay “mục đích cao nhất” của hành vi con người- tức “điều gì đó có tính tối hậu và viên mãn, là mục đích của hành động” (Aristotle, 1941, 1097b, 22)-chính là hạnh phúc. Nghiên cứu của ông về hạnh phúc đạt tới sự cân bằng đáng nể: hạnh phúc hoàn hảo bao hàm việc đem lại đời sống tĩnh lự, song không loại trừ các khía cạnh khác của cuộc sống thiện hảo như lòng can đảm, sự tự do và sự vui sướng (nt.,1178a-1179). Tuy nhiên, quan điểm cân bằng của Aristotle về hạnh phúc dần bị chuyển hóa bởi sự phân chia theo kiểu thuyết Plato giữa hạnh phúc và sự viên mãn của trí tuệ (mind) và linh hồn,- với lạc thú (pleasure) xác thịt. 


Trong tác phẩm của Aquinas, sự phân biệt này thể hiện dưới hình thức của kinh nghiệm khách quan về beatitudo(hạnh phúc linh thánh) và kinh nghiệm chủ quan, ít được coi trọng hơn củaeudaimonia (Hạnh phúc trần tục). Sự phân biệt này về tổng thể vẫn được Descartes duy trì. Với ông này, hạnh phúc [thông thường](heur)” chỉ phụ thuộc vào các sự vật bên ngoài”, và điều này là đối lập với hạnh phúc linh thánh (béatitude) bao hàm “một sự toại ý hoàn hảo của trí tuệ cùng sự thỏa mãn nội tâm” (thư gửi Elizabeth, 4 tháng 8 năm 1645, Descartes, 1981, tr.164). Kant bảo toàn sự phân biệt này trong một hình thức có hiệu chỉnh, ở đó, hạnh phúc khách quan sinh ra từ hành động tự trị (không phụ thuộc vào bất kì động lực nào-ND) và tự do, còn hạnh phúc chủ quan sinh ra từ các cảm xúc bên ngoài (heteronomous) đến từ cảm giác vui sướngvà hài lòng. Một sự đối lập giữa hạnh phúc và tự do chi phối trọn vẹn thảo luận của Kant về hạnh phúc. Nó xuất hiện rõ nhất trong cuốn SHHĐL (Siêu hình học về đức lý), nơi có sự phân biệt giữa “eidaimonism (các nguyên tắc của hạnh phúc)” và “eleutheronomy”(nguyên tắc tự do của sự tự ban bố luật lệ nội tại), với xác nhận kèm theo sự phân biệt này rằng” nếu các nguyên tắc của hạnh phúc được làm thành nguyên tắc cơ bản của hành động, kết quả sẽ là “euthanasia” (cái chết dễ dàng) cho mọi luân lý” (SHHĐL tr.378, tr.183). Sự vui sướng, thỏa mãn đến trước (là động lực cho-ND) nghĩa vụ hay cho sự tuân thủ theo luật lệ thì phụ thuộc vào cảm tính và là bộ phận của quy tắc tự nhiên, trong khi sự vui sướng thỏa mãn đến sau ( là kết quả của) nghĩa vụ mới đặt cơ sở trên sự tự do khả niệm (tự do thông qua suy lí, lý tính- tiên nghiệm và không phụ thuộc vào các luật lệ tự nhiên, duy nghiệm-ND) và mới là bộ phận của quy tắc đạo đức. Sự phân biệt giữa hai nghiên cứu về việc tuân thủ luật lệ đã sinh ra một số hệ quả-tức những gì xuất hiện khắp triết học thực hành của Kant.


Sự đối lập giữa eudaimonia và eleutheronomy được phát triển thành một loạt hệ luận nhất quán. Hệ luận đầu tiên, như đã được đề cập, là sự phân biệt giữa các quy tắc luân lý và quy tắc tự nhiên; quy tắc tự nhiên là vương quốc của các quan hệ nhân quả, của xu hướng cảm tính (inclination) và của sự ngoại trị (SHHĐL tr. 216, tr.44). Các nguyên tắc đặt cơ sở trên hạnh phúc và tính ngoại trị đều thuộc thế giới vật chất, chủ quan, bất toàn. Chúng đối lập lại với các nguyên tắc đặt cơ sở trên sự tự do và tự trị, tức những gì có tính hình thức và phổ quát (CSSĐ tr.442, tr.46). Ý tưởng về sự thiện đồng nghĩa với hạnh phúc là một ý tưởng rất khó xác định. Lý do là có vô số cái thiện khác nhau tiềm tàng nơi ý tưởng ấy. Trong khi đó, ý tưởng về sự thiện đồng nghĩa với tự do thì rất tập trung và xác định được (PPNLPĐ [Phê Phán Năng Lực Phán Đoán] ss83). Nhu cầu tìm kiếm hạnh phúc ( thông qua việc thực hiện nghĩa vụ-ND) tác động đến ý chí một cách gián tiếp; nhà duy lạc thú thực hiện nghĩa vụ” chỉ bởi niềm hạnh phúc mà họ dự đoán trước”, trong khi nghĩa vụ đòi hỏi ý chí một cách trực tiếp, và không hướng tới bất kỳ cứu cánh nào ngoài bản thân nó (SHHĐL tr. 377, tr.183). Kết quả là, mệnh lệnh, nếu có liên quan tới nhu cầu kiếm tìm hạnh phúc sẽ biến thành những lời “mách nước khôn ngoan có tính giả thuyết” với các điều kiện như là: chỉ nên làm điều này hay điều kia thì sẽ có hạnh phúc hoặc không có hạnh phúc”. Trong khi đó, mệnh lệnh thuộc luật lệ của tự do là những đòi hỏi nhất thiết và không phụ thuộc vào bất kì điều kiện nào” (CSSĐ [ đặt cơ sở cho một môn siêu hình học đức lí] tr.146, tr.26). Kiểu lập luận đối lập này dẫn tới mệnh đề có tính áp đặt (repressive proposition) trong cuốn LSPQ [ Ý niệm về một lịch sử phổ quát với mục đích toàn hoàn vũ] rằng: nhân tính “không nên tham lam những sự hoàn hảo hay hạnh phúc nào khác hơn những gì họ đạt được bằng chính lý tính chứ không phải bằng bản năng (tr.19, tr.43)


Tuy nhiên trong khi loại hạnh phúc khỏi bất kỳ vai trò nào có can hệ tới sự quyết định hành động của ý chí, Kant vẫn coi nó [hạnh phúc] như một phương diện quan trọng của cái thiện tối cao thuộc con người. Tại một chỗ trong cuốn PPLTTT [Phê phán lí tính thuần tuý), ông giả định rằng hạnh phúc sẽ tự động đến theo tự do: “Tôi không nói về hạnh phúc tối đa vì nó chỉ là kết quả đương nhiên của tự do” ( PPLTTT B 373). Tại đây cấu tạo cho phép sự tự do tối đa có thể có được đã được miêu tả như một Ý tưởng tất yếu cho sự tiến bộ của con người, tức là điều sẽ làm cho hạnh phúc xuất hiện; tuy nhiên, trong PPNLPĐ chính hạnh phúc lại là ý tưởng [ đơn thuần về một trạng thái-ND] mà con người muốn “ làm cho trạng thái ấy tương ứng hoàn toàn với Ý tưởng trong những điều kiện đơn thuần thường nghiệm”(ss83) *. Trong PPLTTT, Kant đã ngầm hòa giải các vế(terms) của sự đối lập này bằng những câu trả lời trước ba câu hỏi sinh ra từ mối quan tâm của lý tính:”1. Tôi có thể biết gì?, 2. Tôi phải làm gì?, 3.Tôi có thể hy vọng gì?” ( PPLTTT A 804/B 832). Hạnh phúc hiện lên trong những câu trả lời này, dù không phải là một trạng thái được nhắm tới cuối cùng, song cũng là điều gì đó xứng đáng. Sự thiện tối cao bao hàm cả dạng hạnh phúc được tưởng thưởng hay "luân lý”(morality) lẫn hạnh phúc thực tế (actual happiness), tức là nó sẽ không hoàn tất và đủ đầy nếu thiếu đi một trong hai yếu tố kể trên. Đặc biệt là với Kant, việc trục xuất hạnh phúc ra khỏi sự xác định hành vi luân lý chỉ là để đưa nó trở lại trong vai trò một bè đệm thiết yếu nơi cái thiện tối cao mà thôi.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét