Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013
Chủ nghĩa tư bản và tình trạng bất bình đẳng. Cánh Hữu và cánh Tả sai lầm ở những điểm nào (1)
14:35
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tháng 6 25, 2013
Jerry Z. Muller
Trần Ngọc Cư dịch
Dẫn nhập: Trong
trận chiến ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, người ta
có thể nói không sai là chủ nghĩa tư bản đã thắng. Thậm chí một số nước
“cộng sản” như Trung Quốc và Việt Nam cũng đang ôm ấp một dạng thức nào
đó của chủ nghĩa tư bản, mà có người gọi là “tư bản nhà nước”, hay một
cách mỉa mai “tư bản đỏ”.
Dù dưới dạng thức nào đi nữa, ít ai
có thể chối cãi rằng chủ nghĩa tư bản là đường lối hữu hiệu nhất để tạo
ra đời sống thịnh vượng kinh tế cho xã hội loài người.
Trong bài tiểu luận sau đây, Giáo sư
Jerry Z. Muller phân tích những đặc tính bất biến của chủ nghĩa tư bản,
đó là tính năng động kinh tế cũng như tình trạng bất bình đẳng và bất
an kinh tế – những đặc tính luôn luôn đi với nhau như bóng với hình; như
cái Thiện và cái Ác cùng tồn tại một lúc trong thân phận con người. Để
đối phó với tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế đang diễn ra ngày
càng nghiêm trọng trong thế giới tư bản tiên tiến, đặc biệt tại Hoa Kỳ,
Muller nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì một chính sách nhà nước phúc
lợi hợp lý để đảm bảo sự ổn định và hài hòa xã hội, đồng thời chống lại
cả loại hình chính trị đặc quyền đặc lợi (politics of privilege) của
cánh Hữu lẫn loại hình chính trị sách động hận thù (politics of
resentment) của cánh Tả.
Trần Ngọc Cư
_______________
Cuộc
tranh luận chính trị gần đây tại Hoa Kỳ và các nước dân chủ tư bản tiên
tiến khác bị chi phối bởi hai vấn đề: sự gia tăng tình trạng bất bình
đẳng kinh tế và mức độ can thiệp của chính phủ nhằm đối phó vấn đề này.
Như cuộc tranh cử tổng thống Mỹ năm 2012 và những đấu đá chính trị về
“bờ vực ngân sách” (the fiscal cliff) đã cho thấy, trọng tâm của cánh Tả
hiện nay được dồn vào việc tăng thuế và chi tiêu của chính phủ, chủ yếu
để đẩy lùi tình trạng phân hóa giai cấp xã hội đang ngày một gia tăng;
trong khi đó, trọng tâm của cánh Hữu được đặt vào việc giảm thuế và cắt
giảm chi tiêu, chủ yếu để đảm bảo tính năng động kinh tế. Bên này xem
nhẹ những mối quan tâm của bên kia, và mỗi bên đều tỏ ra tin tưởng rằng
những chính sách mà mình mong muốn có khả năng đảm bảo sự thịnh vượng và
ổn định xã hội. Cả hai bên đều sai lầm.
Tình trạng bất bình đẳng đang thực sự
gia tăng gần như khắp nơi trong thế giới tư bản hậu công nghiệp
(postindustrial). Và dù cho nhiều người bên cánh Tả có nghĩ gì đi nữa,
đây không phải là hậu quả chính trị, và chính trị không thể đảo ngược
được nó, vì vấn đề này có gốc rễ sâu xa và bất trị hơn người ta có thể
dễ dàng nhận ra. Bất bình đẳng kinh tế là một sản phẩm tất yếu của sinh
hoạt tư bản chủ nghĩa, và việc mở rộng cánh cửa bình đẳng về cơ hội cũng
chỉ làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng kinh tế mà thôi – vì một số
cá nhân và một số cộng đồng giản dị là có khả năng hơn các cá nhân và
cộng đồng khác trong việc khai thác những cơ hội mà chủ nghĩa tư bản
cung ứng để phát triển và thăng tiến trong đời. Tuy nhiên, dù cho nhiều
người bên cánh Hữu có nghĩ gì đi nữa, đây là một vấn đề chung cho tất cả
mọi người, chứ không riêng gì cho những người làm ăn thất bát hay những
người, trên bình diện ý thức hệ, quyết theo đuổi chủ nghĩa bình quân –
bởi vì nếu không được giải quyết, tình trạng bất bình đẳng và bất an
kinh tế ngày một gia tăng có thể xói mòn trật tự xã hội và tạo ra một
một phản ứng dân túy (populist) quật ngược lại hệ thống tư bản chủ nghĩa
nói chung.
Trong vài thế kỷ qua, sự bành trướng của
chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một bước nhảy vọt vĩ đại trong tiến bộ loài
người, vừa đưa đến những tăng trưởng về mức sống vật chất mà trước đó
không ai tưởng tượng nổi, vừa đưa đến sự phát triển mọi tiềm năng chưa
từng thấy của con người. Nhưng, tính năng động nội tại trong bản thân
chủ nghĩa tư bản lại tạo ra một tình trạng bất an đi kèm với những lợi
lộc mà nó mang lại, vì thế sự tiến triển của chủ nghĩa này luôn luôn gặp
chống đối. Thật ra, phần lớn lịch sử chính trị và cơ chế của những xã
hội tư bản là lịch sử của những nỗ lực làm giảm bớt hoặc ngăn cản tình
trạng bất an ấy, và chính việc tạo ra nhà nước phúc lợi (the welfare
state) giữa thế kỷ 20 cuối cùng đã giúp chủ nghĩa tư bản và thể chế dân
chủ cùng tồn tại tương đối hài hòa.
Trong những thập kỷ gần đây, những phát
triển trong lãnh vực công nghệ, tài chánh, và thương mại quốc tế đã tạo
ra những làn sóng và hình thái bất an mới cho những nền kinh tế tư bản
hàng đầu, làm cho đời sống ngày càng trở nên bất bình đẳng và nhiều rủi
ro hơn, không những cho các tầng lớp hạ lưu và giới lao động mà còn cho
một bộ phận không nhỏ của giai cấp trung lưu. Cánh Hữu gần như nhắm mắt
làm ngơ trước vấn đề này, trong khi cánh Tả ra sức loại bỏ nó bằng hành
động của chính phủ, bất chấp phí tổn ngân sách. Cả hai đường lối này đều
không khả thi trong dài hạn. Các thể chế tư bản đương đại cần phải chấp
nhận rằng tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế sẽ tiếp tục là kết
quả tất yếu của các hoạt động thị trường và phải tìm cách che chắn
người dân khỏi những hậu quả nghiêm trọng của chúng – đồng thời bằng một
cách nào đó vẫn duy trì được tính năng động vốn tạo ra những lợi ích
kinh tế và văn hóa to lớn của chủ nghĩa tư bản.
Thương phẩm hóa (Commodification) và bồi dưỡng văn hóa
Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống gồm các
quan hệ kinh tế và xã hội được xác định bởi quyền tư hữu, bởi việc trao
đổi hàng hóa và các dịch vụ do những cá nhân tự do, và bởi việc sử dụng
các cơ chế thị trường để kiểm soát việc sản xuất và phân phối hàng hóa
và dịch vụ. Một số yếu tố tư bản chủ nghĩa đã tồn tại trong xã hội loài
người qua nhiều thời đại, nhưng mãi đến thế kỷ 17 và 18, tại nhiều nước
châu Âu và thuộc địa của chúng tại Bắc Mỹ, các yếu tố này mới kết hợp
thành lực lượng. Suốt lịch sử trước đó, gần như mọi hộ gia đình đều tiêu
thụ hầu hết những thứ tự mình sản xuất ra và sản xuất hầu hết những thứ
mà mình tiêu thụ. Mãi đến thời điểm này, đại đa số dân chúng tại một số
nước mới bắt đầu mua hầu hết những thứ mà họ tiêu thụ và họ làm được
điều này nhờ số tiền họ thu được từ việc bán hầu hết những thứ mà họ sản
xuất.
Sự phát triển các hộ gia đình theo định
hướng thị trường (market-oriented households) và cái gọi là “xã hội
thương mại” có ý nghĩa sâu sắc đối với mọi khía cạnh của sinh hoạt loài
người. Trước khi có chủ nghĩa tư bản, đời sống con người bị chi phối bởi
những định chế truyền thống luôn luôn đặt những lựa chọn và định mệnh
của cá nhân dưới sự khống chế của các cơ cấu cộng đồng, chính trị, và
tôn giáo khác nhau. Những định chế này cho phép xã hội thay đổi ở mức
tối thiểu, ngăn cản không cho người dân tiến bộ nhiều nhưng đồng thời
cũng che chắn họ khỏi những dâu bể của cuộc đời. Sự ra đời của chủ nghĩa
tư bản cho các cá nhân nhiều khả năng làm chủ và chịu trách nhiệm về
cuộc đời mình hơn bao giờ hết – điều này vừa khai phóng vừa đáng sợ,
khiến cả tiến bộ lẫn thoái hóa đều có thể.
Thương phẩm hóa (commodification) – sự
chuyển đổi các hoạt động được thực hiện để sử dụng riêng tư thành các
hoạt động được thực hiện để bán trên thị trường mở rộng – cho phép dân
chúng sử dụng thì giờ hiệu quả hơn, chuyên biệt hóa trong việc sản xuất
những thứ mà họ tương đối rành nghề và mua các thứ khác từ người khác.
Các hình thái thương mại và chế tạo mới đã sử dụng sự phân công
(division of labor) để sản xuất những mặt hàng gia dụng thông thường với
giá rẻ và cũng tạo ra một loạt hàng hóa mới. Như sử gia Jan de Vries
nhận xét, kết quả của sự kiện này là điều mà người đương thời gọi là
“một sự đánh thức những thèm khát của trí óc” – nới rộng những sở thích
cá nhân và tạo ra một cảm thức chủ quan mới mẻ về các nhu cầu. Sự bành
trướng nhu cầu đang diễn ra hiện nay đã từng bị những người bài bác chủ
nghĩa tư bản từ Rousseau đến Marcuse đả kích là đã giam hãm con người
trong chiếc lồng làm bằng những ham muốn phản tự nhiên (unnatural
desires). Nhưng nó lại được những người bênh vực kinh tế thị trường từ
Voltaire trở về sau ca ngợi là đã mở rộng tiềm năng của con người. Theo
quan điểm này, nỗ lực phát triển và đáp ứng những đòi hỏi và nhu cầu cao
hơn là yếu tính (essence) của văn minh.
Vì có khuynh hướng coi các thương phẩm
(commodities) là vật thể hữu hình, chúng ta thường bỏ qua cái mức độ mà
việc tạo ra và phân phối ngày càng rẻ các thương phẩm văn hóa mới đã mở
rộng, những gì mà ta có thể gọi là “các phương tiện trau dồi bản thân”
(the means of self-cultivation). Vì lịch sử của chủ nghĩa tư bản cũng là
lịch sử phát triển truyền thông, thông tin, và giải trí – vừa là phương
tiện vừa là đối tượng của tư duy (things to think with, and about).
Trong số những thương phẩm hiện đại xuất
hiện sớm nhất, phải kể đến các ấn phẩm (ví dụ đầu tiên là cuốn Kinh
Thánh), và việc chúng ngày một rẻ và dễ kiếm còn có ý nghĩa lịch sử hơn
cả sự phát triển của máy nổ, chẳng hạn. Điều này cũng đúng với sự phổ
biến của giấy in, cho phép nhật báo và tạp chí ra đời. Những phát kiến
này lại làm phát sinh các thị trường mới về thông tin và nghề thu thập
và phân phối tin tức. Vào thế kỷ 18, việc đưa tin từ Ấn Độ đếnLondonphải
mất hàng tháng; ngày nay, chỉ cần trong chốc lát. Sách báo và tin tức
đã giúp nới rộng không những tầm hiểu biết mà còn phát triển trí tưởng
tượng của chúng ta, khả năng thông cảm với đồng loại và tưởng tượng như
thể chính bản thân chúng ta đang được sống trong những lối sống tân kỳ.
Chủ nghĩa tư bản và tiến trình thương phẩm hóa vì vậy đã thúc đẩy cả chủ
nghĩa nhân đạo lẫn các hình thức mới mẻ trong việc tự phát minh chính
mình (new forms of self-invention).
Trong thế kỷ vừa qua, các phương tiện
bồi dưỡng văn hoá được phát triển nhờ việc phát minh máy ghi âm, phim
ảnh, và truyền hình, và cùng với sự trỗi dậy của Internet và máy vi tính
trong nhà, những chi phí của việc tiếp thu kiến thức và văn hoá đã giảm
bớt nhanh chóng. Đối với những người nằm trong xu thế này, việc phát
triển các phương tiện bồi dưỡng văn hóa đã tạo điều kiện mở mang kiến
thức của con người ở mức gần như không thể tưởng tượng nổi.
Gia đình đóng vai trò quan trọng
Tuy nhiên, nếu chủ nghĩa tư bản đã mở ra
nhiều cơ hội hơn bao giờ hết cho sự phát triển tiềm năng con người, thì
không phải ai cũng có thể tận dụng những cơ hội ấy hay có thể tiến xa
hơn nữa sau khi nắm được cơ hội. Chẳng hạn, lịch sử đã chứng minh, nhiều
rào cản chính thức hoặc không chính thức đối với sự bình đẳng về cơ hội
đã ngăn cản nhiều bộ phận dân chúng khác nhau – như phụ nữ, dân tộc
thiểu số, và giới nghèo – không cho phép họ hưởng đầy đủ tất cả những gì
mà chủ nghĩa tư bản cống hiến. Nhưng qua thời gian, trong thế giới tư
bản tiên tiến, những rào cản ấy đã dần dần được hạ thấp hay tháo gỡ, nhờ
vậy ngày nay người ta có thể tiếp cận cơ hội đồng đều hơn bao giờ hết.
Tình trạng bất bình đẳng đang tồn tại ngày nay, do đó, phát sinh vì
thiếu cơ hội đồng đều thì ít, mà vì khả năng không đồng đều trong việc
khai thác cơ hội thì nhiều. Và khả năng không đồng đều đó lại phát xuất
từ những khác biệt trong tiềm năng bẩm sinh mà các cá nhân có từ khi
chào đời và trong cung cách mà gia đình và cộng đồng giúp đỡ và khuyến
khích tiềm năng con người phát triển.
Trong việc hình thành khả năng và khuynh
hướng của cá nhân để vận dụng các phương tiện bồi dưỡng văn hóa mà chủ
nghĩa tư bản cung ứng, đề cao vai trò của gia đình đến đâu cũng không
đủ. Hộ gia đình không chỉ là nơi tiêu thụ và truyền giống. Nó còn là bối
cảnh chính trong đó trẻ em được xã hội hóa, được giáo dục, và trở thành
văn minh, trong đó các thói quen của chúng được phát triển để sau đó
lại ảnh hưởng đến số phận chúng trong tư cách người dân và tác nhân thị
trường Theo ngôn ngữ của kinh tế học đương đại, gia đình là một workshop (phân xưởng) trong đó vốn con người (human capital) được tạo ra.
Qua thời gian, gia đình đã ảnh hưởng đến
chủ nghĩa tư bản bằng cách tạo ra những nhu cầu mới đối với những hàng
hoá mới. Gia đình cũng thường xuyên bị chủ nghĩa tư bản khuôn nắn vì
những hàng hóa mới và phương tiện sản xuất mới đã thúc đẩy các thành
viên trong gia đình sử dụng thời gian theo lối mới. Vào thế kỷ 18, khi
các hàng tiêu thụ mới bắt đầu xuất hiện với giá rẻ hơn bao giờ hết, các
hộ gia đình dồn nhiều thì giờ hơn cho các hoạt động theo xu thế thị
trường, với tác động tích cực đến khả năng tiêu thụ của họ. Mặc dù ban
đầu đồng lương của đàn ông có lẽ đã thực sự suy giảm, nhưng lương của cả
vợ, chồng, con cái cộng lại đã nâng tiêu chuẩn tiêu thụ (standards of
consumption) cao hơn trước. Nhưng, việc tăng trưởng kinh tế và mở rộng
các chân trời văn hóa không cải thiện mọi phương diện của đời sống cho
mọi người. Việc con cái của giai cấp lao động có thể kiếm tiền từ tuổi
vị thành niên đã khuyến khích chúng sao lãng học hành và sự thiếu lành
mạnh của một số hàng hoá mới xuất hiện (bánh mì trắng, đường, thuốc lá,
rượu mạnh) cho thấy tiêu chuẩn tiêu thụ tăng cao không luôn luôn đồng
nghĩa với sự cải thiện sức khỏe và tuổi thọ con người. Và khi thời gian
lao động của người phụ nữ được tái phối trí từ việc phục vụ gia đình
sang phục vụ thị trường, các tiêu chuẩn vệ sinh có vẻ suy giảm, gia tăng
rủi ro bệnh tật.
Cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, người
ta chứng kiến sự phát triển từng bước của các phương tiện sản xuất mới
khắp các khu vực kinh tế. Đây là thời đại cơ khí, có đặc tính là các
nguồn lực vô cơ (chủ yếu là máy hơi nước) ngày càng thay thế các nguồn
lực hữu cơ (người và súc vật), một tiến trình đã gia tăng năng suất rất
lớn. Khác hẳn trong một xã hội chủ yếu dựa vào nông nghiệp và tiểu công
nghệ gia đình, việc chế tạo hàng hoá bây giờ ngày càng diễn ra trong
những công xưởng được xây dựng chung quanh các cỗ máy tân kỳ nhưng quá
kềnh càng, quá ồn ào, và quá dơ bẩn, không thể chứa trong nhà. Công ăn
việc làm do đó ngày càng tách khỏi hộ gia đình, một chuyển biến rốt cuộc
đã thay đổi cơ cấu gia đình.
Thoạt đầu, các chủ nhân của những nhà
máy công nghiệp hóa mới mẻ này đã tuyển dụng phụ nữ và trẻ em vào làm
công nhân vì họ là những người dễ sai bảo và dễ kỷ luật hơn đàn ông.
Nhưng vào nửa sau của thế kỷ 19, người nam công nhân trung bình ở Anh
được hưởng sự gia tăng đáng kể và bền vững của đồng lương đích thực; vì
vậy, một sự phân công mới đã diễn ra ngay trong phạm vi gia đình, theo
đường ranh giới tính. Nhờ sức mạnh thể chất cho họ một ưu thế tương đối
trong việc sản xuất, nam giới ngày càng làm việc đông đảo trong các nhà
máy với đồng lương thị trường đủ cao để nuôi cả gia đình. Tuy vậy, thị
trường của thế kỷ 19 chưa thể cung cấp những hàng hóa để tạo ra sự sạch
sẽ, vệ sinh, các bữa ăn bổ dưỡng, và việc trông nom chu đáo các trẻ em.
Trong giới thượng lưu, những dịch vụ này có thể được đầy tớ cung ứng.
Nhưng đối với hầu hết mọi gia đình, những dịch vụ này ngày càng được các
bà vợ cung ứng. Tình trạng này đã phát sinh ra mô hình gia đình chồng
đi kiếm cơm – vợ lo nội trợ (the breadwinner-homemaker family), dựa trên
sự phân công theo giới tính. Theo de Vries, nhiều cải tiến về sức khỏe,
tuổi thọ, và giáo dục từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, có thể được
lý giải bởi việc tái phân bố (realloacation) lực lượng lao động phụ nữ
từ thị trường về với hộ gia đình và, sau cùng, tái phân bố giới thiếu
niên từ thị trường về với học đường, khi trẻ em rời bỏ lực lượng lao
động để đến trường.
Tính năng động và sự bất an
Trong phần lớn lịch sử nhân loại, cội
nguồn chính cho nỗi bất an của con người là thiên nhiên. Như Marx nhận
xét, trong những xã hội như thế, hệ thống kinh tế hướng đến ổn định – và
bế tắc. Những xã hội tư bản, trái lại, từ trước đến nay vẫn hướng tới
sáng kiến và tính năng động, tới sự sáng tạo tri thức mới, sản phẩm mới,
phương thức sản xuất và phân phối mới. Tất cả những điều đó đã chuyển
vị trí của tình trạng bất an từ thiên nhiên sang kinh tế.
Hegel đã nhận xét vào những năm 1820
rằng đối với con người trong một xã hội thương mại đặt cơ sở trên mô
hình chồng kiếm cơm-vợ lo việc nhà (the breadwinner-homemaker model), ý
thức về giá trị bản thân và thế giá của mỗi người được gắn liền với công
ăn việc làm. Điều này đặt ra một vấn đề, vì trong một nền kinh tế thị
trường tư bản năng động, thất nghiệp là một khả năng hiển nhiên. Sự phân
công lao động do thị trường tạo ra có nghĩa là nhiều công nhân có các
kỹ năng được chuyên biệt hóa cao độ (highly specialized) và chỉ thích
hợp với một số công việc rất hạn hẹp. Thị trường tạo ra những nhu cầu
thường xuyên thay đổi, và do đó khi nhu cầu đối với sản phẩm mới gia
tăng thì nhu cầu đối với sản phẩm cũ giảm bớt. Những người có cuộc đời
gắn bó với một vai trò nhất định trong việc sản xuất ra những sản phẩm
lỗi thời thường bị thất nghiệp và không có tay nghề để kiếm việc làm
mới. Và việc cơ giới hóa hoạt động sản xuất cũng dẫn đến nạn thất
nghiệp. Nói cách khác, ngay từ lúc khởi đầu, tính sáng tạo và sự đổi mới
trong chủ nghĩa tư bản công nghiệp đã đi đôi với nỗi bất an của các
thành viên trong lực lượng lao động như bóng với hình.
Marx và Engels đã phác họa tính năng
động, nỗi bất an, sự cải tiến các nhu cầu, và việc mở rộng các khả năng
văn hóa của chủ nghĩa tư bản trong Tuyên ngôn Cộng sản như sau:
“Thông qua việc bóc lột thị trường
thế giới, giai cấp tư sản đã cho sản xuất và tiêu dùng một tính chất
quốc tế. Nó rút phắt nền tảng quốc gia trụ dưới chân công nghiệp, khiến
các thế lực phản động cực kỳ khó chịu. Các ngành công nghiệp quốc gia
lâu đời đã bị tiêu diệt và đang hàng ngày bị tiêu diệt. Chúng bị choán
chỗ bởi những ngành công nghiệp mới mà sự xuất hiện trở thành một vấn đề
sống còn với mọi quốc gia văn minh, những ngành công nghiệp không còn
sử dụng nguyên liệu bản xứ mà sử dụng nguyên liệu khai thác từ những
vùng xa xôi nhất, những ngành công nghiệp mà sản phẩm được tiêu thụ
không chỉ trong nước mà ở khắp mọi nơi trên hoàn cầu. Thay cho những nhu
cầu cũ được thỏa mãn bằng sản phẩm nội địa, chúng ta thấy những nhu cầu
mới, đòi được thỏa mãn bằng các sản phẩm từ các vùng đất và vùng khí
hậu xa xôi. Thay cho sự cô lập và tự túc cố hữu của địa phương và quốc
gia là giao lưu mọi hướng và sự phụ thuộc phổ quát giữa các quốc gia.”
Đến thế kỷ 20, nhà kinh tế Joseph
Schumpeter sẽ triển khai trên những luận điểm này cái ý niệm cho rằng
chủ nghĩa tư bản có đặc tính “hủy hoại sáng tạo”, trong đó các sản phẩm,
các hình thức phân phối và tổ chức mới sẽ đào thải các hình thức cũ
hơn. Nhưng khác với Marx, là người chỉ thấy nguồn gốc của tính năng động
này trong cuộc tìm kiếm “tư bản” quái gở (mà ông cho là bóc lột giai
cấp công nhân), Schumpeter tập trung vào vai trò của doanh nhân là người
có sáng kiến, biết đưa vào thị trường các hàng hóa mới và khám phá các
thị trường và các phương pháp mới.
Tính năng động và tình trạng bất an do
chủ nghĩa tư bản công nghiệp thế kỷ 19 tạo ra đã dẫn đến sự thành lập
các định chế mới để giảm bớt bấp bênh kinh tế, bao gồm tập đoàn trách
nhiệm hữu hạn, nhằm giảm bớt rủi ro cho người đầu tư; các công đoàn,
nhằm cải tiến lợi ích của người lao động; các hội tương trợ, nhằm cho
vay nợ và cung cấp bảo hiểm chôn cất (burial insurance); và ngành bảo
hiểm nhân thọ thương mại. Vào những thập niên giữa thế kỷ 20, nhằm đối
phó nạn thất nghiệp tràn lan và cảnh khốn cùng do cuộc Đại khủng hoảng
kinh tế gây ra (cũng như do sự thành công chính trị của chủ nghĩa cộng
sản và phát-xít, một sự thành công đã thuyết phục nhiều nhà dân chủ rằng
một tình trạng quá bấp bênh về kinh tế là mối đe dọa cho chính bản thân
thể chế dân chủ tư bản chủ nghĩa), các nước dân chủ phương Tây đã chọn
chính sách nhà nước phúc lợi (the welfare state). Nhiều quốc gia khác
nhau đã sáng tạo nhiều kết hợp khác nhau gồm các chương trình cụ thể,
nhưng các nhà nước phúc lợi mới mẻ này có nhiều điểm giống nhau, trong
đó có chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm thất nghiệp cũng như nhiều
biện pháp khác nhau để hỗ trợ các gia đình.
Sự bành trướng của nhà nước phúc lợi vào
những thập niên sau Thế chiến II đã diễn ra vào một thời điểm mà các
nền kinh tế tư bản đang tăng trưởng nhanh chóng. Sự thành công của nền
kinh tế công nghiệp đã cho phép chuyển một số lợi nhuận và tiền lương
vào các mục đích chính phủ thông qua việc đánh thuế. Sự phát triển dân
số thời hậu chiến, trong đó mô hình gia đình chồng đi làm-vợ nội trợ
(the breadwinner-home maker model) chiếm số đông, cũng rất phù hợp, vì
tỉ lệ sinh cao vừa phải đã tạo ra một tỉ lệ thích hợp giữa số công nhân
năng động và những người lệ thuộc [vợ con]. Cánh cửa cơ hội giáo dục
được mở rộng, khi các đại học ưu tú gia tăng việc nhận sinh viên căn cứ
vào thành tích học tập và tiềm năng của họ, và càng ngày càng có nhiều
người theo học tại các cơ sở giáo dục cấp cao hơn. Các rào cản không cho
phép phụ nữ và người thiểu số tham gia trọn vẹn vào đời sống xã hội
cũng bắt đầu sụp đổ. Kết quả của tất cả những điều đó là một tình trạng
quân bình tạm thời, trong đó các nước tư bản tiên tiến trải qua một thời
kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đa số dân chúng có công ăn việc làm, và
tương đối có bình đẳng kinh tế-xã hội.
(Còn 3 kì)
_________
Jerry Z. Muller là Giáo sư Sử học tại Catholic University of America và là tác giả cuốn The Mind and the Market: Capitalism in Western Thought (Trí tuệ và Thị trường: Chủ nghĩa Tư bản trong Tư tưởng phương Tây).
Nguồn: Jerry Z. Muller, “Capitalism and Inequality. What the Right and the Left Get Wrong”. Foreign Affairs, tháng Ba/tháng Tư 2013
Bản tiếng Việt © 2013 Trần Ngọc Cư & pro&contra
0 nhận xét:
Đăng nhận xét