Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013
Về khái niệm “công lý” trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tại Việt Nam
16:03
Hoàng Phong Nhã
No comments
Đặt vấn đề
Công
lý là một khái niệm xuất hiện trong lĩnh vực triết học từ thời Hy Lạp
cổ đại và được phát triển mạnh mẽ trong nền khoa học pháp lý ngày nay.
Những tư tưởng, khát vọng về một nền công lý đích thực đã được Nguyễn Ái
Quốc - người sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà truyền bá về Việt
Nam từ năm 1925 trong tác phẩm “Bản án Chế độ thực dân Pháp”(Chương VIII
- Công lý). Với nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công lý, ngay
sau khi thành lập nhà nước cách mạng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
hết sức quan tâm đến nhiệm vụ của chính quyền nhân dân trong việc bảo vệ
và thực thi công lý. Điều 47 Sắc lệnh số 13 của Chủ tịch nước ngày 24
tháng 01 năm 1946 quy định cách tổ chức toà án và các ngạch thẩm phán
trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã khẳng định “Các vị thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý”.
Điều 25 Sắc lệnh này quy định: Khi các Phụ thẩm nhậm chức, tại phiên
toà đầu, ông Chánh án sẽ mời các Phụ thẩm tuyên thệ, nội dung lời tuyên
thệ là “Tôi thề trước Công lý và nhân dân rằng tôi sẽ suy xét cẩn
thận những án đem ra xử, không hề ăn hối lộ, vị nể, vì sợ hãi hay vì tư
lợi hay thù oán riêng mà bênh vực hay làm hại một bị can nào. Tôi sẽ cứ
công bằng mà xét định mọi việc…”. Có thể nói, công lý và bảo vệ công
lý đã trở thành vũ khí tư tưởng, chính trị, pháp lý sắc bén ngay từ
những ngày đầu của Nhà nước cách mạng nhân dân.
Qua
quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn sau 20 năm đổi mới, một trong
những nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN đã được Đảng và
Nhà nước ta thừa nhận là yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người.
Trên cơ sở đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã một phần hiện
thực hoá nội dung đặc trưng nói trên với yêu cầu hệ thống tư pháp phải
được hoàn thiện để hướng tới mục tiêu bảo vệ công lý, lẽ phải, lẽ công
bằng. “Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của người dân trong
việc bảo vệ công lý, quyền con người”, “Xây dựng nền tư pháp vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý…”.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta (năm 2011)
cũng đã tiếp tục khẳng định yêu cầu bảo vệ công lý trong Báo cáo chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Từ định
hướng quan trọng này, Dự thảo Hiến pháp năm 1992 (Sửa đổi) của Uỷ ban
Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã dự kiến bổ sung, làm sáng tỏ nhiệm vụ
của Toà án nhân dân trước yêu cầu bảo vệ công lý: “Toà án nhân dân
có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Như vậy, trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN,
công lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ bản,
xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước ta và là một giá trị tiến bộ xã hội nhân văn, bền vững được toàn
xã hội thừa nhận và hướng tới.
1. Khái niệm “công lý” trong nền khoa học pháp lý thế giới.
Khái
niệm công lý là khái niệm thu hút được nhiều sự quan tâm và tranh luận
của các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực triết học, đạo đức học, chính
trị học, luật học và tôn giáo trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm
của nền văn minh nhân loại. Theo cách hiểu truyền thống, công lý là
khái niệm chỉ áp dụng trong quá trình tương hỗ, khi hành động của một cá
nhân này hướng tới người khác. Câu hỏi về công lý (justice) và bất công
(injustice) chỉ xuất hiện khi có nhiều cá nhân và có những sự kiện thực
tế liên quan đến quá trình tương tác với người khác. Trong nền khoa học
pháp lý thế giới, công lý là khái niệm có nội hàm khá năng động, tuỳ
thuộc vào từng nền văn hoá và từng giai đoạn phát triển của xã hội trong
lịch sử.
Từ
góc độ lịch sử, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra các phân đoạn phát triển
của công lý. Theo đó, công lý trong giai đoạn thứ nhất của xã hội sơ
khai được thể hiện khá rõ nét bằng sự trả thù cá nhân, bằng luật báo
thù, dĩ oán báo oán. Công lý đã luôn được coi là vấn đề cốt tử trong tâm
thức của các nhà làm luật từ thời cổ đại. Trong bộ luật Hammurabi của
nhà nước lưỡng hà được ban hành trong khoảng thời gian từ năm 1792 đến
năm 1750.TCN, công lý được được hiểu là yêu cầu áp dụng hình phạt ngang
bằng với thiệt hại mà kẻ phạm tội gây ra, đó chính là nguyên tắc báo thù
Talion (mắt đền mắt, răng đền răng). Theo đánh giá, đây là một bộ luật
mà nguyên tắc Talion được áp dụng một cách triệt để, tàn khốc và cứng
nhắc một cách cực đoan. Ví dụ một người thợ xây làm chết con của chủ nhà
thì con của người thợ xây phải bị giết theo nguyên tắc báo thù Talion.[1]
Giai
đoạn thứ hai của sự phát triển nhận thức về công lý là thay sự báo thù
bằng bồi thường, phạt vạ, để nhằm giữ yên ổn, hoà hảo trong nội bộ các
bộ tộc, bộ lạc. Một ví dụ sinh động về cách phạt vạ khá cẩn thận, tỉ mỉ
của người Abysinie trong giai đoạn này như sau: “Nếu một đứa nhỏ trên
cây té xuống đúng vào một đứa bạn của nó, làm cho đứa này chết thì mẹ
của đứa chết có quyền sai một đứa khác leo lên cây rồi buông tay cho rớt
xuống đúng đầu đứa phạm tội”. Đến giai đoạn thứ ba, để ngăn chặn các
cuộc trả thù cá nhân, toà án đã được thành lập để thẩm định, đánh giá
các mức độ thiệt hại, từ đó hoà giải, điều đình, phân xử các xung đột
giữa các cá nhân trong xã hội. Công lý và tư pháp xét xử đã vững bước
song hành từ những bước phát triển của lịch sử văn minh nhân loại như
vậy.[2]
Trong
nền văn minh Hy Lạp cổ đại - cái nôi của văn minh phương Tây, công lý
được cho rằng bắt nguồn từ trật tự xã hội, một xã hội ổn định, có trật
tự sẽ thúc đẩy sự phát triển của công lý và ngược lại, một nền công lý
mạnh mẽ sẽ thúc đẩy một xã hội trật tự, ổn định. Plato, nhà triết học Hy
Lạp xuất sắc, đã đặt những luận giải của mình về công lý chủ yếu trong
các tranh luận về vấn đề đạo đức. Khi bị chỉ trích với các luận điểm cho
rằng đạo đức là phát minh của kẻ yếu nhằm vô hiệu hoá quyền lực của kẻ
mạnh và công lý không phải là đạo đức của người xuất chúng mà là thứ đạo
đức nô lệ, người ta chỉ trích sự bất công chỉ khi người ta là nạn nhân
chứ không phải bị lương tâm cắn rứt. Sức mạnh chính là lẽ phải và công
lý chính là quyền lợi của kẻ mạnh. Đáp lại những luận điểm nêu trên,
Plato cho rằng đây là những vấn đề đạo đức căn bản, những lý thuyết căn
bản về luân lý. Ông nhấn mạnh công lý là một sự quan hệ giữa cá nhân,
tuỳ thuộc vào tổ chức xã hội và do đó cần được nghiên cứu đồng thời,
song song với cơ cấu xã hội chứ không thể được nghiên cứu như một thái
độ cá nhân. Chúng ta chỉ có thể hình dung một quốc gia công bằng thì
chúng ta mới đủ yếu tố định nghĩa một cá nhân công bằng. Theo Plato,
công lý là một khái niệm thể hiện phẩm hạnh và sự hài hoà của cộng đồng,
là kết quả của sự đồng tâm hợp tác giữa những cá nhân có đức hạnh tham
gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng và quốc gia. Công lý liên quan
trực tiếp đến sự tiết chế và khả năng tự kiểm soát của mỗi cá nhân. Công
lý là một vấn đề giản dị nếu con người cũng giản dị, rời xa lòng tham
lam và sự xa hoa và sống theo đúng chức phận của mình. Công lý xuất phát
từ sự hài hoà và nó hướng tới những người khác thông qua những hành vi
nhân hậu và tử tế.[3]
Còn
theo Aristotle, một trong những người thầy có ảnh hưởng nhất đối với bộ
môn triết học chính trị, thì công lý cốt ở việc đối xử bình đẳng với
những người ngang nhau và bất bình đẳng với những người không ngang
hàng, tương xứng với sự khác nhau về địa vị của họ. Theo ông, công lý
được chia thành “công lý cải tạo” - nơi mà toà án sửa chữa một lỗi lầm
do một bên phạm phải đối với bên khác và “công lý phân phối” - cách
thức, nỗ lực cố gắng để công bằng với mỗi người, đúng theo những gì mà
người đó xứng đáng. Theo Aristotle, công lý phân phối chính là mối quan
tâm chủ yếu, hàng đầu của các nhà lập pháp. Tuy nhiên, cũng cần nhấn
mạnh rằng luật pháp và công lý là hai khái niệm không hoàn toàn đồng
nhất, thậm chí, trong một số xã hội, luật pháp đôi khi đi chệch hướng
hoặc đối nghịch với công lý.[4]
Người
La Mã tiếp tục phát triển khái niệm về công lý với nhận định rằng luật
pháp là tổng hợp các quyền cá nhân. Công lý được xem là yêu cầu bắt buộc
trao cho con người những quyền của họ. Tuy nhiên, người La Mã cũng
không còn coi công lý là một chức năng của xã hội mà coi công lý là một
nội dung và là khía cạnh pháp lý của xã hội. Nội dung này được thể chế
hoá trong các chức năng của các thiết chế bảo vệ các quyền của từng cá
nhân đơn lẻ hơn là dành sự quan tâm xã hội cho tất các công dân. Khái
niệm về công lý tương giao ra đời khi sự trao đổi các giá trị, lợi ích
giữa các cá nhân phát triển một cách mạnh mẽ với nguyên tắc là tôi trao
một lợi ích cho bạn thì bạn trao một lợi ích cho tôi. Một hợp đồng trao
đổi là một hành động của công lý tương giao tự nguyện mà trong đó mỗi
người đều nhận được những giá trị lớn hơn với giá trị tương ứng mà anh
ta đã trao đi. Mục đích của công lý tương giao là duy trì sự bình đẳng
về quyền giữa các cá nhân, bảo vệ sự tự do và nhấn mạnh trách nhiệm của
từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Trong
truyền thống pháp luật tự nhiên, công lý được hiểu là yêu cầu, đòi hỏi
mỗi cá nhân hoặc nhóm được hưởng những gì mà họ xứng đáng. Công lý là
quyền mà tạo hoá ban cho con người. Đây là khái niệm mang tính tổng quát
và tuyệt đối, các quy định luật pháp, các nguyên tắc, luật lệ, quy tắc
chỉ là những cố gắng nhằm hệ thống, hiện thực và cụ thể hoá khái niệm
này. Công lý chỉ có thể giành được thông qua chế độ pháp quyền chứ không
phải thông qua sự cai trị của con người. Không có công lý thì sẽ không
có những đạo luật khách quan và hệ quả là các cá nhân sẽ lệ thuộc vào kẻ
cai trị. Chế độ pháp quyền ở đây được hiểu là nhà nước phải bị chế ước
bởi những quy định đã được ấn định trước hoặc được đoán định trước và
mọi người đều bị quản lý bởi cùng các đạo luật.
Truyền
thống pháp luật tự nhiên cho rằng công lý và bất công không phụ thuộc
vào luật thực định (human/positive law). Augustine, nhà triết học có ảnh
hưởng lớn đầu tiên thời trung cổ, cho rằng công lý cao hơn nhà nước và
là vĩnh cửu. Công lý tự nhiên cao hơn luật pháp. Luật pháp không công
bằng thì không phải là luật pháp (Unjust laws are not laws). Thomas
Aquinas, nhà triết học và thần học Italia trong truyền thống kinh viện
chủ nghĩa, cũng cho rằng trong thực tế những đạo luật nhân định có thể
công bằng hay không công bằng. Công lý là khái niệm cơ sở, có nội hàm
rộng hơn khái niệm luật pháp. Những giá trị của công lý cung cấp những
tiêu chí quan trọng cơ bản để đánh giá, thẩm định các đạo luật thực
định. Một đạo luật công bằng là một đạo luật dựa trên và không đối lập
với các quyền tự nhiên. Bất công chính là những hành vi liên quan đến
việc vi phạm các quyền tự nhiên như các tội giết người, hành hung, trộm
cắp, bắt cóc, nô lệ, hiếp dâm, gian lận hoặc các hành vi gây ảnh hưởng
sai lệch nhất định đến sự phân phối thịnh vượng, thu nhập. Không có cách
phân phối cụ thể nào được coi là công bằng hoặc không công bằng từ sự
lựa chọn của các cá nhân. Sự phân phối lợi ích và chi phí chỉ được coi
là công bằng nếu người đó được tự do lựa chọn trao đổi với người khác.
Luật
pháp và công lý có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Luật pháp phục vụ
công lý nếu nó giúp tạo dựng sự bình yên và bảo vệ các quyền cá nhân của
con người bị vi phạm. Công lý không có sự nâng đỡ của luật pháp sẽ trở
lên yếu đuối, mờ nhạt. Luật pháp không dựa trên các giá trị của công lý
sẽ trở lên tàn bạo, hà khắc. Đạo luật Đracông năm 621 TCN là một ví dụ
điển hình về sự khắc nghiệt của luật pháp khi nó không dựa trên nền tảng
những giá trị công lý, ví dụ như chỉ phạm tội trộm cắp vặt như lấy trộm
rau quả cũng bị xử tử, từ đó, “luật Đracông” trở thành thuật ngữ được
dùng để chỉ những bộ luật hoặc pháp lệnh hà khắc, tàn bạo, phi nhân
tính.[5]
Do Luật pháp có thể tự nó lạm dụng quyền lực để vi phạm các quyền con
người hoặc nhằm vi phạm các quyền của bên thứ ba nên luật pháp, ngoài
việc thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị xã hội, cần phải
phản ánh được đầy đủ nhu cầu, lợi ích của toàn xã hội, phải “vang vọng
tiếng dân” và phải chuyển tải đầy đủ những giá trị tiến bộ của lương
tri, đạo đức, các giá trị nhân văn, nhân đạo, dân chủ, công lý, công
bằng, lẽ phải, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người.
Tính
công bằng trong quá trình áp dụng luật pháp cũng có vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ công lý. Một đạo luật được coi là áp dụng một
cách công bằng nếu nó được áp dụng một cách công khai, minh bạch, không
thiên vị và nhất quán. Bất công sẽ xảy ra nếu những trường hợp tương tự
như nhau không được xử lý bằng một cách thức như nhau. Luật pháp cần xử
lý với các trường hợp như nhau với cách thức như nhau trừ khi có các
tình tiết khác.
Trong
xã hội hiện đại, những giải thích về công lý có khuynh hướng tập trung
vào công lý phân phối với mục tiêu làm thế nào để xã hội có thể phân
phối một cách công bằng nhất những gánh nặng và phúc lợi của đời sống xã
hội, từ đó đã đưa khái niệm công lý mang tính thực tiễn và chính trị
hơn là một quan niệm siêu hình trước đây. F.A. Hayek, một trong những
kiến trúc sư chính của cuộc xây dựng lại chủ nghĩa tự do, khẳng định sự
tương đồng giữa tính “mù” của công lý và cạnh tranh, theo ông, công lý
và cạnh tranh đều không thiên vị ai và pháp luật chính là công lý hình
thức.[6]
Còn John Rawls, đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa tự do của Mỹ, đã định
nghĩa công lý là lẽ phải, điều thiện và là phẩm hạnh tối cao của con
người. Công lý là sự công bằng và công lý chính là chuẩn mực của một xã
hội lý tưởng. Chuẩn mực của công bằng trong một thể chế xã hội cụ thể
chính là nguyên tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi cá nhân.
Theo ông, công bằng chỉ có được khi con người tự nguyện cùng tham dự vào
quá trình hợp tác xã hội để làm sao mỗi cá nhân giành được lợi ích
nhiều hơn so với khi họ sống đơn lẻ.[7]
Trong tác phẩm xuất bản gần đây tại Việt Nam “ Công lý: Đâu là việc đúng nên làm?”[8],
giáo sư Michael Sandel của Đại học Harvard cho rằng câu hỏi một xã hội
có công bằng hay không chính là câu hỏi về cách phân phối những điều
chúng ta được hưởng thụ: Thu nhập và sự giàu có, Trách nhiệm và quyền
lợi, Quyền lực và cơ hội, Chức vụ và danh dự. Một xã hội công bằng phân
phối những thứ này đúng cách, mỗi người nhận đúng phần mình đáng được
hưởng. Nhưng câu hỏi khó khăn là ai xứng đáng được hưởng gì và vì sao?
Từ cách đặt vấn đề này, người ta đã xác định ba cách phân phối theo 03
cách tiếp cận về phúc lợi, tự do và đạo đức.
(1)
Xuất phát điểm từ yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh
vượng chung, từ đó đóng góp, mang lại phúc lợi cho mỗi người, thuyết vị
lợi, một triết thuyết quan trọng đã lý giải một cách sâu sắc nhất về
công lý từ khía cạnh tại sao và bằng cách nào chúng ta nên tối đa hoá
hạnh phúc, tìm kiếm hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất.
(2)
Cách tiếp cận thứ hai là triết thuyết về tự do với mục đích cố gắng kết
nối công lý với tự do. Cách tiếp cận này đặt trọng tâm và nhấn mạnh cần
phải tôn trọng các quyền cá nhân. Tư tưởng công lý có nghĩa là tôn
trọng một số quyền phổ quát (một số quyền tự do của con người) được chấp
nhận ngày càng rộng rãi trên thế giới ngày nay.
(3)
Từ khía cạnh khuyến khích đạo đức, triết thuyết về công lý nhấn mạnh
những giằng xé, mẫu thuẫn khó khăn trước những nhận định, đánh giá về
đạo đức và lối sống tốt đẹp. Công lý phải gắn liền với những đức tính và
quan niệm về lối sống tốt đẹp.
Các
nghiên cứu ngày nay liên quan đến công lý trong lĩnh vực tư pháp xét xử
cho rằng các thủ tục tố tụng chính là những cơ chế, những công cụ xã
hội giúp các cá nhân tiếp cận được công lý. Nếu các cơ chế tố tụng không
đủ mạnh và hiệu quả thì có thể làm vô hiệu hoá quá trình thực thi các
quyền cơ bản của các cá nhân. Các cơ chế tố tụng phải đáp ứng ứng kịp
thời, đầy đủ yêu cầu của xã hội và phải thực sự là người đầy tớ phục vụ,
thúc đẩy công lý chứ không phải là ông chủ của công lý. Lý thuyết tìm
kiếm sự thật (The truth-finding theory), một trong những học thuyết có
nhiều ảnh hưởng trong lĩnh vực tố tụng tại các quốc gia có hệ thống pháp
luật phát triển, cũng nhấn mạnh rằng mặc dù các cơ chế tố tụng đều
hướng tới việc tìm ra sự thật khách quan của vụ việc nhưng công lý và sự
thật khách quan của vụ việc không hoàn toàn đồng nhất. Công lý là một
điều gì đó rộng lớn và có ý nghĩa sâu sắc hơn so với sự thật. Sự thật
khách quan của vụ việc chỉ là một trong những thành tố cơ bản của công
lý.[9]
Trong quá trình cải cách cơ chế tố tụng, các nghiên cứu cho rằng công
lý có ba yếu tố định tính cơ bản: Thứ nhất, khả năng tìm ra sự thật và
tính chính xác của quyết định của toà án. Thứ hai, thời gian tiếp cận
công lý phải đảm bảo, công lý bị trì hoãn là công lý bị từ chối (justice
delayed is justice denied). Thứ ba, chi phí tài chính cho quy trình
tiếp cận công lý phải đảm bảo tính hợp lý, không mang tính chất rào cản
đối với quá trình tìm kiếm công lý của các tổ chức và cá nhân. Đây chính
là những tiêu chí cơ bản được dùng để đánh giá mức độ thành công các
cuộc cải cách tư pháp xét xử của các quốc gia trên thế giới.[10]
Tại
Hoa Kỳ, nền khoa học pháp lý có sự phân biệt khá sâu sắc giữa “công lý
theo thủ tục” và “công lý theo bản thể”. Nếu một người giết hại người
khác, công lý bản thể (công bằng về nội dung) đòi hỏi kẻ sát nhân phải
bị trừng phạt theo đúng pháp luật. Tuy nhiên, nếu kẻ sát nhân bị tra tấn
một cách bất hợp pháp để phải thú tội thì công lý thủ tục đã không được
thực thi. Trong trường hợp đó, theo truyền thống pháp luật phương Tây,
công lý theo thủ tục sẽ thắng công lý theo bản thể.[11]
2. Khái niệm “công lý” tại Việt Nam.
Trong
xã hội Việt Nam phong kiến, khát vọng công lý luôn lan toả trong những
thành ngữ, tục ngữ phê phán thói hư, tật xấu của đội ngũ quan lại phong
kiến từ xa xưa: Nén bạc đâm toạc tờ giấy (Công lý bị đồng tiền chi
phối), Đất thấp trời cao (Hoàn cảnh trớ trêu, người có địa vị thấp hèn
khó có thể giãi bày, kêu oan với bề trên), Quan châu có quyền đốt đuốc,
thiên hạ không được thắp đèn (Nhận xét về sự bất công giữa kẻ có chức
quyền và nhân dân), Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ (Nhận định về tệ
tham nhũng của quan lại phong kiến)… Có thể nói, công lý, lẽ phải và sự
công bằng đã trở thành khát vọng ngàn đời nay của người dân Việt Nam.
Những
tư tưởng về một nền công lý đích thực, chân chính đã được truyền bá vào
Việt Nam kể từ khi Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập ra nước Việt Nam Dân
chủ cộng hoà, tiến hành cuộc đấu tranh nhằm vạch trần nền “công lý thực
dân” giả tạo: “Ở Đông Dương có hai thứ công lý. Một thứ cho người
Pháp, một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được xử như ở Pháp. Người
An Nam thì không có hội đồng bồi thẩm, cũng không có luật sư người An
Nam. Thường thường người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ, vắng mặt
người bị cáo. Nếu có vụ kiện cáo giữa người An Nam và người Pháp thì lúc
nào người Pháp cũng có lý cả mặc dù tên này ăn cướp hay giết người…”.
Người cũng lên án chế độ cai trị hà khắc, tàn bạo, phi nhân tính, phi
pháp quyền của Chính phủ Pháp tại thuộc địa Việt Nam. Bằng ngòi bút sắc
sảo, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một hình ảnh về chế độ phi pháp quyền, vô
nhân đạo và phản tiến hoá mà người Pháp áp đặt tại Việt Nam: “Công lý
được tượng trưng bằng một người đàn bà dịu hiền, một tay cầm cân, một
tay cầm kiếm. Vì đường từ Pháp đến Đông Dương xa quá, xa đến nỗi sang
được tới đó thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa cân đã chảy lỏng ra và
biến thành những tẩu thuốc phiện hoặc những chai rượu ty, nên người đàn
bà tội nghiệp chỉ còn lại độc cái kiếm để chém giết. Bà chém giết đến cả
người vô tội, và nhất là người vô tội”.
Khát
vọng và tình yêu công lý đó đã được Đảng ta tiếp tục vận động, tuyên
truyền và thắp sáng thành ý nguyện của dân tộc ta, của nhân dân ta.
Trong bài thơ làm công tác binh vận “Là thi sĩ’ năm 1942, đồng chí
Trường Chinh với bút danh Sóng Hồng đã viết:
Là thi sĩ phải là hồn cao khiết,
Chí kiên cường và sứ mệnh cao siêu;
Ca tự do, tiến bộ với tình yêu
Yêu nhân loại, hoà bình và công lý.
Chính
tình yêu công lý, khát khao công lý này đã làm thức tỉnh lòng yêu nước
của nhân dân ta, đưa dân tộc ta, nhân dân ta đến Cuộc Cách mạng tháng
Tám năm 1945 - một cuộc hồi sinh vĩ đại của một dân tộc đoàn kết sau gần
100 năm người dân Việt Nam phải sống dưới xiềng xích thực dân.
Ngày
nay, câu chuyện về lẽ phải, về lương tri và công lý vẫn tiếp tục là một
đề tài nóng bỏng giành được sự quan tâm sâu sắc trong xã hội Việt Nam.
Người ta vẫn sôi nổi bàn luận những câu chuyện về thói hư tất xấu như
“Một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” với cái kiểu “công lý của
làng - công lý tình cảm” ấu trĩ và yếu ớt, với tâm lý co cụm, bấu víu và
đan kết trong tình cảm của người Việt để rồi không minh định được cái
đúng cái sai, cái thiện cái ác. Người ta cũng còn mạnh mẽ phê phán cái
thói “Cậy thế, ỷ quyền”, “Nhất thân, nhì quen” với nhận định: Ỷ lại, cậy
thế, cậy quyền sẽ chỉ làm lụi bại ý chí, đạo đức và nhân cách của các
thế hệ trẻ trong xã hội. Xử lý một cách triệt để những hiện tượng tiêu
cực này cần lắm những Bao Công thời hiện đại, và cũng không thể thiếu sự
giúp đỡ của mọi công dân. Có như vậy thì xã hội mới thực sự đi lên,
chiếc cân công lý mới thực sự công bằng đối với mọi người, mọi tầng lớp
trong xã hội…[12]
Trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một số quan
điểm nghiên cứu đã cho rằng pháp luật không chỉ đơn thuần là sản phẩm
“độc quyền” của nhà nước mà trước hết phải là sự kết tinh thiêng liêng
những giá trị cao quý trong xã hội, dựa trên nền tảng dân chủ, nhân bản,
lương tri và đạo lý mà không một ai bác bỏ được để trở thành lẽ phải
đương nhiên như tự do, bình đẳng, công lý, công minh. Nhà nước phải thừa
nhận và phục tùng lẽ phải và công lý, lấy đó làm thước đo để hướng tới
sự phù hợp và hoàn thiện để củng cố lòng tin của nhân dân vào sự công
minh của mình.[13] Công
lý chính là sự nhận thức đúng đắn và hành động đúng vì chân lí, vì công
bằng và lẽ phải, phù hợp với lợi ích chung, với đạo lí của nhân dân,
được xã hội và pháp luật thừa nhận.
3. Về khái niệm công lý trong Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tại Việt Nam.
Những
giá trị của công lý có thể được nhận diện trong các chính sách bảo đảm
công bằng xã hội, công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển
và điều kiện thực hiện cơ hội nhằm thoả mãn một cách hợp lý những nhu
cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân, xuất phát từ
khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Những
giá trị của công lý cũng hiện thân trong các yêu cầu về xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,
thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch và đẩy mạnh cải cách hành
chính, cải cách tư pháp.
Trong
cả lý luận và thực tiễn, những quyền cơ bản của cá nhân có thể bị vô
hiệu hoá hoặc bị từ chối thực thi do các cơ quan bảo vệ pháp luật và các
cơ chế tố tụng không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời yêu cầu phát triển
của xã hội. Các cơ quan tiến hành tố tụng và các thủ tục tố tụng luôn
được xác định là những yếu tố quan trọng trong quá trình giúp các tổ
chức, cá nhân tìm kiếm, tiếp cận công lý. Ở mỗi quốc gia với các nền văn
hoá pháp lý khác nhau sẽ tìm kiếm những phương thức khác nhau để đạt
được mục tiêu này như cơ chế đối tụng (adversary system) của hệ thống luật án lệ hay cơ chế tố tụng thẩm vấn (inquisitorial system) của hệ thống dân luật.
Trong
lĩnh vực tư pháp, công lý và bảo vệ công lý được xác định là một trong
những mục tiêu cơ bản của Chiến lược cải cách tư pháp của Việt Nam đến
năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 và Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định yêu cầu xây dựng cơ
quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công
lý và quyền con người. Chiến lược cũng xác định rõ mục tiêu xây dựng
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh và bảo vệ công
lý. Hoạt động tư pháp mà trong đó toà án được xác định giữ vị trí trung
tâm và công tác xét xử là hoạt động trọng tâm cần phải được tiếp tục cải
cách, nâng cao chất lượng, bảo đảm có hiệu lực và hiệu quả cao. Thủ
tục hành chính trong các cơ quan tư pháp cần tiếp tục được đổi mới nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý. Các thủ tục,
quy trình tố tụng cần tiếp tục được rà soát, hoàn thiện nhằm tạo một cơ
chế tiếp cận công lý hữu hiệu, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt
Nam.
Như
vậy, khái niệm công lý trong Chiến lược cải cách tư pháp là công lý
trong lĩnh vực tư pháp xét xử. Công lý ở đây được hiểu là yêu cầu xử lý
các vụ việc bằng các thủ tục tố tụng công bằng, hợp pháp nhằm bảo vệ lợi
ích của xã hội và bảo vệ các quyền con người một cách nghiêm minh. Công
lý trong tư pháp xét xử không chấp nhận hiện tượng còn để xảy ra tình
trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố và xét xử. Công lý
trong tư pháp xét xử cũng đòi hỏi sự đồng thuận cao của xã hội đối với
cơ chế tố tụng, cơ quan tư pháp và các bản án, quyết định của cơ quan tư
pháp. Các giá trị cao cả của lẽ phải, đạo lý, lương tâm, lương tri, đạo
đức, sự vị tha, lòng trắc ẩn và các giá trị tiến bộ xã hội khác cần
phải là điểm tựa, là các chuẩn mực để soi rọi các bản án, quyết định của
cơ quan tư pháp. Gần đây, trên website của Tạp chí Xây dựng Đảng, khi
đánh giá văn bản số 1594/MTTW-BBT ngày 12 tháng 8 năm 2011 của Ban
thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gửi Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao và Chánh án Toà án nhân dân tối cao kiến nghị đình
chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bà Trần Ngọc Sương - nguyên Giám đốc Nông
trường Sông Hậu về tội danh “lập quỹ trái phép” và xử lý sai sót của bà
trong lĩnh vực tài chính bằng các biện pháp hành chính và dân sự, bài
viết trên Tạp chí đã có một nhận định sâu sắc trong quá trình phát triển
nhận thức về công lý tại Việt Nam: Lương
tri không thay được pháp luật lại càng không thể đứng trên pháp luật.
Nhưng nó là cái duy nhất mách bảo giải pháp đúng trong tình huống phức
tạp. Cao hơn, lương tri làm cho mọi hành vi xã hội được thừa nhận và có
tình người.[14]
Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng ta cũng đã khẳng định những
hạn chế, bất cập của tư pháp xét xử trong quá trình giúp các tổ chức,
cá nhân tiếp cận công lý. Đó là chính sách hình sự, chế định pháp luật
dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa
đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của
các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư
pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận
cán bộ còn yếu, thậm chí còn có hiện tượng sa sút về phẩm chất, đạo đức
và trách nhiệm nghề nghiệp. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ
quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu. Những bất cập nói trên đã ảnh
hưởng đến chất lượng và hiệu quả của các cơ quan tư pháp trong quá trình
bảo vệ công lý. Nhận thức đầy đủ về công lý và yêu cầu bảo vệ công lý
và quyền tiếp cận công lý của các tổ chức và cá nhân, Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng ta đã khẳng định những phương hướng
cải cách cơ bản sau trong lĩnh vực tư pháp:
Thứ nhất,
hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn
thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công
khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Thứ hai,
tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa
học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc;
trong đó xác định toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm; xã hội hoá mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp.
Thứ ba,
xây đựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức
danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng
cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên
môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ,
tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh.
Thứ tư, đổi
mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của
các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư
pháp./.
Ths. Luật so sánh Nguyễn Xuân Tùng - Trưởng phòng Công tác cán bộ Vụ TCCB
[1] Nguyễn Anh Tuấn: Khảo lược Bộ luật Hammurabi của Nhà nước lưỡng hà cổ đại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2008.
[2] Will Durant: Nguồn gốc văn minh, Nhà Xuất bản văn hoá thông tin, năm 2006.
[3] Will Durant: Câu chuyện triết học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2009.
[4] Raymond Wacks: Triết học luật pháp (Phạm Kiều Tùng dịch), Nhà xuất bản tri thức, năm 2011.
[5] Vũ Dương Minh (chủ biên): Lịch sử văn minh thế giới, Nhà xuất bản giáo dục, năm 2007.
[6] F.A. Hayek: Đường về nô lệ (Phạm Nguyên Trường dịch), Nhà xuất bản tri thức, năm 2009.
[7] John Rawls: Theory of Justice, The Belknap Press of Havard University Press, 1977.
[8] Michael Sandel: Justice:What’s the Right Thing to Do?: Công lý: Đâu là việc đúng nên làm?, Nhà xuất bản Trẻ, năm 2011.
[9] M.P. Golding: On the Adversary system and Justice, in Bronaugh, ed, Philosophical Law – Authority, Equality, Adjudication, Privacy, 1978.
[10] Adrian Zuckerman: Justice in Crisis, from Civil Justice in Crisis: Comparative Perpectives of Civil Procedure (1999).
[11] Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao (Đồng chủ biên): Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến (Một số tiểu luận của các học giả nước ngoài), Nhà xuất bản Lao động – xã hội, năm 2012, trang 33.
[12] Nhiều tác giả: Người Việt- Phẩm chất và thói hư tật xấu, Nhà xuất bản Thanh niên - Báo Tiền phong, năm 2008.
[13] TS. Huỳnh Văn Thới: Pháp luật được “đặt ra” hay “tìm ra”?, Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh tại http://phapluattp.vn/20100127110026883p1118c1119/phap-luat-duoc-dat-ra-hay-tim-ra.htm
[14] Nguyễn Thuý Hoàn: Đắc nhân tâm, Tạp chí Xây dựng Đảng tại http://www.xaydungdang.org.vn/Home/ykiendangvien/2011/4103/Dac-nhan-tam.aspx
0 nhận xét:
Đăng nhận xét